Sử dụng sildenafil trong điều trị tăng áp lực động mạch phổi ở bệnh nhân suy tim trái mạn tính

Nền tảng và cơ sở: Hiện nay, chưa có một chọn lựa điều trị đặc hiệu nào đối với biến chứng tăng

áp phổi ở bệnh nhân suy tim trái mạn tính. Nhiều nghiên cứu cho thấy việc sử dụng kéo dài Sildenafil

có thể làm giảm áp lực động mạch phổi ở quần thể bệnh nhân này. Đối tượng và phương pháp: 61 bệnh

nhân suy tim trái mạn với tăng áp phổi, đang được điều trị nội khoa theo phát đồ chuẩn, được phân ngẫu

nhiên thành 2 nhóm: nhóm sildenafil (được bổ sung sildenafil, liều trung bình 50 mg/ngày) và nhóm

chứng (không bổ sung sildenafil).

Kết quả: Sau 4 tuần điều trị, tỷ lệ NYHA IV, điểm chất lượng cuộc sống Minesota, khoảng cách đi

bộ 6 phút và áp lực động mạch phổi trung bình của nhóm sildenafil cải thiện có ý nghĩa so với ban đầu

(- 15%, - 19, + 11 m, - 9 mmHg, lần lượt, p<0,01), và="" cải="" thiện="" có="" ý="" nghĩa="" so="" với="" nhóm="" chứng="" (-15%="">

-9%, -19 sv -10, +11 m sv +7 m, -9 mmHg sv -2 mmHg, lần lượt, p<>

Kết luận: Sildenafil được dung nạp tốt, nó có thể là chọn lựa điều trị thích hợp cho những bệnh

nhân suy tim trái đã phát triển tăng áp phổi thứ phát.

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng sildenafil trong điều trị tăng áp lực động mạch phổi ở bệnh nhân suy tim trái mạn tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng sildenafil trong điều trị tăng áp lực động mạch phổi ở bệnh nhân suy tim trái mạn tính

Sử dụng sildenafil trong điều trị tăng áp lực động mạch phổi ở bệnh nhân suy tim trái mạn tính
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014250
MỞ ĐẦU
Trên thế giới, tăng áp phổi (TAP) gặp ở 68-
78% bệnh nhân (BN) rối loạn chức năng tâm thu 
thất trái nặng mạn tính. Ở Việt Nam, bệnh van 2 
lá hậu thấp là nguyên nhân thường gặp nhất của 
TAP. Tuy nhiên, bệnh tăng huyết áp (THA) và 
bệnh tim thiếu máu cục bộ ngày càng gặp phổ 
biến cũng là nguyên nhân quan trọng của TAP. Sự 
xuất hiện TAP ở BN mắc bệnh tim trái liên quan 
với tiên lượng xấu. Tuy nhiên, hiện nay chưa có 
một chọn lựa điều trị đặc hiệu nào đối với biến 
chứng này. Những nghiên cứu tiền lâm sàng cho 
thấy các chất ức chế men phosphodiesterase typ 5 
(PDE -5) có thể đảo ngược được quá trình tái cấu 
trúc bất lợi của tim, đồng thời cải thiện chức năng 
mạch máu, thận và thần kinh thể dịch. Và những 
nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh các thuốc 
ức chế PDE-5, mà đại diện là Sildenafil, giúp cải 
thiện khả năng gắng sức và tình trạng lâm sàng của 
BN bị TAP thứ phát do bệnh tim trái với EF giảm. 
Chúng tôi nghĩ rằng sử dụng kéo dài Sildenafil có 
thể làm giảm áp lực động mạch phổi và tăng khả 
năng gắng sức ở BN suy tim trái mạn tính với TAP 
thứ phát. 
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này với 
mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của Sildenafil uống 
trên tình trạng chức năng (NYHA), khả năng 
gắng sức, chất lượng cuộc sống, chức năng thất trái 
(EF) và áp lực động mạch phổi ở bệnh nhân suy 
tim trái mạn tính với tăng áp phổi thứ phát.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
 Bao gồm những bệnh nhân suy tim trái nặng 
mạn tính, điều trị tại Khoa nội tim mạch Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Quảng Nam từ tháng 2 đến 
tháng 9 năm 2013.
sử dụng sildenafil trong điều trị tăng áp lực động 
mạch phổi ở bệnh nhân suy tim trái mạn tính
 Trần Lâm
Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam
TÓM TẮT
Nền tảng và cơ sở: Hiện nay, chưa có một chọn lựa điều trị đặc hiệu nào đối với biến chứng tăng 
áp phổi ở bệnh nhân suy tim trái mạn tính. Nhiều nghiên cứu cho thấy việc sử dụng kéo dài Sildenafil 
có thể làm giảm áp lực động mạch phổi ở quần thể bệnh nhân này. Đối tượng và phương pháp: 61 bệnh 
nhân suy tim trái mạn với tăng áp phổi, đang được điều trị nội khoa theo phát đồ chuẩn, được phân ngẫu 
nhiên thành 2 nhóm: nhóm sildenafil (được bổ sung sildenafil, liều trung bình 50 mg/ngày) và nhóm 
chứng (không bổ sung sildenafil). 
Kết quả: Sau 4 tuần điều trị, tỷ lệ NYHA IV, điểm chất lượng cuộc sống Minesota, khoảng cách đi 
bộ 6 phút và áp lực động mạch phổi trung bình của nhóm sildenafil cải thiện có ý nghĩa so với ban đầu 
(- 15%, - 19, + 11 m, - 9 mmHg, lần lượt, p<0,01), và cải thiện có ý nghĩa so với nhóm chứng (-15% sv 
-9%, -19 sv -10, +11 m sv +7 m, -9 mmHg sv -2 mmHg, lần lượt, p<0,01). 
Kết luận: Sildenafil được dung nạp tốt, nó có thể là chọn lựa điều trị thích hợp cho những bệnh 
nhân suy tim trái đã phát triển tăng áp phổi thứ phát. 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 251
Tiêu chuẩn chọn bệnh
 BN có tuổi ≥ 18 bị suy tim trái mạn tính, 
NYHA III- IV, EF< 40%, áp lực ĐMP trung bình 
(mPAP) lúc nghỉ > 25mmHg, đang được điều trị 
nội khoa theo phát đồ chuẩn.
 Tiêu chuẩn loại trừ
Không nhận vào nghiên cứu nếu BN có một 
trong những vấn đề sau:
 - Giới hạn khả năng gắng sức do nguyên nhân 
ngoài tim.
 - Dễ khởi phát thiếu máu cục bộ cơ tim (phì đại 
thất trái đồng tâm, hẹp nặng van ĐMC,..)
 - Huyết động không ổn định,
 - Đang điều trị nitrate,
 - Đang sử dụng lâu dài các thuốc gây ức chế 
cytochrome P450 3A4.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
 Tiến cứu, ngẫu nhiên, đối chứng, nhãn mở.
Quy trình nghiên cứu
 Bao gồm các bước sau
- Bước 1: Khởi đầu nghiên cứu, BN được 
đánh giá các vấn đề sau:
+ Ghi nhận tiền sử, bệnh sử, khám lâm sàng, 
đo ECG
+ Siêu âm tim: tầm soát nguyên nhân, đánh giá 
EF thất trái, đo áp lực ĐMP trung bình (mPAP). 
+ Chọn những BN có tăng mPAP đưa vào lô 
nghiên cứu
+ Đánh giá chất lượng cuộc sống bằng bộ 
câu hỏi Minnesota Living With Heart Failure 
questionnaire (phụ lục 1). 
+ Thực hiện trắc nghiệm đi bộ 6 phút 
(6-minute walk distance). 
+ Sau đó, BN được phân ngẫu nhiên thành 2 
nhóm: nhóm sildenafil (được bổ sung sildenafil 
vào điều trị chuẩn) và nhóm chứng (không bổ 
sung sildenafil).
+ Liều lượng: Sildenafil liều khởi đầu 25mg/
lần x 2 lần / ngày; sau 3-4 ngày, nếu BN dung nạp 
tốt, tiếp tục tăng lên 25 mg x 3 lần / ngày 
- Bước 2: Sau 4 tuần điều trị, BN được đánh 
giá lại các yếu tố như đã làm ở bước 1. So sánh kết 
quả trước và sau điều trị.
Công cụ nghiên cứu
 bao gồm:
 - Bộ câu hỏi đánh giá chất lượng cuộc sống 
Minnesota Living With Heart Failure 
questionnaire (phụ lục 1)
 - Máy đếm khoảng cách đi bộ 6 phút,
 - Máy đo ECG, máy siêu âm tim. 
Xử lý số liệu
 Bằng các thuật toán thống kê y học. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm ban đầu của nhóm nghiên cứu
Trong tổng số 78 BN suy tim nặng mạn tính 
nhập viện, chúng tôi phát hiện có 61 BN (78,2%) 
thỏa mãn tiêu chuẩn chẩn đoán tăng áp ĐMP. 61 
BN này được phân ngẫu nhiên thành 2 nhóm: 
nhóm sử dụng sildenafil gồm 31 BN, và nhóm 
chứng (không dùng sildenafil) gồm 30 BN còn lại. 
Một số đặc điểm ban đầu của 2 nhóm được trình 
bày trong bảng 1:
- Tuổi, giới, tần suất, nguyên nhân: Ở các 
nước Âu Mỹ, tỷ lệ mới mắc của suy tim tăng theo 
tuổi, chỉ từ 0.02/%o mỗi năm ở nhóm tuổi 25-34 
lên đến 11,6 ‰ ở tuổi 85 trở lên. Tuy nhiên, tỷ lệ 
hiện mắc thực sự của TAP liên quan bệnh tim trái 
là không rõ, nhưng những bằng chứng hiện nay 
cho thấy TAP xuất hiện với một tỷ lệ lớn ở BN 
suy tim. Tỷ lệ hiện mắc TAP ở nhóm BN suy tim 
với EF giảm thay đổi trong khoảng 16-63% phụ 
thuộc vào quần thể BN nghiên cứu và tiêu chuẩn 
sử dụng. Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng tiêu 
chuẩn TAP khi mPAP> 25mmHg, phát hiện có 
61/78 BN (78,2%) suy tim trái mạn tính có tăng 
áp ĐMP, trong đó, nam giới chiếm 54.54%, tuổi 
thấp nhất 41, tuổi cao nhất 95, tuổi trung bình 64, 
nhóm tuổi ≥ 70 chiếm 56,35%. 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014252
- Theo y văn, trong các bệnh van tim bên trái, tỷ lệ TAP tăng theo mức độ nặng của tổn thương van 
và của triệu chứng. TAP có thể gặp ở 73%-100% BN có bệnh van 2 lá nặng, và tới 30-65% ở BN hẹp van 
động mạch chủ có triệu chứng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh lý van tim gặp ở 44,28% BN suy 
tim tăng áp phổi, rung nhĩ mạn 25,49%, tăng huyết áp 14,23%, bệnh mạch vành 07,24%, các nguyên 
nhân khác 08,76%; sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm BN (p>0,05). 
Kết quả sau 1 tháng điều trị
Bảng 2. So sánh 2 nhóm BN sau 1 tháng điều trị
Đặc điểm
Nhóm sildenafil Nhóm chứng 
 pBan đầu Kết thúc P Ban đầu Kết thúc p
NYHA IV (%) 71,12 56,44 (-15) <0,01 73,05%
64,32
(-9)
<0,05 <0,01
NYHA III (%) 28,88 20,73 (-8) <0,01 26,95%
23,77 
(-3)
>0,05 <0,01
Khoảng cách đi 
bộ 6 phút (m)
32±05 43±04 +11)
<0,01
33±02
37±05
(+4)
<0,05 <0,01
MLWHFQ 74±06 53±08 (-19)
<0,01
75±05
66±07
(-9)
<0,05 <0,01
EF thất trái (%) 33±3 35±2 (+2)
>0,05
32±4
34±3
(+2)
>0,05 >0,05
 mPAP (mmHg) 45± 15
36±08
(-9)
<0,01
47±16
45±10
(-2)
>0,05 <0,01
Bảng 1. Một số đặc điểm ban đầu của quần thể nghiên cứu
Đặc điểm của bệnh nhân Nhóm sildenafil Nhóm chứng Chung p
Tuổi 65±3 63±5 64±5 >0,05
Nam giới (%) 53, 67 55,21 54,54 >0,05
NYHA IV (%) 71,12% 73,05% 72,08% >0,05
Khoảng cách đi bộ 6 phút (m) 32±05 33±02 33±03 >0,05
Nguyên nhân (%):
 Tăng huyết áp
 Bệnh van tim
 Rung nhĩ
 Bệnh ĐMV
 Nguyên nhân khác
14, 04
45,22
 26,28
08,05
06,41
14, 41
43, 35
25, 67
07,44
09,13
14,23
44,28
25,49
07,24
08,76
>0,05
MLWHFQ 74±06 75±05 74±08 >0,05
EF thất trái (%) 33±3 32±4 32±5 >0,05
ALĐMP trung bình (mmHg) 45± 35 47±16 46±27 >0,05
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 253
 Tình trạng chức năng NYHA, điểm chất 
lượng cuộc sống Minesota (MLWHFQ), khoảng 
cách đi bộ 6 phút và mPAP của nhóm sildenafil cải 
thiện có ý nghĩa sau 1 tháng điều trị (p<0,01), và 
cải thiện có ý nghĩa so với nhóm chứng (p<0,01). 
Tuy nhiên, EF của cả 2 nhóm đều không thay đổi 
có ý nghĩa (p>0,05).
Tình trạng chức năng NyHA
 Trong TAP do bệnh tim trái, có nhiều yếu tố 
tham gia đóng vai trò trong việc xuất hiện TAP. Tỷ 
lệ mắc TAP trong bệnh suy tim trái mạn tính tăng 
theo sự suy giảm tình trạng chức năng (NYHA) 
của BN. Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số 
BN có tình trạng chức năng NYHA IV (72%), 
không có sự khác biệt giữa 2 nhóm (p>0,05). Sau 
4 tuần điều trị, NYHA trong nhóm sildenafil (với 
liều trung bình 50mg/ngày) cải thiện có ý nghĩa so 
với nhóm chứng, với tỷ lệ bệnh nhân NYHA IV từ 
71% giảm xuống còn 56% (giảm 15%) so với chỉ 
9% ở nhóm chứng (P<0,01), và tỷ lệ bệnh nhân 
NYHA III từ 28,88% giảm xuống 20,73% (giảm 
8%) so với chỉ 3% của nhóm chứng (p<0,01). 
Một nghiên cứu của Lewis và cs [3] bao gồm 34 
BN suy tim có triệu chứng với tăng áp ĐMP, được 
phân ngẫu nhiên điều trị bằng sildenafil (25 tới 75 
mg x 3 lần/ngày) hay giả dược trong 12 tuần, cũng 
cho thấy tình trạng NYHA cải thiện ở 53% bệnh 
nhân nhóm sildenafil so với 7% ở nhóm chứng, và 
xấu hơn ở 13% của nhóm sildenafil so với 27% của 
nhóm chứng (P=0,045).
Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy tim
Chất lượng cuộc sống (QL)
Có thể được định nghĩa là cách mà BN 
chấp nhận tình trạng bệnh tật của họ. Hiện nay, 
thế giới có 4 bộ câu hỏi được dùng để nghiên 
cứu chuyên biệt QL của Bn suy tim, đó là: (1) 
Chronic Heart Failure Questionnaire, (2) Quality 
of Life Questionnaire in Severe Heart Failure, (3) 
Kansas City Cardiomyopathy Questionnaire, 
và (4) Minnesota Living with Heart Failure 
Questionnaire (MLWHFQ). 2 bộ câu hỏi (3) và 
(4) đầy đủ nhất và được sử dụng rộng rãi. Nghiên 
cứu của Cèsar Morcilloa và cs [8] cho thấy bộ câu 
hỏi Minnesota (MLWHFQ) là một công cụ có giá 
trị do chỉ số này tương quan tốt với NYHA và tiên 
lượng của BN. Do vậy, chúng tôi sử dụng chỉ số 
MLWHFQ (gọi tắc là chỉ số Minesota) để đánh 
giá chất lượng cuộc sống của BN suy tim trong 
nghiên cứu này. Đây là bộ công cụ để BN suy tim 
tự đánh giá chất lượng cuộc sống của mình, bao 
gồm 21 câu hỏi, trong đó, có 8 câu về ảnh hưởng 
của suy tim đến tình trạng thực thể, 5 câu về tâm 
thần kinh, 8 câu về kinh tế xã hội, mỗi câu trả lời 
được cho điểm từ 0 đến 5. Chỉ số cuối cùng là 
tổng điểm từ 21 câu trả lời, có thể thay đổi từ 0 
đến 105. Tổng điểm Minnesota càng cao có nghĩa 
là chất lượng cuộc sống càng kém, nó có giá trị dự 
báo kết cục. Theo một nghien cứu của Behlouli H 
và cs [9], tổng điểm Minesota < 24 thể hiện BN 
có QL tốt, 24-45 là có QL trung bình, khi > 45 có 
nghĩa là BN có QL kém. Phân tích cho thấy, những 
giá trị cut-off này tương quan mạnh với tình trạng 
sống còn, phân loại NYHA, và khoảng cách đi 
bộ 6 phút của BN suy tim. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, với đa số là bệnh nhân suy tim NYHA 
IV (72,08%) nên có điểm minesota trung bình rất 
cao 74±08, không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 
nhóm sildenafil và nhóm chứng (p>0,05). Khác 
với nghiên cứu của Lewis [3] mà phần lớn là BN 
suy tim NYHA II (53%) nên có điểm Minnesota 
nhỏ hơn, chỉ 52 điểm, tương ứng với chất lượng 
cuộc sống có khá hơn. Sau 4 tuần điều trị, có sự cải 
thiện rõ điểm Minesota ở nhóm sildenafil so với 
ban đầu và so với nhóm chứng (- 19 so với ban đầu, 
và - 10 so với nhóm chứng, P<0,01), có nghĩa là 
QL của BN tăng lên. Trong nghiên cứu của Lewis 
và cs [3], điểm Minnesota cũng cải thiện trong 
nhóm sildenafil (giảm 13±5 và 16±5 sau 6 tuần và 
12 tuần, P=0,007), và không thay đổi trong nhóm 
chứng (giảm 14 so với nhóm chứng, P=0.01). Tác 
giả cho rằng, sự cải thiện chất lượng cuộc sống ở 
nhóm BN điều trị sildenafil có thể phản ánh qua 
tăng khả năng gắng sức, mặc dầu có những cơ chế 
khác liên quan với tác dụng trực tiếp của sildenafil 
trên hệ thần kinh trung ương.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014254
 Khoảng cách đi bộ 6 phút
 Trắc nghiêm đi bộ trong 6 phút được dùng 
để đo khả năng dung nạp với gắng sức trong hoạt 
động hằng ngày ở BN suy tim. Trong trắc nghiệm 
này, BN được khuyến khích đi càng xa càng tốt 
trong thời gian 6 phút. Nếu trong khi đi bộ mà 
xuất hiện triệu chứng, BN được phép ngưng trắc 
nghiệm. Nghiên cứu của Gerald Roul và cs [4] 
bao gồm những BN suy tim NYHA II và III, nhận 
thấy những BN có khoảng cách đi bộ càng ngắn 
có tiên lượng càng xấu, và khoảng cách ≤ 300 mét 
có giá trị dự báo kết cục xấu. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, với phần lớn là bệnh nhân NYHA IV 
nên có khoảng cách đi bộ 6 phút rất thấp, trung 
bình chỉ 33 mét (không có sự khác biệt có ý nghĩa 
giữa 2 nhóm, p>0,05); con số này thể hiện tiên 
lượng của bệnh nhân không mấy sáng sủa. Sau 4 
tuần điều trị, sự cải thiện khả năng gắng sức trong 
nhóm sildenafil thể hiện khá rõ, khoảng cách đi 
bộ 6 phút tăng lên có ý nghĩa (11 m so với ban 
đầu, và 7 m so với nhóm chứng, P<0,01). Kết quả 
nghiên cứu của Lewis và cs [3] cũng cho thấy, 
nhóm sildenafil cải thiện khoảng cách đi bộ 6 phút 
(62 m so với ban đầu, P<0.004, và 29 m so với 
giả dược, P=0.047). Sự cải thiện khả năng gắng sức 
là do tăng cung lượng tim; có một vài cơ chế có 
thể giải thích cho sự thay đổi tích cực này. Đó là 
sự cải thiện chức năng tâm thu thất phải do giảm 
hậu gánh liên quan đến đề kháng mạch máu phổi 
đã bị giảm. Một cơ chế khác có thể là do tăng cung 
lượng tim nhờ tăng áp lực đổ đầy thất trái, mặc dầu 
không có sự thay đổi thể tích thất trái cuối tâm 
trương. Ngoài ra, có thể do giảm đề kháng mạch 
máu hệ thống, tăng co bóp thất phải ? [7].
Áp lực động mạch phổi trung bình (mPAP)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mPAP của 
BN suy tim là 46±27mmHg, không có sự khác biệt 
giữa 2 nhóm (p>0,05). Sau 1 tháng điều trị, mPAP 
của nhóm sildenafil giảm có ý nghĩa so với ban đầu 
(-9 mmHg, p<0,01) và so với nhóm chứng (-9 
mmHg so với -2 mmHg, p<0,01). Không như NO 
là chất có thời gian nửa đời rất ngắn và hoàn toàn 
khó sử dụng trong thực hành lâm sàng để điều trị 
duy trì, sildenafil ổn định về mặt dược học hơn 
và có thể dùng trong nhiều tháng với những hiệu 
quả thiết thực cho BN tăng áp phổi. Điều thú vị là 
sildenafil chỉ ảnh hưởng đến những BN có tăng áp 
phổi chứ không ảnh hưởng đến những thông số 
huyết động của những BN không tăng áp phổi lúc 
nghỉ. Trong nghiên cứu của Guazzi M và cs [2], 
sau 3 và 6 tháng, áp lực ĐMP chỉ giảm ở nhóm 
sildenafil (từ 33,7 xuống 25,2 mm Hg và 23,9 mm 
Hg, lần lượt) [2]. Cvelich RG và cs [6] thực hiện 
một phân tích gộp 4 nghiên cứu bao gồm những 
BN suy tim NYHA II-III, liều sildenafil từ 75-225 
mg/ngày, với thời gian sử dụng 4 tuần đến 1 năm, 
cũng nhận thấy liệu pháp sildenafil liên quan với 
sự cải thiện áp lực ĐMP. 
Chức năng tâm thu thất trái (EF)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, EF thất trái 
trung bình là 32%, không có sự khác biệt giữa 2 
nhóm (p>0,05). Sau 1 tháng điều trị, EF của 
nhóm sildenafil không cải thiện có ý nghĩa so với 
ban đầu (từ 33% tăng lên 35%, p>0,05), và không 
khác gì so với nhóm chứng. Lewis và cs [3] cũng 
kết luận sildenafil không ảnh hưởng đến EF thất 
trái cũng như thể tích thất trái cuối tâm trương 
lúc nghỉ hoặc gắng sức. Các nghiên cứu khác cũng 
nhận thấy sildenafil không ảnh hưởng đến chỉ số 
tim, áp lực phổi bít và EF thất trái, chỉ có tác dụng 
làm giảm áp lực ĐMP [7].
Tính an toàn và tác dụng phụ của sildenafil
Những tác dụng phụ của sildenafil thường là 
nhẹ hoặc vừa phải, chủ yếu liên quan với hiệu quả 
dãn mạch (đau đầu, phừng mặt, chảy máu cam, hạ 
huyết áp...). Trong nghiên cứu của Guazzi M và cs 
[2], không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm 
về tác dụng phụ, tuy nhiên, tỷ lệ đau đầu xảy ra ở 
nhóm sildenafil cao hơn so với nhóm chứng (41% 
so với 12%, P=0,047), nhưng không có biến cố 
nặng nào xảy ra. Còn trong nghiên cứu của Lewis 
và cs [3], chỉ có 3 trường hợp phừng mặt xảy ra 
[2]. Nghiên cứu của chúng tôi không phát hiện có 
tác dụng phụ nào xảy ra, có lẽ do liều sildenafil sử 
dụng thấp hơn, trung bình chỉ 50 mg/ngày.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 255
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
 Qua nghiên cứu 78 BN suy tim trái mạn tính 
điều trị tại Khoa nội TM, chúng tôi nhận thấy:
Tỷ lệ bệnh nhân suy tim trái mạn tính có tăng 
áp phổi là 78,2%. 
Tình trạng chức năng NYHA, điểm chất 
lượng cuộc sống Minesota, khoảng cách đi bộ 6 
phút và mPAP của nhóm sildenafil cải thiện có ý 
nghĩa sau 1 tháng điều trị (p<0,01), và cải thiện có 
ý nghĩa so với nhóm chứng (p<0,01). Tuy nhiên, 
EF của cả 2 nhóm đều không thay đổi có ý nghĩa 
(p>0,05).
Kiến nghị
 Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy 
Sildenafil được dung nạp tốt, nó có thể là chọn lựa 
điều trị thích hợp cho những bệnh nhân suy tim 
đã phát triển tăng áp phổi thứ phát. 
ABTraCT: Use sildenafil in the treatment of 
pulmonary hypertension in patients with chronic 
left heart failure 
Background and basis: Currently, there is 
not any specific treatment option for pulmonary 
hypertensive complication in patients with chronic 
left heart failure. Many studies have shown that 
prolonged use of sildenafil can reduce pulmonary 
artery pressure in this patient population. 
Subjects and Methods: 61 patients with 
chronic left heart failure with pulmonary 
hypertension, were following medical treatment 
according to the standard therapy, were 
randomized into 2 groups: sildenafil group 
(sildenafil was added, the average dose of 50 mg / 
day) and control group (no sildenafil). 
Results: After 4 weeks of treatment, the rate 
of NYHA IV, Minnesota quality of life score, 
6-minute walk distance and mean pulmonary 
artery pressure (mPAP) of sildenafil group 
significantly improved from baseline (-15%, -19, 
+11 m, -9 mmHg, respectively, p<0.01), and 
significantly improved compare to the control 
group (-15% vs -9%, -19 vs -10, +11 m vs +7 m, -9 
mmHg vs -2 mmHg, respectively, p<0.01). 
Conclusions: Sildenafil was well tolerated, it 
may be appropriate treatment option for patients 
with left heart failure developed secondary 
pulmonary hypertension.
TÀi Liệu THAM KHẢO
1. Butler J, Chomsky DB, Wilson JR. Pulmonary hypertension and exercise intolerance in patients with 
heart failure. J Am Coll Cardiol. 1999; 34: 1802-1806.
2. Guazzi M, Samaja M, Arena R. Long-term use of sildenafil in the therapeutic management of heart failure. 
J Am Coll Cardiol. 2007 Nov 27;50(22):2136-44. Epub 2007 Nov 13. 
3. Gregory D. Lewis, MD; Ravi Shah, MD. Sildenafil Improves Exercise Capacity and Quality of Life in 
Patients With Systolic Heart Failure and Secondary Pulmonary Hypertension. Circulation. 2007; 116: 
1555-
4. Gerald Roul, MD, Philippe Germain, MD. Does the 6-minute walk test predict the prognosis in patients 
with NYHA class II or III chronic heart failure? Am Heart J 1998; 136:449-57.)
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014256
Phụ lục 1: BẢNG ĐiỂM CHẤT LưỢNG CuỘC SỐNG MiNESOTA
Minnesota Living with Heart Failure Questionnaire (MLWHFQ)
TT NỘi DuNG
 ĐiỂM SỐ
Không Rất ít Rất nhiều
0 1 2 3 4 5
1 Bạn có phù ở cổ chân, cẳng chân...không?
2 Bệnh làm cho bạn chỉ luanh quanh sân, nhà?
3 Bệnh có gây khó khăn cho công việc của bạn hay gia đình không?
4 Bạn có phải ngồi hoặc nằm nghỉ cả ngày không?
5 Bạn có mệt lã, đuối sức không?
6 Bạn có khó khăn trong việc kiếm sống hàng ngày không?
7 Bạn có khó khăn khi đi lại hoặc leo cầu thang không?
8 Bạn có khó thở không?
9 bạn có khó ngủ về đêm không?
10 Bạn có biếng ăn những thứ bạn thích không?
11 Bạn có gặp khó khăn khi phải đi xa khỏi nhà không?
12 Bạn có gặp khó khăn trong hoạt động tình dục không?
13 Bạn có gặp khó khăn khi chơi thể thao không?
14 Bạn có khó khăn khi phải tập trung để nhớ một việc nào đó không?
15 Bạn có bị tác dụng phụ của thuốc không?
16 Bạn có lo lắng không?
17 Bạn có cảm thấy mình bị trầm cảm không?
18 Bạn có tốn kém tiền bạc để điều trị bệnh không?
19 Bạn có cảm thấy không thể tự kiểm soát cuộc sống của mình?
20 Bạn có phải nằm viện không?
21 Bạn có cảm thấy mình là gánh nặng của gia đình, bạn bè không?
5. Guazzi M, Tumminello G, Di Marco F. The effects of phosphodiesterase-5 inhibition with sildenafil on 
pulmonary hemodynamics and diffusion capacity, exercise ventilatory efficiency, and oxygen uptake 
kinetics in chronic heart failure. J Am Coll Cardiol. 2004 Dec 21;44(12):2339-48.
6. Cvelich RG, Roberts SC, Brown JN.  Phosphodiesterase type 5 inhibitors as adjunctive therapy in the 
management of systolic heart failure. Ann Pharmacother. 2011 Dec; 45 (12) : 1551-8. 
7. Arnon Blum MD. Treating Heart Failure With Sildenafil. Congestive Heart Failure. Volume 15, Issue 4, 
181-185, July/August 2009.
8. Cèsar Morcillo, Ofelia Aguado. Utility of the Minnesota Living With Heart Failure Questionnaire for 
Assessing Quality of Life in Heart Failure Patients. Rev Esp Cardiol. 2007; 60:1093-6.- Vol. 60 Num.10.
9. Behlouli H, Feldman DE. Identifying relative cut-off scores with neural networks for interpretation of the 
Minnesota Living with Heart Failure questionnaire. Conf Proc IEEE Eng Med Biol Soc. 2009;2009:6242-6. 

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_sildenafil_trong_dieu_tri_tang_ap_luc_dong_mach_phoi.pdf