Sử dụng số lượng bạch cầu ái toan trong máu ngoại biên để quản lý bệnh nhân COPD
Bạch cầu ái toan là một bạch cầu với nhiều tính trạng có nguồn gốc từ các tế bào tiền thân trong tủy xương và nó được kích hoạt và nhân lên bằng các phản ứng viêm, cũng như từ sự điều hòa miễn dịch thu được bằng cách kích hoạt tế bào T (1). Nó bị ảnh hưởng rất nhiều bởi Interleukin (IL) -5. Các bạch cầu ái toan cư trú với số lượng lớn trong đường tiêu hóa; phổi không phải là môi trường tự nhiên của nó. Do đó, sự hiện diện của bạch cầu ái toan trong phổi thường cho thấy phản ứng viêm bất thường. Sự hiện diện của tăng bạch cầu ái toan trong mẫu đàm, dịch rửa phế quản và / hoặc mô sinh thiết đã được sử dụng làm bằng chứng bệnh lý của các bệnh như hen, các hội chứng tăng bạch cầu ái toan trong phổi, rối loạn tự miễn và các khối u ở phổi. Nhiều bệnh phổi thường có liên quan đến tăng bạch cầu ái toan được tính bằng số lượng tuyệt đối trong máu ngoại vi. Trong cộng đồng nói chung, bạch cầu ái toan bằng khoảng 1% đến 4% bạch cầu trung tính, với giới hạn trên của mức bình thường được cho phép là 350 tế bào trên một milimét khối
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng số lượng bạch cầu ái toan trong máu ngoại biên để quản lý bệnh nhân COPD
47 Hô hấp số 19/2019 Bạch cầu ái toan là một bạch cầu với nhiều tính trạng có nguồn gốc từ các tế bào tiền thân trong tủy xương và nó được kích hoạt và nhân lên bằng các phản ứng viêm, cũng như từ sự điều hòa miễn dịch thu được bằng cách kích hoạt tế bào T (1). Nó bị ảnh hưởng rất nhiều bởi Interleukin (IL) -5. Các bạch cầu ái toan cư trú với số lượng lớn trong đường tiêu hóa; phổi không phải là môi trường tự nhiên của nó. Do đó, sự hiện diện của bạch cầu ái toan trong phổi thường cho thấy phản ứng viêm bất thường. Sự hiện diện của tăng bạch cầu ái toan trong mẫu đàm, dịch rửa phế quản và / hoặc mô sinh thiết đã được sử dụng làm bằng chứng bệnh lý của các bệnh như hen, các hội chứng tăng bạch cầu ái toan trong phổi, rối loạn tự miễn và các khối u ở phổi. Nhiều bệnh phổi thường có liên quan đến tăng bạch cầu ái toan được tính bằng số lượng tuyệt đối trong máu ngoại vi. Trong cộng đồng nói chung, bạch cầu ái toan bằng khoảng 1% đến 4% bạch cầu trung tính, với giới hạn trên của mức bình thường được cho phép là 350 tế bào trên một milimét khối. Bạch cầu ái toan tăng nhẹ được định nghĩa là 351 đến 500 tế bào trên một milimét khối, tăng bạch cầu ái toan trung bình là giá trị từ 500 đến 1.500 tế bào trên một milimét khối và tăng bạch cầu ái toan nặng là giá trị lớn hơn 1.500 tế bào trên một milimét khối. Điều quan trọng cần biết là các giá trị bình thường về số lượng bạch cầu ái toan có thể khác nhau ở các khu vực trên thế giới, nhưng cần có dữ liệu đáng tin cậy để xác nhận thông tin này. Tuy nhiên, các chuyên gia đã đồng ý rằng để chẩn đoán tăng bạch cầu ái toan thì giá trị phải duy trì trong hơn 6 tháng (2), đây là một lưu ý quan trọng khi diễn giải số lượng bạch cầu ái toan tăng cao ở bất kỳ bệnh nhân cụ thể nào. Một số rối loạn liên quan bạch cầu ái toan, chẳng hạn như viêm gân gót bàn chân (fasciitis) do bạch cầu ái toan, không phải lúc nào cũng đi kèm với tăng bạch cầu ái toan máu, vì vậy chẩn đoán xác định chỉ được thực hiện với sự hiện diện của một số lượng lớn bạch cầu ái toan và phá hủy mô liên quan. Số lượng bạch cầu ái toan thường được báo cáo dựa trên tỷ lệ với tổng số bạch cầu, một giá trị dao động trong khoảng 1% đến 3%, mặc dù tỷ lệ này thay đổi trên phạm vi toàn thế giới. Trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), đã có những nỗ lực được thực hiện để phát hiện các dấu ấn sinh học có thể xác định các đặc điểm có thể trở thành mục tiêu cho các liệu pháp cụ thể trong điều trị (3). Do nồng độ bạch cầu ái toan trong máu có mối liên quan với lượng bạch cầu ái toan trong đờm nhưng dễ đo hơn, nên đã có sự Bài dịch SỬ DỤNG SỐ LƯỢNG BẠCH CẦU ÁI TOAN TRONG MÁU NGOẠI BIÊN ĐỂ QUẢN Lý BỆNH NHÂN COPD Dịch từ: Bartolome R. Celli and Gerard J. Criner. Using the Peripheral Blood Eosinophil Count to Manage Patients with Chronic Obstructive Pulmonary Disease. Ann Am Thorac Soc Vol 16, No 3, pp 301–303, Mar 2019. Người dịch: BS TRẦN NHỰT MINH Bệnh viện Đa Khoa Hoàn Mỹ Cửu Long E-mail: [email protected] Dịch 48 Hô hấp số 19/2019 quan tâm đến việc định lượng chúng như là dấu ấn sinh học tiềm năng phản ánh hoạt động của bệnh (4). Một số bằng chứng ủng hộ việc sử dụng eosinophil trong đờm và máu như là dấu ấn sinh học xác định bệnh nhân khả năng có nhiều đợt cấp và đáp ứng tốt hơn với glucocorticoids dạng hít và toàn thân hoặc các liệu pháp kháng bạch cầu ái toan khác (5). Các thuốc kháng viêm kể trên có hiệu quả trong việc giảm số lượng bạch cầu ái toan và cải thiện các biểu hiện lâm sàng của các bệnh trong đó bạch cầu ái toan có liên quan đến sinh bệnh học. Hơn nữa, số lượng bạch cầu ái toan càng cao, liệu pháp chống bạch cầu ái toan càng hiệu quả. Cụ thể, sự ra đời của các kháng thể đơn dòng có khả năng loại bỏ bạch cầu ái toan và các cytokine liên quan đến hoạt động của chúng đã mang lại lợi ích lâm sàng đáng kể cho bệnh nhân mắc các bệnh có vai trò điều khiển của bạch cầu ái toan (6), bao gồm một số bệnh nhân bị hen kháng glucocorticoid. Bằng chứng ủng hộ nhận định bạch cầu ái toan đóng vai trò then chốt ở bệnh nhân mắc COPD chủ yếu dựa trên các phân tích hồi cứu dữ liệu thử nghiệm lâm sàng điều tra việc sử dụng corticosteroid dạng hít (ICS) và thuốc giãn phế quản. Hầu hết các nghiên cứu này cho thấy tăng tỷ lệ đợt cấp ở bệnh nhân tăng bạch cầu ái toan trong máu, cũng như mối quan hệ giữa nồng độ bạch cầu ái toan trong máu và đáp ứng với ICS. Pascoe và các đồng nghiệp (7) đã xem xét dữ liệu của 3.177 bệnh nhân mắc COPD và tiền sử đợt cấp trước đó được điều trị bằng thuốc ICS/LABA (fluticasone/vilanterol) hoặc LABA (vilanterol). Tổng cộng có 2.083 bệnh nhân (66%) có số lượng bạch cầu ái toan lớn hơn hoặc bằng 2% khi vào nghiên cứu. Ở tất cả các liều ICS, đợt cấp giảm 29% so với nhóm LABA đơn thuần (trung bình 0,91 so với 1,28 đợt cấp/ bệnh nhân mỗi năm; P= 0,0001) ở bệnh nhân có số lượng bạch cầu ái toan lớn hơn hoặc bằng 2% và khoảng 10% (0,79 so với 0,89 ; P = 0,2827) ở bệnh nhân có số lượng bạch cầu ái toan dưới 2%. Giảm các đợt cấp với ICS/LABA so với LABA đơn thuần là 24% ở những bệnh nhân có số lượng bạch cầu ái toan lúc vào nghiên cứu lớn hơn hoặc bằng 2% đến dưới 4%, 32% đối với những người có số lượng lớn hơn 4% đến dưới 6% và 42% cho những người có số lượng bạch cầu ái toan lớn hơn hoặc bằng 6%. Siddiqui và đồng nghiệp (8) đã quan sát thấy một hiệu ứng tương tự bằng cách sử dụng kết hợp khác nhau của ICS/LABA (beclomethasone/formoterol) so với LABA đơn thuần; bệnh nhân trong nhóm eosinophil cao nhất (>281 tế bào / mm3) có lợi ích lớn nhất trong tỷ lệ đợt cấp và tình trạng sức khỏe. Kết hợp dữ liệu từ ba nghiên cứu sử dụng một ICS/LABA khác (fluticasone/salmeterol) so với LABA đơn thuần, Pavord và đồng nghiệp (9) đã báo cáo sự giảm tỷ lệ đợt cấp mà không ảnh hưởng đến suy giảm chức năng phổi hoặc tình trạng sức khỏe ở hai trong ba nghiên cứu sử dụng ngưỡng eosinophil là 2%. Số lượng nghiên cứu ủng hộ về mối quan hệ hiệu quả điều trị với bạch cầu ái toan có tăng lên, với một số cho thấy mối liên quan giữa mức độ bạch cầu ái toan và sự cải thiện chức năng phổi (10) hoặc giảm nhiều hơn số đợt cấp khi sử dụng ICS ở bệnh nhân có mức độ bạch cầu ái toan cao, với 300 tế bào trên một milimét khối là điểm cắt (11). Một nghiên cứu đoàn hệ lớn (81.668 đối tượng) từ dân số chung ở Copenhagen, 2.662 người mắc COPD, cho thấy mức độ bạch cầu ái toan lớn hơn 343 tế bào trên mỗi microliter có tỷ lệ được điều chỉnh đa biến là 1,76 (khoảng tin cậy 95%, 1,56 - 1,99) đợt cấp mỗi năm khi theo dõi trung bình 3 năm (12). Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là hầu hết tất cả các dữ liệu chứng minh mối liên quan giữa bạch cầu ái toan trong máu và các đợt cấp của COPD cũng đáp ứng với ICS đã được lấy từ các bệnh nhân được chọn để thử nghiệm lâm sàng là những bệnh nhân có nhiều đợt cấp trước đó. Thực tế này có thể giúp giải thích tại sao nồng độ bạch cầu ái toan ngoại biên thu được từ các bệnh nhân tham gia vào hầu hết các quan sát đoàn hệ không chứng minh được mối quan hệ nhất quán với kết quả lâm sàng hoặc đáp ứng điều trị. Ngược lại, các nghiên cứu khác (chủ yếu sử dụng quan sát đoàn hệ) đã không thể hiện mối liên quan giữa mức độ bạch cầu ái toan và kết Dịch 49 Hô hấp số 19/2019 quả thấp. DiSantostefano và các đồng nghiệp đã kiểm tra mối quan hệ giữa mức độ bạch cầu ái toan và đặc điểm lâm sàng trong dân số Hoa Kỳ nói chung và thấy rằng mức độ bạch cầu ái toan lớn hơn 2% có liên quan với ít bệnh đi kèm hơn (13). Suzuki và đồng nghiệp đã theo dõi 268 bệnh nhân Nhật Bản mắc COPD và thấy rằng 19% trong số này có số lượng bạch cầu ái toan trong máu lớn hơn 300 tế bào trên một milimét khối, và sự hiện diện của tăng bạch cầu ái toan có liên quan đến không nguy cơ tăng đợt cấp trong 5 năm nhưng giảm thấp nguy cơ tử vong hơn 10 năm (14). Zysman và các đồng nghiệp đã báo cáo những phát hiện tương tự ở 458 bệnh nhân mắc COPD; độc lập với các giá trị điểm cắt eosinophil được sử dụng (2%, 3% hoặc 4%), không có sự khác biệt giữa 2 nhóm dương tính với eosinophil và eosinophil âm tính trong tỷ lệ đợt cấp, tiền sử hen suyễn hoặc sống sót 3 năm (15). Hastie và các đồng nghiệp, đã báo cáo, trong một nhóm đặc trưng gồm 2.449 bệnh nhân hút thuốc lá trước đây và hiện tại mắc COPD từ nghiên cứu SPIROMICS (Phân tích dưới nhóm và các kết quả đầu ra trong nghiên cứu COPD), rằng bạch cầu ái toan đờm là một dấu ấn sinh học tốt hơn so với bệnh bạch cầu ái toan trong máu với các trường hợp bệnh nặng hơn, đợt cấp thường xuyên hơn và tăng khí phế thũng bằng chụp cắt lớp vi tính (16). Bạch cầu ái toan đơn thuần không phải là một dấu ấn sinh học đáng tin cậy cho COPD mức độ nặng hoặc số lượng đợt cấp. Cuối cùng, Casanova và đồng nghiệp đã theo dõi 424 bệnh nhân mắc COPD và 67 người hút thuốc mà không mắc COPD từ nghiên cứu CHAIN (Đánh giá lịch sử bệnh nhân COPD ở Tây Ban Nha), thêm vào đó là 308 bệnh nhân mắc COPD trong nghiên cứu BODE (chỉ số khối cơ thể, tắc nghẽn, khó thở, chỉ số gắng sức), trong 62 tháng sau ba lần đo bạch cầu ái toan máu được thực hiện trong 2 năm để thiết lập sự ổn định (17). Không có sự khác biệt về số lượng bạch cầu ái toan trong máu giữa bệnh nhân mắc COPD và đối tượng kiểm soát cùng lứa tuổi. Hơn 40% bệnh nhân có sự thay đổi đáng kể về nồng độ bạch cầu ái toan trong máu khi sử dụng ngưỡng 300 tế bào trên một milimét khối, và trong đoàn hệ này, mức độ bạch cầu ái toan không làm tăng nguy cơ trầm trọng. Điều thú vị là, theo phát hiện của Suzuki và các đồng nghiệp, nguy cơ tử vong thấp hơn ở những bệnh nhân có mức bạch cầu ái toan lớn hơn 300 tế bào trên một milimét khối. Kết hợp lại với nhau, những dữ liệu này cho thấy rằng sự hiện diện của bạch cầu ái toan ở bệnh nhân có tiền sử đợt cấp có thể chỉ ra tiềm năng đáp ứng đối với ICS; tuy nhiên, nó có thể không nhất thiết ngụ ý vai trò bệnh lý của bạch cầu ái toan trong nguồn gốc của các đợt cấp. Thật vậy, một thử nghiệm mepolizumab kéo dài 1 năm gần đây được tiến hành ở những bệnh nhân có tiền sử nhiều đợt cấp và đã được điều trị bằng thuốc giãn phế quản và ICS đã cho thấy tác động nhỏ đến tỉ lệ đợt cấp mà không ảnh hưởng đến chức năng phổi và tình trạng sức khỏe mặc dù số lượng bạch cầu ái toan giảm đáng kể (18). Hơn nữa, một thử nghiệm lâm sàng với số lượng mẫu lớn về một kháng thể đơn dòng nhắm vào chức năng eosinophil và IL-5 (benralizumab) đã thất bại trong việc làm giảm tỷ lệ đợt cấp ở những bệnh nhân mắc COPD từ trung bình đến nặng được chọn lọc ở mức cơ bản cho số lượng bạch cầu ái toan tăng cao (19). Một thực tế quan trọng đã xuất hiện từ tất cả các nghiên cứu này là đáp ứng kém với ICS được thấy ở những bệnh nhân có số lượng bạch cầu ái toan trong máu thấp (<150 tế bào/mm3) (8,18). Điều quan trọng không kém là nguy cơ tiềm tàng viêm phổi có thể xảy ra ở những bệnh nhân mắc COPD và bạch cầu ái toan máu dưới 100 tế bào trên một milimét khối khi nhận được điều trị ICS, như đã báo cáo trong một phân tích tổng hợp gần đây về các thử nghiệm này (20). Trong bối cảnh này, dữ liệu từ các nghiên cứu đoàn hệ cung cấp một tín hiệu tương tự. Bệnh nhân có số lượng bạch cầu ái toan thấp hơn có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn và tình trạng sức khỏe suy yếu nhiều hơn trong những nghiên cứu (15) và tăng nguy cơ tử vong trong các nghiên cứu của Suzuki và các đồng nghiệp và Casanova và đồng nghiệp (14,17). Dịch 50 Hô hấp số 19/2019 Vì vậy, các bác sĩ lâm sàng nên hạn chế kê đơn thuốc điều trị bằng glucocorticoid cho bệnh nhân có số lượng bạch cầu ái toan dưới 100 tế bào trên một milimét khối, đặc biệt nếu họ không có tiền sử nhiều đợt cấp. Bằng chứng sẵn có từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát hỗ trợ mối quan hệ giữa số lượng bạch cầu ái toan trong máu, với các đợt cấp của COPD và khả năng đáp ứng với ICS ở bệnh nhân có tiền sử đợt cấp. Giá trị ngưỡng của 300 tế bào trên mỗi microliter dường như là điểm cắt mà tại đó mối quan hệ là rõ ràng hơn. Điều này có thể không đúng với những bệnh nhân mắc COPD trong các nghiên cứu đoàn hệ có số lượng ít đối với những bệnh nhân có tiền sử đợt cấp trước đó. Trên cơ sở các thử nghiệm được thực hiện ở những bệnh nhân mắc COPD sử dụng kháng thể đơn dòng có khả năng làm giảm tổng số lượng và hoạt động của bạch cầu ái toan, việc loại bỏ các tế bào này dường như có tác động hạn chế trong việc giảm tỉ lệ đợt cấp và cải thiện chức năng phổi hoặc chất lượng cuộc sống. Do đó, những dữ liệu này cho thấy có mối liên quan giữa đáp ứng ICS và số lượng bạch cầu ái toan trong máu; tuy nhiên, các nghiên cứu không xác định được một liên kết bệnh lý trực tiếp. Cuối cùng, vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được trả lời liên quan đến việc sử dụng số lượng bạch cầu ái toan trong máu để quản lý lâm sàng bệnh nhân mắc COPD: 1. Các nghiên cứu hiện tại có cung cấp bằng chứng mạnh mẽ để thay đổi thực hành hiện tại không? Câu trả lời dường như là một phần có. Một mặt, số lượng bạch cầu ái toan trong máu càng cao ở những bệnh nhân mắc COPD có tiền sử đợt cấp, càng có nhiều khả năng sẽ có phản ứng tích cực với ICS hoặc các phương pháp khác của liệu pháp sinh học nhắm đích antieosinophil. Mặt khác, mức độ bạch cầu ái toan trong máu rất thấp (<100 tế bào/mm3) nên gợi ra sự thận trọng khi sử dụng ICS. Tuy nhiên, trong lĩnh vực COPD, chưa có nghiên cứu nào được công bố so sánh hiệu quả điều trị của những loại thuốc sử dụng các ngưỡng bạch cầu ái toan máu khác nhau khi đưa vào điều trị trực tiếp. Có sự đồng thuận rằng các thử nghiệm như vậy là cần thiết. 2. Có phải eosinophil chỉ là một chỉ điểm ngoài (tạm dịch từ: epimarker) hay nó là mấu chốt của sinh bệnh học đợt cấp? Mối quan hệ giữa mức độ bạch cầu ái toan và các kết cục không phải đợt cấp còn chưa được biết, nhưng nó không có vẻ đặc biệt rõ ràng. Không có tác dụng đáng kể nào đối với tình trạng sức khỏe hoặc chức năng phổi đã được báo cáo khi sử dụng liệu pháp kháng bạch cầu ái toan đang là sự ủng hộ quan niệm rằng eosinophil không đại diện cho mục tiêu chính trong điều trị thay đổi bệnh trong COPD. Việc ức chế số lượng bạch cầu ái toan hoàn toàn nằm trong mức bình thường trong dân số có mang lại bất kỳ rủi ro nào cho sức khỏe phổi hay không vẫn chưa được xác định. 3. Cuối cùng, các khía cạnh thực tế của việc đo lường bạch cầu ái toan ngoại biên trong thực hành lâm sàng phải được xem xét. Khi nào nên đo lường về mối quan hệ với một đợt cấp? Các mức độ như thế nào phải được báo cáo bởi phòng thí nghiệm lâm sàng để cho phép bác sĩ lâm sàng giải thích kết quả? Sự thay đổi của mức độ bạch cầu ái toan trong dân số cộng đồng của bệnh nhân mắc COPD? Giá trị chính xác để chỉ ra một liệu pháp thường dùng là gì? Bao lâu thì nên đo số lượng bạch cầu ái toan? Giá trị của số lượng bạch cầu ái toan lặp đi lặp lại trong điều trị mục tiêu hoặc đánh giá đáp ứng với điều trị? Tóm lại, đây là những điều cực kỳ thú vị. Một dấu ấn sinh học tiềm năng đơn giản để đo lường, chẳng hạn như số lượng bạch cầu ái toan trong máu, và có thể giúp xác định kết quả lâm sàng và đáp ứng với điều trị ở bệnh nhân COPD là rất hấp dẫn. Tuy nhiên, cần nhiều dữ liệu hơn trước khi mức độ bạch cầu ái toan trong máu có thể được sử dụng để xác định kiểu hình của COPD mà trong đó có sự khác biệt về kết quả lâm sàng và có thể điều trị bằng liệu pháp điều hòa miễn dịch đặc hiệu. Dịch 51 Hô hấp số 19/2019 1. Hogan SP, Rosenberg HF, Moqbel R, Phipps S, Foster PS, Lacy P, et al. Eosinophils: biological properties and role in health and disease. Clin Exp Allergy 2008;38:709–750. 2. Klion AD, Bochner BS, Gleich GJ, Nutman TB, Rothenberg ME, Simon HU, et al.; Hypereosinophilic Syndromes Working Group. Approaches to the treatment of hypereosinophilic syndromes: a workshop summary report. J Allergy Clin Immunol 2006;117:1292–1302. 3. Kostikas K, Bakakos P, Papiris S, Stolz D, Celli BR. Systemic biomarkers in the evaluation and management of COPD patients: are we getting closer to clinical application? Curr Drug Targets 2013;14:177–191. 4. Negewo NA, McDonald VM, Baines KJ, Wark PA, Simpson JL, Jones PW, et al. Peripheral blood eosinophils: a surrogate marker for airway eosinophilia in stable COPD. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis 2016; 11:1495–1504. 5. Bafadhel M, McKenna S, Terry S, Mistry V, Pancholi M, Venge P, et al. Blood eosinophils to direct corticosteroid treatment of exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease: a randomized placebocontrolled trial. Am J Respir Crit Care Med 2012;186:48–55. 6. Pavord ID. Mepolizumab, quality of life, and severe eosinophilic asthma. Lancet Respir Med 2017;5:362–363. 7. Pascoe S, Locantore N, Dransfield MT, Barnes NC, Pavord ID. Blood eosinophil counts, exacerbations, and response to the addition of inhaled fluticasone furoate to vilanterol in patients with chronic obstructive pulmonary disease: a secondary analysis of data from two parallel randomised controlled trials. Lancet Respir Med 2015;3:435–442. 8. Siddiqui SH, Guasconi A, Vestbo J, Jones P, Agusti A, Paggiaro P, et al. Blood eosinophils: a biomarker of response to extrafine beclomethasone/formoterol in chronic obstructive pulmonary disease. Am J Respir Crit Care Med 2015;192:523–525. 9. Pavord ID, Lettis S, Locantore N, Pascoe S, Jones PW, Wedzicha JA, et al. Blood eosinophils and inhaled corticosteroid/long acting b-2 agonist efficacy in COPD. Thorax 2016;71:118–125. 10. Barnes NC, Sharma R, Lettis S, Calverley PM. Blood eosinophils as a marker of response to inhaled corticosteroids in COPD. Eur Respir J 2016;47:1374–1382. 11. Magnussen H, Disse B, Rodriguez-Roisin R, Kirsten A, Watz H, Tetzlaff K, et al.; WISDOM Investigators. Withdrawal of inhaled glucocorticoids and exacerbations of COPD. N Engl J Med 2014;371:1285–1294. 12. Vedel-Krogh S, Nielsen SF, Lange P, Vestbo J, Nordestgaard BG. Blood eosinophils and exacerbations in chronic obstructive pulmonary disease: the Copenhagen General Population Study. Am J Respir Crit Care Med 2016;193:965–974. 13. DiSantostefano RL, Hinds D, Le HV, Barnes NC. Relationship between blood eosinophils and clinical characteristics in a cross-sectional study of a US population-based COPD cohort. Respir Med 2016;112:88–96. 14. Suzuki M, Makita H, Konno S, Shimizu K, Kimura H, Kimura H, et al.; Hokkaido COPD Cohort Study Investigators. Asthma-like features and clinical course of chronic obstructive pulmonary disease: an analysis from the Hokkaido COPD cohort study. Am J Respir Crit Care Med 2016;194:1358–1365. 15. Zysman M, Deslee G, Caillaud D, Chanez P, Escamilla R, Court-Fortune I, et al. Relationship between blood eosinophils, clinical characteristics, and mortality in patients with COPD. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis 2017;12:1819–1824. 16. Hastie AT, Martinez FJ, Curtis JL, Doerschuk CM, Hansel NN, Christenson S, et al.; SPIROMICS investigators. Association of sputum and blood eosinophil concentrations with clinical measures of COPD severity: an analysis of the SPIROMICS cohort. Lancet Respir Med 2017;5:956–967. 17. Casanova C, Celli BR, de-Torres JP, Mart´ınez- Gonzalez C, Cosio BG, Pinto-Plata V, et al. Prevalence of persistent blood eosinophilia: relation to outcomes in patients with COPD. Eur Respir J 2017;50:1701162. 18. Pavord ID, Chanez P, Criner GJ, Kerstjens HAM, Korn S, Lugogo N, et al. Mepolizumab for eosinophilic chronic obstructive pulmonary disease. N Engl J Med 2017;377:1613–1629. 19. AstraZeneca. AstraZeneca provides update on GALATHEA phase III trial for Fasenra in chronic obstructive pulmonary disease [press release]. 11 May 2018. Available from: https:// www.astrazeneca.com/ media-centre/press- releases/2018/astrazeneca-provides-updateon galathea-phase-iii-trial-for-fasenra-in-chronic- obstructivepulmonary-disease-11052018.html. 20. Pavord ID, Lettis S, Anzueto A, Barnes N. Blood eosinophil count and pneumonia risk in patients with chronic obstructive pulmonary disease: a patient-level meta-analysis. Lancet Respir Med 2016;4: 731–741. Tài liệu tham khảo
File đính kèm:
su_dung_so_luong_bach_cau_ai_toan_trong_mau_ngoai_bien_de_qu.pdf

