Sử dụng tác phẩm văn học nhằm phát triển năng lực thẩm mĩ cho trẻ mầm non

Abstract: Aesthetic education is an indispensable task in the care and education of preschool

children, it brings children interesting and unique things in life. Aesthetic education in the process

of familiarizing children with literature in a basic and systematic way is a central task of early

childhood education, contributing to the formation of a child's personality. This article analyzes

the role of literature in aesthetic education for preschool children; We also propose some measures

to use literary works to form and develop aesthetic competency for preschool children.

pdf 4 trang phuongnguyen 620
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng tác phẩm văn học nhằm phát triển năng lực thẩm mĩ cho trẻ mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng tác phẩm văn học nhằm phát triển năng lực thẩm mĩ cho trẻ mầm non

Sử dụng tác phẩm văn học nhằm phát triển năng lực thẩm mĩ cho trẻ mầm non
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 177-179; 176 
177 
Email: hoaphuong36@gmail.com 
SỬ DỤNG TÁC PHẨM VĂN HỌC NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THẨM MĨ 
CHO TRẺ MẦM NON 
Trần Thị Phượng - Trường Cao đẳng cộng đồng Kon Tum 
Ngày nhận bài: 30/6/2019; ngày chỉnh sửa: 10/7/2019; ngày duyệt đăng: 18/7/2019. 
Abstract: Aesthetic education is an indispensable task in the care and education of preschool 
children, it brings children interesting and unique things in life. Aesthetic education in the process 
of familiarizing children with literature in a basic and systematic way is a central task of early 
childhood education, contributing to the formation of a child's personality. This article analyzes 
the role of literature in aesthetic education for preschool children; We also propose some measures 
to use literary works to form and develop aesthetic competency for preschool children. 
Keywords: Literature, development, preschool children. 
1. Mở đầu 
Giáo dục thẩm mĩ (GDTM) là một nội dung quan 
trọng của giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ và là việc 
cần phải tiến hành một cách nghiêm túc từ tuổi mầm 
non. Có thể coi trẻ mầm non là thời kì “hoàng kim” của 
GDTM. Ở lứa tuổi này, tâm hồn trẻ rất nhạy cảm dễ xúc 
động đối với con người và cảnh vật xung quanh, trí 
tưởng tượng của trẻ bay bổng và phong phú. Do vậy, 
năng khiếu nghệ thuật cũng được nảy sinh và phát triển 
mạnh mẽ. 
Khi nói đến GDTM cho trẻ mẫu giáo, chúng ta 
thường coi đó là nhiệm vụ của trường mầm non với các 
tiết học tạo hình, âm nhạc, mà hầu như ít chú ý đến các 
tiết học khác và các hoạt động khác của trẻ, đặc biệt là 
văn học. Sự cảm nhận đầu tiên, rực rỡ nhất, ấn tượng nhất 
về vẻ đẹp được bắt nguồn từ thẩm mĩ trong những tác 
phẩm văn học. Chính trong nội dung các tác phẩm văn 
học thể hiện mối quan hệ giao tiếp - ứng xử tốt đẹp giữa 
con người với con người và giữa con người với cảnh vật 
xung quanh. Cái đẹp trong văn học còn thể hiện ở nghệ 
thuật ngôn từ giàu hình ảnh và sức gợi cảm. Do đó, cho 
trẻ làm quen với tác phẩm văn học là điều kiện quan trọng 
để GDTM cho trẻ ở trường mầm non. 
Bài viết này phân tích vai trò của văn học trong việc 
GDTM cho trẻ mầm non; đề xuất một số biện pháp sử 
dụng tác phẩm văn học nhằm hình thành, phát triển năng 
lực thẩm mĩ cho trẻ mầm non 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Vai trò của văn học trong việc giáo dục thẩm mĩ 
cho trẻ mầm non 
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là đưa đến 
cho trẻ một chân trời mới của nghệ thuật văn chương, chỉ 
văn chương thôi chứ chưa phải văn học với tư cách là 
một môn văn hóa đầy đủ. Tác phẩm văn học là một hiện 
tượng phong phú, phức tạp nhất của khoa học nghiên cứu 
văn học. Cho trẻ 3-6 tuổi tiếp xúc với tác phẩm văn học 
là để trẻ bước đầu cảm nhận được sự độc đáo về phong 
cách nghệ thuật và vẻ đẹp riêng của nội dung, hình thức 
văn chương. Đây là “thế giới mới” của cuộc sống thực 
tại, bao gồm thiên nhiên, xã hội con người được diễn tả, 
biểu đạt, truyền đạt trong các hình thức đa dạng, độc đáo. 
Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây, hoa lá, mọi 
hiện tượng thiên nhiên vũ trụ mà trẻ nhìn thấy được; cũng 
nói về những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ 
như làng quê, cánh đồng, phiên chợ, lớp học, dòng sông, 
khu phố...; trẻ được cảm nhận thêm tình làng nghĩa xóm, 
tình cảm gia đình, tình bạn, tình yêu. Văn học có thể đề 
cập những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, 
cô tiên, phù thủy, quỷ sứ và những “phép mầu” còn 
tồn đọng trong tâm thức dân tộc. Đó cũng là đối tượng 
miêu tả của văn học, làm nên sự phong phú, hấp dẫn của 
đời sống tinh thần. Nhờ số lượng văn học đáng kể, trẻ sẽ 
nhận dạng được văn học, đó là khả năng mô tả cuộc sống 
xung quanh phong phú hấp dẫn bằng những dạng thức 
khác nhau. Trẻ sẽ nhận biết sự khác nhau về nội dung và 
hình thức giữa các thể loại (thơ, truyện). Trẻ biết phân 
biệt đó là “cổ tích”; nhận được sự khác nhau của các thể 
loại tác phẩm, cảm nhận được cái đặc sắc của cách diễn 
đạt hình tượng, qua đó phát triển đời sống tinh thần. 
Làm quen với tác phẩm văn học như một cấu trúc 
hoàn chỉnh, giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ biểu hiện 
giữa hoàn cảnh, trạng thái tình huống và nhân vật, giữa 
lời kể, lời thuật, lời bạch trữ tình và ngôn ngữ nhân vật: 
giữa không khí âm sắc giọng điệu chung của tác phẩm 
văn học và hành động văn học; bước đầu giúp trẻ nhận 
ra sự khác nhau giữa ngôn ngữ truyện thiên về ngôn ngữ 
đời thường (khẩu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính, 
giàu hình ảnh. Qua tác phẩm văn học, trẻ quen dần tính 
chất nhiều nghĩa và tinh luyện của ngôn ngữ văn học; dần 
hiểu được nghĩa thực đến nghĩa bóng, từ nghĩa văn cảnh 
đến ý tưởng nhà văn truyền đạt. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 177-179; 176 
178 
Từ đặc điểm trẻ tiếp nhận tác phẩm văn học chỉ bằng 
con đường gián tiếp (vì trẻ chưa đọc được mà chỉ nghe 
đọc, nghe kể mà thôi) nên phải tăng cường rèn luyện sức 
nghe cho trẻ. Đó là sức nghe tối đa về nhạc cảm và sự đa 
thanh, nghe được hết những cung bậc âm thanh và nhịp 
điệu khác nhau trong cuộc sống; nghe ra những âm thanh 
mới lạ, huyền diệu của thiên nhiên như tiếng nẩy mầm 
của hạt, tiếng chim hót, tiếng suối róc rách, tiếng mưa rơi 
trên biển trong đêm thu; nghe ra những âm sắc biểu cảm, 
những rung cảm của trái tim cùng nhịp điệu hài hòa giữa 
vũ trụ và con người. Ngay từ khi còn trong bào thai, trẻ 
đã sống trong nhịp điệu, lời ru, tiếng hát, vũ điệu, âm 
nhạc những mới dây liên hệ tưởng như vô hình giữa con 
người với trời đất. Đó là tiếng của sự sống đang sinh sôi 
nảy nở, là khúc vang vọng tâm hồn trong im lặng. 
Văn học là một loại hình nghệ thuật và được coi là 
một trong những phương tiện giáo dục trẻ em rất hiệu 
quả. Các tác phẩm văn học không chỉ giúp trẻ mở rộng 
nhận thức về thế giới xung quanh mà còn góp phần hỗ 
trợ trẻ em nói chung, trẻ mầm non nói riêng trong việc 
phát triển ngôn ngữ, thể chất, thẩm mĩ, tình cảm xã hội. 
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong sử dụng tác phẩm văn 
học nhằm giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mầm non trên địa 
bàn thành phố Kon Tum 
Thực tế công tác GDTM ở các trường mầm non trên 
địa bàn thành phố Kon Tum những năm gần đây đã được 
chú trọng hơn. GDTM cho trẻ đã được lồng ghép thông 
qua các hoạt động vui chơi, học tập; được thực hiện 
qua các chuyên đề đổi mới nội dung, hình thức phù hợp 
với độ tuổi, đặc điểm tâm sinh lí của trẻ. Việc lồng ghép, 
tích hợp GDTM vận dụng thông qua các môn tạo hình, 
âm nhạc, văn học cũng đã được quan tâm, giúp phát 
triển ở trẻ kĩ năng quan sát các sự vật hiện tượng xung 
quanh, khả năng cảm thụ thiên nhiên cũng như xúc cảm 
trong mối quan hệ giao tiếp với người thân, qua đó hình 
thành cho trẻ những hành vi ứng xử văn minh. 
Tuy nhiên, vẫn còn một số giáo viên và cán bộ quản 
lí nhận thức chưa hoàn toàn đúng đắn về ý nghĩa, tầm 
quan trọng đặc biệt của GDTM đối với trẻ ở lứa tuổi này. 
Chúng ta chú ý nhiều đến sự phát triển trí tuệ, phát triển 
đạo đức của trẻ mà chưa thực sự coi trọng sự phát triển 
thẩm mĩ, chưa thực sự nhận thức được rằng chính sự phát 
triển khả năng thẩm mĩ của mỗi cá nhân sẽ nâng con 
người lên một tầm giá trị mới - bởi vì nếu không có các 
năng lực thẩm mĩ thì sự nhận thức thế giới khách quan 
của con người sẽ “lạnh lùng, khô cứng”. Giáo viên mầm 
non cần nhận thức đúng điều này và quán triệt nhiệm vụ 
GDTM trong tất cả các hoạt động giáo dục ở trường MN. 
Hiện nay, nhiệm vụ GDTM đã được các giáo viên 
thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục ở trường 
mầm non, được lồng ghép trong mọi sinh hoạt của nhà 
trường. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhiệm vụ GDTM 
cũng được gắn liền với các hoạt động giáo dục ở mức độ 
thường xuyên. Nhiều khi do giáo viên quá chú ý đến nội 
dung tri thức cơ bản của hoạt động giáo dục cần thực hiện 
với trẻ mà ít chú ý đến nội dung thẩm mĩ có thể giáo dục 
cho các em qua hoạt động này. Khi trao đổi với giáo viên 
về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy có một số giáo viên 
thậm chí chưa hiểu rõ các nội dung GDTM cần thực hiện 
trong trường mầm non cũng như những biểu hiện về mặt 
thẩm mĩ của trẻ qua mọi loại hình hoạt động. Điều đó dẫn 
đến tình trạng là họ không biết đưa nội dung GDTM vào 
một số hoạt động giáo dục như thế nào. 
Hầu hết giáo viên có quan niệm là GDTM chủ yếu 
gắn liền với các hoạt động giáo dục nghệ thuật như hoạt 
động tạo hình, hoạt động âm nhạc. Nhiều giáo viên chưa 
thực sự hiểu hết bản chất sâu rộng của GDTM tiềm ẩn 
trong nội dung của các hoạt động giáo dục khác như: 
khám phá khoa học về môi trường xung quanh, hoạt 
động vui chơi, hoạt động lao động, đặc biệt là hoạt 
động làm quen với văn học. Đây là hoạt động cung cấp 
cho trẻ nhiều kiến thức về mặt TM. Nội dung giáo dục 
văn học ở trường mầm non luôn lôi cuốn trẻ, mang đến 
cho trẻ sự say mê, làm xuất hiện ở trẻ những cảm xúc tích 
cực, tác động mạnh mẽ đến tình cảm của trẻ, thúc đẩy trẻ 
mong muốn hành động theo những cái đẹp, cái tốt. Tuy 
nhiên, vẫn còn một số giáo viên chưa thấy hết được các 
giá trị thẩm mĩ chứa đựng trong nội dung giáo dục văn 
học ở trường mầm non nên không tận dụng triệt để hoạt 
động này để GDTM cho trẻ. 
Một số nguyên nhân dẫn đến chất lượng GDTM cho 
trẻ thông qua hoạt động làm quen với văn học chưa đạt 
hiệu quả cao, đó là: trình độ giáo viên không đồng đều, 
năng lực cảm thụ tác phẩm văn học còn hạn chế, chưa 
phát huy được vai trò dạy học sáng tạo, đôi khi còn rập 
khuôn, máy móc; chưa phát huy được tính tích cực, chủ 
động, sáng tạo ở trẻ; việc bồi dưỡng kĩ năng GDTM cho 
giáo viên hàng năm chưa được sâu sát và đầy đủ; chưa 
có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong 
nhiệm vụ GDTM cho trẻ mầm non, đa số phụ huynh có 
quan niệm trẻ đến lớp chủ yếu là để học chữ, học toán. 
2.3. Một số biện pháp sử dụng tác phẩm văn học nhằm 
phát triển năng lực thẩm mĩ cho trẻ mầm non 
Biện pháp 1: Đọc và kể diễn cảm tác phẩm văn học 
Trẻ mầm non chưa đọc, chưa viết được, đến lớp với 
tâm hồn đón đợi hướng về cô giáo, coi cô là “cầu nối” trẻ 
với tác phẩm. Phương pháp này được coi là phương pháp 
chủ đạo. Đọc có sự sáng tạo của cá nhân làm cho tác 
phẩm văn học vốn là những kí hiệu thẩm mĩ sống dậy, 
cất tiếng nói, vì vậy cô giáo cần sử dụng mọi sắc thái của 
giọng mình cùng với các hình thức biểu hiện khác cho 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 177-179; 176 
179 
tác phẩm một bức tranh tương ứng. Đọc đòi hỏi sự trung 
thành với tác phẩm, truyền đạt thông tin đầy đủ, chính 
xác. Ở đây đòi hỏi sự hiểu biết mọi thành tố nội dung và 
hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Phải đọc đúng giọng 
điệu, âm hưởng sắc thái của tác phẩm, cũng có nghĩa là 
phải đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Phương pháp đọc 
và kể tác phẩm có nghệ thuật đòi hỏi mức độ cao hơn đọc 
diễn cảm vì đã đi vào bản chất nghệ thuật của tác phẩm, 
đào sâu sự sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Kể sáng tạo 
có nghệ thuật mở ra cho cô giáo sự sáng tạo nhiều hơn 
đọc, người kể có thể hòa trộn ngôn ngữ tác phẩm và ngôn 
ngữ của mình, bằng sự cảm thụ riêng có thể tô đậm ý 
chính, tình tiết hay hình ảnh đẹp với những cách trình bày 
khác nhau. Kể bằng giọng thủ thỉ, chậm hơn đọc, truyền 
cảm cùng với việc trình bày tác phẩm khéo léo làm cho 
lượng thông tin được dãn ra, trẻ đỡ căng thẳng khi theo 
dõi. Hơn nữa, việc phối hợp giọng kể với những cử chỉ, 
điệu bộ, nét mặt, ánh mắt - những yếu tố phi ngôn ngữ - 
sẽ giúp trẻ thâm nhập sâu hơn, hiểu rõ hơn ý nghĩa của 
truyện. Với sự cảm thụ riêng của cô, ý nghĩa tác phẩm 
vượt ra ngoài văn bản. Lời kể của cô như là sự bổ sung 
tạo nên mối quan hệ thâm tình giữa cô và trẻ. Phương 
pháp kể đòi hỏi sự khúc chiết, sinh động, tạo khả năng 
ghi nhớ thông qua năng lực nghe, nhìn, sự cảm nhận sắc 
thái biểu cảm và thái độ, tình cảm của tác giả, của người 
kể gây ấn tượng mạnh cho trẻ. Rõ ràng, nhu cầu sáng tạo 
phát sinh từ phía trẻ, bạn đọc nhỏ tuổi này tác động đến 
sự hoàn chỉnh văn bản kể. Thông qua vai trò “trung gian” 
của cô giáo, thấy rõ mối quan hệ giữa tác giả - tác phẩm 
- bạn đọc nhỏ tuổi. Phương pháp này đòi hỏi cao, hướng 
vào việc giao tiếp giữa cô và trẻ. Cô phải là nhà sư phạm, 
là nghệ sĩ, biết kết hợp chất giọng với hình thể và các 
hình thức nghệ thuật khác để trình bày tác phẩm sáng tạo. 
Biện pháp 2: Sử dụng phương pháp đàm thoại giúp 
trẻ lĩnh hội nội dung, ý nghĩa tác phẩm 
Nhằm kích thích hoạt động nhận thức của trẻ, phương 
pháp đàm thoại khi được sử dụng đòi hỏi phải lôi cuốn 
trẻ bộc lộ suy nghĩ cảm nhận riêng của mình - hay nói 
khác là khơi gợi để trẻ bộc lộ cảm thụ của cá nhân tự do, 
hồn nhiên. Cần có một hệ thống câu hỏi thông minh và 
khéo léo để cuốn hút trẻ tranh luận. Muốn có câu hỏi hay, 
cô giáo phải hiểu sâu sắc tác phẩm, mục đích yêu cầu của 
tiết học. Biêlinxki nói “người đem tác phẩm văn học đến 
cho người khác, trước hết phải là người có cảm xúc và 
tin vào nghệ thuật”, ở đây sự giao tiếp giữa cô và trẻ cần 
cởi mở, tự nhiên như một cuộc trò chuyện có định hướng. 
Trẻ cần học được và nắm vững giá trị thẩm mĩ qua làm 
quen với tác phẩm văn học. Giáo viên cần cho trẻ cảm thụ 
được giá trị nội dung và hình thức tác phẩm, hình thành ở 
trẻ khả năng cảm thụ văn học, để trẻ yêu thích văn học, thích 
tham gia vào các hoạt động mang đậm tính chất “văn học 
nghệ thuật” như đọc thơ, kể chuyện, nhập vai trong các trò 
chơi đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học, đê từ đó tiến tới 
sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật của mình. 
Biện pháp 3: Thúc đẩy năng lực hoạt động nghệ thuật 
một cách sáng tạo ở trẻ 
Ngôn ngữ, hình thể của cô giáo là một phương tiện 
trực quan hỗ trợ, bổ sung, làm sâu sắc hơn, sống dậy hình 
tượng tác phẩm. Khả năng rung cảm, hiểu biết tác phẩm 
của cô sẽ bộc lộ qua ngôn ngữ, ánh mắt, cử chỉ, nét mặt, 
điệu bộ khi trình bày tác phẩm khiến trẻ có thể cảm nhận 
bằng trực cảm. Đây cũng là yếu tố thúc đẩy năng lực hoạt 
động nghệ thuật ở trẻ. 
Việc tổ chức dạy và học thích hợp với mối quan hệ 
với đối tượng và chủ thể là phương tiện để làm giàu năng 
lực tự hoạt động nghệ thuật của trẻ, tăng cường cho trẻ 
tham gia vào vui chơi, lễ hội, xem các hoạt động nghệ 
thuật, tích luỹ vốn văn học nghệ thuật bằng việc cho trẻ 
nghe nhiều tác phẩm văn học chọn lọc. Phải dạy trẻ biết 
lắng mình với tác phẩm văn học, hòa vào cõi mộng mơ, 
trau dồi thói quen đón nhận được các hòa âm tinh tế 
thoáng qua, bất chợt đến từ các nguồn sống khác. Lắng 
mình, an tĩnh đến mức quên tất cả bản thân mình thì khả 
năng sáng tạo trong sức nghe sẽ biểu lộ. Đó là sự “đồng 
hóa” của cá nhân trẻ vào đối tượng nghệ thuật và cũng là 
sự bột phát của tâm linh, nhu cầu bộc lộ những khát khao 
sống, những khát vọng mơ ước của tuổi thơ. Từ nghe ra 
nhìn thấy, trẻ bước vào hoạt động nghệ thuật một cách tự 
nhiên, đó là khi trẻ say sưa đọc một bài thơ, cũng là lúc 
trẻ tự kể, sống với câu chuyện kể của mình. 
Biện pháp 4: Xây dựng góc thư viện sinh động, hấp 
dẫn 
Góc thư viện cần được sắp xếp gọn gàng, có nhiều 
truyện tranh phù hợp với trẻ ở từng độ tuổi, được trang 
trí theo từng chủ đề đang thực hiện ở trường mầm non. 
Hệ thống các giá sách cũng cần được bài trí và sắp đặt 
thuận tiện cho các hoạt động của trẻ tại góc thư viện. 
Cùng với việc xây dựng góc thư viện, giáo viên cần tạo 
cho trẻ nền nếp, thói quen đọc sách; tạo môi trường sư 
phạm giàu thẩm mĩ, trong đó có việc trang trí lớp học, 
trang phục của giáo viên, tạo cho trẻ cảm xúc, ấn tượng, 
thị hiếu thẩm mĩ. Các đồ vật được bày đặt, sắp xếp hợp 
lí, đẹp mắt, có nghệ thuật sẽ nảy sinh óc thẩm mĩ, nhu 
cầu, hoạt động nghệ thuật ở con người. 
Ngoài ra, nên trang trí một số các hình ảnh hấp dẫn, 
sinh động trên nóc các kệ tủ; hoặc dán các hình trang trí 
là các nhân vật trong truyện cổ tích hay các câu chuyện 
thần kì để tạo ra một không gian kì thú để thu hút trẻ hơn, 
qua đó kích thích trẻ sáng tạo. Đồng thời, qua đó cũng 
hình thành ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp, nhu cầu, mong 
muốn được đọc sách. 
(Xem tiếp trang 176) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 173-176 
176 
chơi gãy tạo ra các điểm sắc nhọn hoặc tạo ra các mảnh 
vụn dễ gây chấn thương hoặc hóc, sặc cho trẻ. Cần đặc 
biệt chú ý đến các phần bằng gỗ, các đầu mối kim loại, 
các đồ chơi có nhiều phần gắn kết không chắc chắn và sự 
chắc bền của màu sắc. 
3. Kết luận 
Trẻ thuộc bất cứ độ tuổi nào đều thích chơi. Hoạt 
động này giúp chúng phát triển các năng lực thể chất và 
tâm hồn; tận hưởng không gian ngoài trời, hiểu hơn về 
thế giới của mình, tương tác với những người khác; bộc 
lộ, kiểm soát cảm xúc, phát triển khả năng kí hiệu và giải 
quyết vấn đề. Trong thế giới vĩ mô, trẻ em làm chủ thế 
giới của mình giống như việc chúng làm chủ được những 
đồ chơi của mình. Đồ chơi và các loại học liệu được sử 
dụng như những phương tiện giúp trẻ phát triển. Việc xác 
định đúng và đủ 9 yêu cầu sư phạm đối với đồ chơi trẻ 
em là một việc rất quan trọng, khi tuân thủ các yêu cầu 
này sẽ làm cho đồ chơi trở nên toàn diện và đóng góp cho 
sự phát triển các mặt về kĩ năng xã hội, cảm xúc, thể chất, 
tinh thần và thẩm mĩ của trẻ. 
Bài viết trích từ đề tài KHCN cấp Nhà nước 
“Nghiên cứu giải pháp phát triển hệ thống đồ chơi 
phục vụ hoạt động giáo dục trẻ, đáp ứng yêu cầu đổi 
mới giáo dục mầm non”. Mã số của đề tài: KHGD/16 
-20.ĐT.014. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hoàng Phê (chủ biên, 2008). Từ điển tiếng Việt. 
NXB Đà Nẵng. 
[2] T.A. Culikova - X. A. Cozlova (2002). Giáo dục học 
mầm non. Matxcova - Akademia. 
[3] Phan Đông Phương (2007). Một số biện pháp tổ 
chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tự làm đồ chơi trong 
các góc hoạt động. Đề tài cấp Viện Khoa học Giáo 
dục Việt Nam, mã số V2006- 07. 
[4] Shelley Frost (2014). Guidelines for Choosing 
Developmentally Appropriate Toys for Young 
Children. United States National Library. 
[5] Ruffino, A. G - Mistrett, S. G - Tomita, M - Hajare 
(2006). The universal design for play tool: 
Establishing validity and reliability. Journal of 
Special Education Technology, Vol. 21, pp. 25-38. 
[6] Phan Đông Phương (2003). Tự tạo và sử dụng có 
hiệu quả đồ dùng đồ chơi trong các góc hoạt động 
của trẻ mẫu giáo 5 tuổi bằng những nguyên vật liệu 
dễ kiếm, rẻ tiền. Đề tài cấp cơ sở Viện Khoa học 
Giáo dục Việt Nam, mã số C9-2002. 
[7] Bộ GD-ĐT (2010). Đề án “Phát triển thiết bị dạy 
học tự làm giáo dục mầm non và phổ thông giai 
đoạn 2010-2015”. 
SỬ DỤNG TÁC PHẨM VĂN HỌC 
(Tiếp theo trang 179) 
3. Kết luận 
GDTM là một nhiệm vụ không thể thiếu trong công 
tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non, mang đến cho trẻ 
những điều thú vị và độc đáo trong cuộc sống. Văn học 
khơi dậy và tiếp sức cho những rung động về cái đẹp, 
nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ, gìn giữ phát triển chất 
nghệ sĩ vốn có trong tâm hồn,... ở mỗi người; hình thành 
ở họ tấm lòng hồn hậu, không nguội lạnh, thờ ơ với số 
phận con người; biết ghét những cái xấu, cái ác, biết 
thương yêu, trân trọng điều tốt đẹp. GDTM trong quá 
trình cho trẻ làm quen với văn học một cách cơ bản và hệ 
thống là một nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, 
góp phần hình thành nhân cách trẻ. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Bộ GD-ĐT (2017). Thông tư số 01/VBHN-BGDĐT 
ngày 24/01/2017 ban hành Chương trình giáo dục 
mầm non. 
[2] Hà Nguyễn Kim Giang (2009). Phương pháp tổ 
chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học. 
NXB Giáo dục Việt Nam. 
[3] Nguyễn Cẩm Giang - Phạm Thị Thu (2015). Tuyển 
chọn thơ, truyện cho trẻ mầm non. NXB Văn học. 
[4] Lã Thị Bắc Lý (2012). Văn học thiếu nhi với giáo 
dục trẻ em lứa tuổi mầm non. NXB Đại học Sư 
phạm. 
[5] Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) - Nguyễn Thị Như 
Mai - Đinh Thị Kim Thoa (2015). Tâm lí học trẻ em 
lứa tuổi mầm non từ lọt lòng đến 6 tuổi. NXB Đại 
học Sư phạm. 
[6] Lã Thị Bắc Lý (2012). Giáo trình văn học thiếu nhi 
và đọc, kể diễn cảm. NXB Giáo dục Việt Nam. 
[7] Barbara C. Lust (2006). Child Language: 
Acquisition and Growth. Cambridge University 
Press, UK. 
[8] Caroline Rowland (2014). Understanding Child 
Language Acquisition. Routlege: Taylors & Francis 
Group, London, UK. 

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_tac_pham_van_hoc_nham_phat_trien_nang_luc_tham_mi_ch.pdf