Sử dụng dydrogesterone trong điều trị dọa sẩy thai

Sẩy thai tự nhiên là vấn đề khá thường gặp,

chiếm khoảng 15-20% các thai kỳ đã được

nhận biết. 50-60% những trường hợp sẩy

thai tự nhiên là do bất thường nhiễm sắc thể,

nhiễm trùng ở mẹ, bất thường đường sinh

dục hay nội tiết ở người mẹ, kháng thể kháng

phospholipid, hút thuốc lá, yếu tố môi trường

pdf 6 trang phuongnguyen 360
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng dydrogesterone trong điều trị dọa sẩy thai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng dydrogesterone trong điều trị dọa sẩy thai

Sử dụng dydrogesterone trong điều trị dọa sẩy thai
35
TỔNG QUAN Y VĂN
Sử	dụng	dydrogesterone	
trong	điều	trị	dọa	sẩy	thai
Lê Văn Hiền *
* ThS. BS - Bệnh viện Phụ sản MêKông
 Email: [email protected], DĐ: 0908418599
Sẩy thai tự nhiên là vấn đề khá thường gặp, 
chiếm khoảng 15-20% các thai kỳ đã được 
nhận biết. 50-60% những trường hợp sẩy 
thai tự nhiên là do bất thường nhiễm sắc thể, 
nhiễm trùng ở mẹ, bất thường đường sinh 
dục hay nội tiết ở người mẹ, kháng thể kháng 
phospholipid, hút thuốc lá, yếu tố môi trường. 
 Dọa sẩy thai là tình trạng ra huyết âm đạo 
và/ hoặc co thắt tử cung trong khi cổ tử cung 
vẫn khép kín. Tình trạng này có thể dẫn đến 
sẩy thai tự nhiên sau đó. Một phần đáng kể 
của sẩy thai tự nhiên không rõ lý do, có thể 
do phản ứng miễn dịch có hại của người mẹ 
đối với phôi thai. Progesterone đóng một vai 
trò quan trọng trong việc thiết lập môi trường 
miễn dịch đầy đủ trong giai đoạn đầu của thai 
kỳ. 
 Progesterone đóng một vai trò quan trọng 
để duy trì thai kỳ. Điều này có thể thông qua 
sự ức chế hoạt động co cơ tử cung gây ra do 
oxytocine hay ức chế sự tiết prostaglandin 
vẫn còn chưa được biết rõ. Tuy nhiên một 
vài nghiên cứu đã chứng minh rằng việc sử 
dụng progestogen điều trị dọa sẩy thai sớm 
là không tỏ ra có hiệu quả hơn giả dược. Mặc 
dù vậy, progestogen đã được các bác sĩ sản 
khoa trên toàn thế giới tin tưởng sử dụng hơn 
30 năm qua để điều trị dọa sẩy thai. Những 
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có nhóm 
chứng thiếu bằng chứng vững chắc rằng bất 
cứ loại nội tiết tố nào bị thiếu cũng đều là 
nguyên nhân gây sẩy thai tự nhiên. Vì thế 
việc bổ sung progesterone vẫn được chứng 
minh hiệu quả. Một số phân tích gộp đã 
được thực hiện với nỗ lực xác minh giá trị 
điều trị dọa sẩy thai của progestogen. Năm 
1989 Goldstein và các cộng sự đã phân tích 
gộp những thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên 
có nhóm chứng về việc sử dụng progestatif 
trong thai kỳ và đã kết luận rằng progesterone 
và những chất tương tự không có tác dụng 
duy trì thai kỳ. Keirse đã tiến hành phân tích 
gộp hạn chế hơn liên quan đến việc sử dụng 
progestogenic như 17- hydroxyprogesterone 
acetate, đã kết luận rằng sử dụng bất cứ tác 
nhân progestatif nào cũng ngăn ngừa sẩy 
thai.2 
 Trong những trường hợp có tiền sử sẩy thai 
không rõ nguyên nhân, một trong những cách 
can thiệp hứa hẹn nhất là dùng dydrogesterone 
(6-dehydroretroprogesterone) để bổ sung 
progesterone nội tại bị thiếu. Đây là một 
progestogen hoạt động dùng đường uống có 
ái lực cao với thụ thể progesterone, cấu trúc 
phân tử và tác dụng dược lý tương tự như 
progesterone nội sinh.
 Omar và cộng sự (2004) đã tiến hành nghiên 
cứu tiến cứu để xác định hiệu quả của việc 
sử dụng dydrogesterone điều trị dọa sẩy thai 
3 tháng đầu thai kỳ. Nghiên cứu ngẫu nhiên 
với nhóm dùng dydrogesterone 40mg liều 
khởi đầu và tiếp theo là 10mg, 2 lần mỗi ngày 
trong 1 tuần và nhóm chứng (nghỉ ngơi và sử 
dụng acid folic). Kết quả nghiên cứu cho thấy 
progestogens, sử dụng cho những trường 
hợp dọa sẩy thai nhưng không có tiền sử sẩy 
thai liên tiếp, có hiệu quả duy trì thai kỳ qua 
khỏi 20 tuần. Tỷ lệ duy trì thai đến thời điểm 
20 tuần ở nhóm sử dụng dydrogesterone là 
95,5% và nhóm chứng là 86,3%, sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê. Trong nghiên cứu này, 
hầu hết các trường hợp duy trì thai kỳ nhưng 
vẫn tiếp tục ra huyết âm đạo (93,1% ở nhóm 
dydrogesterone và 83,8% ở nhóm chứng) 
hoặc ra huyết thấm giọt (97,5% ở nhóm 
dydrogesterone và 88,4% ở nhóm chứng).4 
36
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014
 Một tổng quan hệ thống từ các tài liệu 
Medline, Embase, và Ovid Medline về việc 
sử dụng dydrogesterone trong điều trị dọa 
sẩy thai 3 tháng đầu thai kỳ ghi nhận được 21 
nghiên cứu, trong đó 5 thử nghiệm lâm sàng 
ngẫu nhiêu có nhóm chứng, với nhóm chứng 
là nghỉ ngơi hoặc sử dụng giả dược. Qua 
phân tích ghi nhận 13% các trường hợp sẩy 
thai tự nhiên sau điều trị với dydrogesterone 
so với 24% ở nhóm chứng OR= 0.47, (CI = 
0.31-0.7), giảm tỷ lệ sẩy thai tự nhiên 11%. 
Tổng kết từ 21 báo cáo này ghi nhận những 
tác dụng phụ, tác dụng bất lợi là rất ít.1
Hiệu	 quả	 của	 dydrogesterone	 lên	
nồng	độ	PIB
Ở phụ nữ mang thai, với sự hiện diện của 
progesterone, lympho bào sản xuất một loại 
protein là progesterone-induced blocking 
factor (PIBF). PIBF làm trung gian cho điều 
hòa miễn dịch và có tác dụng ngăn ngừa sẩy 
thai của progesterone. Nhận diện miễn dịch 
của thai kỳ và tiếp theo kích hoạt hệ thống 
miễn dịch của người mẹ dẫn đến điều hòa 
tăng thụ thể progesterone trên tế bào lympho 
đã được kích hoạt ở tế bào nhau thai và CD8+. 
Trong trường hợp nồng độ progesterone đầy 
đủ, những tế bào này sẽ tổng hợp PIBF. 
 Một sự gia tăng đáng kể biểu hiện của 
T-helper 1 (Th1) cytokine có thể là nguyên 
nhân miễn dịch cơ bản dẫn đến sẩy thai. 
Những bệnh nhân có nguy cơ cao sanh non 
có sự tăng Interleukin (IL)-12, PIBF thấp, và 
biểu hiện IL 10 trên tế bào lympho. 
 Tác dụng miễn dịch bảo vệ thai kỳ của 
progesterone một phần thể hiện qua việc 
kiểm soát những sản phẩm cytokine. PIBF 
thay đổi sự tiết cytokine của tế bào lympho 
đã được kích hoạt thay đổi cán cân về phía 
Th2. 
 Trong một nghiên cứu của Kalinka so sánh 
nồng độ progesterone, estradiol trong máu và 
nồng độ PIBF trong nước tiểu mẹ ở những 
phụ nữ bị dọa sẩy thai với phụ nữ mang 
thai bình thường và đánh giá tác động của 
dydrogesterone. Nghiên cứu này thực hiện 
trên 57 trường hợp mang thai từ 6 – 12 tuần, 
trong đó 36 trường hợp trong nhóm điều trị 
dydrogesterone có triệu chứng dọa sẩy thai 
(xuất huyết, ra máu thấm giọt, co thắt ở tử 
cung) và 21 trường hợp trong nhóm chứng 
mang thai khỏe mạnh, bình thường (không 
có triệu chứng dọa sẩy thai trước và tại thời 
điểm thu nhận vào nghiên cứu). Những bệnh 
nhân có triệu chứng dọa sẩy thai sẽ được 
điều trị 30-40mg dydrogesterone mỗi ngày 
trong 10 ngày. Lấy máu xét nghiệm nồng độ 
progesterone và estradiol trước và sau 10 ngày 
điều trị. Ở nhóm chứng không can thiệp điều 
trị gì giữa 2 lần lấy máu. Xét nghiệm nước 
tiểu định lượng PIBF ở hai lần giống như xét 
nghiệm máu 3. Trong nghiên cứu này Kalinka 
đã ghi nhận sự gia tăng PIBF ở những bệnh 
nhân dọa sẩy thai điều trị với dydrogesterone. 
Ban đầu nồng độ PIBF trong nước tiểu bệnh 
nhân dọa sẩy thai thấp hơn có ý nghĩa thống 
kê với những phụ nữ mang thai khỏe mạnh 
bình thường (453,3 pg/ml so với 1057,94pg/
ml). Sau điều trị với dydrogesterone nồng độ 
PIBF tăng lên 1291,59pg/ml. Tuy nhiên kết 
cục thai kỳ của những trường hợp điều trị với 
dydrogesterone không có sự khác biệt so với 
nhóm thai kỳ khoẻ mạnh bình thường. Qua 
dữ liệu của nghiên cứu đã chứng minh rằng 
dydrogesterone có thể duy trì thai kỳ thông 
qua sự gia tăng sản xuất PIBF.3
Sự	 điều	 hòa	 cytokine	 bằng	
dydrogesterone
Cytokine liên quan đến phản ứng miễn dịch 
tế bào có thể chịu trách nhiệm 40-60% những 
trường hợp sẩy thai tự nhiên liên tiếp không rõ 
nguyên. Tăng nồng độ của cytokine Th1 (IL-
2, IFN-), giảm nồng độ cytokine Th2 (IL-10), 
đã được ghi nhận trong những trường hợp sẩy 
thai tự nhiên liên tiếp. Khả năng kết hợp giữa 
sẩy thai tự nhiên liên tiếp với cytokine Th1 
người mẹ sai lệch tăng khả năng kiểm soát 
cân bằng cytokine Th1/Th2 để điều hoà giảm 
cytokine Th1, và tăng cơ hội duy trì thai kỳ 
thành công. Progesterone, có đặc tính kháng 
viêm và ức chế miễn dịch, giúp tế bào T sản 
xuất cytokines Th2. Progesterone cũng ngăn 
37
TỔNG QUAN Y VĂN
chặn lympho bào sản xuất cytokines Th1 đáp 
ứng với kích thích in-vitro bởi kháng nguyên 
trophoblast. 
 Dydrogesterone có tác dụng đáng kể đến sự 
sản xuất PIBF. PIBF ức chế một vài phản ứng 
miễn dịch qua trung gian tế bào đặc biệt là 
hoạt động của độc tế bào qua trung gian tế bào 
và NK (natural killer) nên đóng vai trò bảo vệ 
miễn dịch trong thai kỳ. Dydrogesterone điều 
hoà giảm cytokines Th1 và điều hoà tăng 
cytokines Th2. 
Xuất	huyết	dưới	màng	đệm
Khối máu tụ dưới màng đệm hay xuất huyết 
dưới màng đệm là tình trạng đặc trưng ở 3 
tháng đầu thai kỳ. Khối máu tụ có thể giới 
hạn hoặc lan rộng xung quanh túi thai tách 
màng đệm với màng rụng.
 Khối máu tụ dưới màng đệm có thể kèm với 
tình trạng suy hoàng thể ở mức độ khác nhau. 
Khối máu tụ dưới màng đệm có thể do sự 
xung đột miễn dịch ở giao diện thai nhi – mẹ. 
Xung đột này do sự thất bại của cơ chế điều 
hòa miễn dịch qua trung gian progesterone. 
Cơ chế liên quan với khối máu tụ dưới 
màng đệm được dẫn dắt bởi cytokine Th1. 
Interleukin (IL-1), tumor necrosis factor – α 
(TNF-α) và interferon-λ (INF-λ) kích hoạt 
tế bào nội mô phóng thích prothrombinase, 
chuyển prothrombin thành thrombin hoạt 
hóa. Thrombin hoạt hóa kích thích tế bào nội 
mô tiết ra IL-8, chiêu mộ tế bào nhân đa hình 
(Polymorphonuclear cell: PMN). Những tế 
bào PMN phá hủy tế bào nội mô màng rụng 
dẫn đến đông các mạch máu màng rụng. 
Trong trường hợp bình thường tình trạng 
đông này được ngăn chặn bởi IL-4 và IL-10, 
ức chế hoạt động của prothombinase tế bào 
nội mô. Tế bào Th1 liên quan đến khối máu 
tụ dưới màng đệm nhưng Th2 có cơ chế bảo 
vệ chống đông máu nội mạch và cắt cụt mạch 
máu màng rụng. Dydrogesterone được biết là 
có ảnh hưởng đến quá trình miễn dịch của 
màng rụng bằng cách kích thích tiến trình 
miễn dịch dưới sự kiểm soát Th2. Vì vậy 
dydrogesterone đã được sử dụng để điều trị 
tình trạng này và đã được chứng minh hiệu 
quả qua nhiều nghiên cứu. 
 Trong một nghiên cứu của Pelinescu trên 
100 bệnh nhân mang thai 3 tháng đầu thai 
kỳ, có phôi thai sống, với dấu hiệu ra máu âm 
đạo và bằng chứng máu tụ dưới màng đệm 
qua siêu âm. Những bệnh nhân này được điều 
trị 40mg dydrogesterone uống mỗi ngày đến 
khi thai 16 tuần. Qua nghiên cứu ghi nhận: 
93 trường hợp duy trì được thai kỳ, chỉ có 7% 
sẩy thai tự nhiên. Vì thế tỷ lệ sẩy thai chỉ là 
7% so với 18,7% ở những nghiên cứu trước 
đây sử dụng micronized progesterone. Khi 
so sánh với 2 nghiên cứu nhận thấy sử dụng 
dydrogesterone giảm 37% tỷ lệ sẩy thai.5
Kết	luận
Dydrogesterone (6-dehydroretroprogesterone) 
là một loại progestogen có tính khả dụng cao 
qua đường uống, đã được chứng minh qua 
nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu 
nhiên có nhóm chứng là hiệu quả duy trì thai 
kỳ trong các trường hợp dọa sẩy thai. Đây 
là một hướng điều trị hứa hẹn cho những 
trường hợp có tiền sử sẩy thai liên tiếp không 
rõ nguyên nhân ■
Tài	liệu	tham	khảo
1. Carp H, A systematic review of dydrogesterone 
for the treatment of threatened miscarriage, 
Gynecological Endocrinology, December 1 2012, 
Vol. 28, Issue 12, ppg 983-90.
2. F. Fuch, A.R. Fuch, Induction and inhibition of 
labour in the rabbit, Acta Endocrinol. 26 (1958) 
615–624
3. Jaroslow Kalinka, Julia Szekeres Bartho, The 
Impact of Dydrogesterone Supplementation on 
Hormonal Profile and Progesterone-induced 
Blocking Factor Concentrations in Women 
with Threatened Abortion, American Journal of 
Reproductive Immunology, Copyright @ Blackwell 
Munksgaard, 2005
4. M.H. Omar, M.K. Mashita, P.S. Lim, M.A. Jamil, 
Dydrogesterone in threatened abortion: Pregnancy 
outcome, Journal of Steroid Biochemistry & 
Molecular Biology 97 (2005) 421–425. 
5. Pelinescu-Onciul D, Subchorionic hemorrhage 
treatment with dydrogesterone, Gynecol 
Endocrinol. 2007 Oct;23 Suppl 1:77-81.
38
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014
Viêm	nha	chu:	một	trong	các	yếu	tố	
gây	sinh	non-	sinh	nhẹ	cân
Trần Thị Lợi * 
* GS.TS.BS - Khoa Y Đại học Quốc Gia TPHCM
 Email: [email protected]
Bệnh nha chu là một tình trạng nhiễm trùng 
mạn tính vùng miệng liên quan đến các bộ 
phận nâng đỡ răng như nướu răng, dây chằng 
nha chu, lớp xê măng bọc quanh chân răng 
và xương ổ răng. Bệnh nha chu, bao gồm cả 
viêm nướu và viêm nha chu, được bắt đầu do 
sự tích lũy các vi khuẩn xung quanh răng, có 
thể ảnh hưởng đến một hoặc nhiều răng và 
nếu không được điều trị, có thể dẫn đến mất 
răng, mặc dù răng không bị sâu. Đây là một 
tình trạng bệnh lý răng miệng thường gặp nhất 
ở người trưởng thành, và cũng là một trong 
những bệnh viêm mạn tính phổ biến nhất ảnh 
hưởng đến phần lớn dân số trên toàn thế giới. 
Tại Hoa Kỳ, tỉ lệ bệnh nha chu lên đến 30% 
người trưởng thành, tuy nhiên chỉ khoảng 
10% bị viêm nha chu nặng1. Năm 2010, trên 
toàn thế giới có khoảng 750 triệu người bị 
viêm nha chu mạn tính, chiếm khoảng 10,8% 
dân số thế giới.1
Đo túi nha chu bằng cây thăm dò William có khắc vạch 
từng mm
 Chẩn đoán bệnh nha chu chủ yếu dựa 
vào thăm khám lâm sàng với cây thăm dò 
William có khắc vạch từng mm để ghi nhận 
5 thông số: chỉ số mảng bám (Plaque Index: 
PlI), chỉ số nướu (Gingival Index: GI), độ 
sâu qua thăm dò túi nha chu (Probing Pocket 
Depht: PPD), độ mất bám dính lâm sàng 
(Clinical Attachment loss: CAL), chỉ số phần 
trăm chảy máu khi thăm dò (%Bleeding on 
Probing: %BOP).
Ảnh	hưởng	của	viêm	nha	chu	với	kết	
cuộc	thai	kỳ
Môi trường răng miệng tuy chỉ là một phần 
nhỏ của cơ thể, nhưng có thể xem như một 
tấm gương phản ánh sức khoẻ toàn thân. Ở 
phương Tây, từ xưa, đã có quan niệm “mỗi 
lần có thai người phụ nữ lại mất một chiếc 
răng”2,3 cho thấy rằng sức khoẻ răng miệng 
trong thai kỳ từ lâu đã là một vấn đề thu hút 
được sự quan tâm của cộng đồng. Tương tự, 
ở nước ta, có thể do bị viêm nha chu mà sau 
sinh con răng bị lung lay, nhưng vì không 
hiểu nguyên nhân gây bệnh, nên các sản phụ 
có những kiêng khem vô lý như không chải 
răng mà chỉ súc miệng.
 Ở người phụ nữ có thai, do nội tiết tố 
progesterone làm giảm sức đề kháng miễn 
nhiễm, những bệnh lý răng miệng như viêm 
nướu, viêm nha chu tiến triển rất nhanh1. Nếu 
không điều trị kịp thời, lớp mô nâng đỡ, các 
dây chằng giữ răng sẽ bị phá hủy làm tiêu 
xương ổ răng, răng bị lung lay và cuối cùng 
sẽ mất răng dù răng còn nguyên vẹn.
 Mối liên quan giữa viêm nha chu và sinh 
non-sinh nhẹ cân (SN-SNC) phải đợi đến 
thập niên 90 của thế kỷ trước, những nghiên 
cứu thực nghiệm trên thú vật mới chứng 
minh được vai trò của các vi khuẩn gram 
âm ở dưới nướu răng như: Actinobacillus 
actinomycetemcomitans, Porphyromonas 
39
TỔNG QUAN Y VĂN
gingivalis và những độc tố lipopolysaccharide 
(LPS) của chúng có thể gây nên một đáp ứng 
miễn dịch toàn thân.2,4,5 Năm 1994, Collins 
và cộng sự 6 đã chứng minh cơ chế vi khuẩn 
hoạt hoá các tế bào trung gian miễn dịch, 
sản xuất ra cytokines (như interleukins IL-1 
và IL-6), yếu tố hoại tử khối u alpha (tumor 
necrosis factor alpha: TNF- α), prostaglandin 
(đặc biệt prostaglandin E2: PGE2). Những 
chất nói trên có thể gây ra cơn co tử cung, 
dẫn đến tình trạng sinh non, sinh nhẹ cân. 
 Sinh non (tuổi thai dưới 37 tuần) và sinh 
nhẹ cân (trọng lượng thai dưới 2500 gram) là 
nguyên nhân chính gây nên tử suất và bệnh 
suất sơ sinh cao với những di chứng dài lâu, 
ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng y khoa và 
kinh tế của xã hội. Tại Hoa kỳ, năm 2011, 
tỉ lệ sinh non - sinh nhẹ cân (SN-SNC) là 
6,1% (theo số liệu của Agency for Healthcare 
Research and Quality). Bệnh viện Từ Dũ là 
một bệnh viện sản khoa đầu ngành ở phía 
nam nước ta với số sinh trong năm 2012 lên 
đến 62.022 ca, số trẻ sinh non - sinh nhẹ cân 
(SN-SNC) là 6.051 bé, chiếm tỉ lệ khoảng 
10% (theo số liệu của phòng kế hoạch tổng 
hợp bệnh viện Từ Dũ), con số này cho thấy 
đây là một vấn đề rất đáng quan tâm. Đã có 
nhiều nghiên cứu về vai trò của các yếu tố 
nguy cơ gây SN-SNC như tuổi thai phụ quá 
trẻ (34 tuổi), khó 
khăn về kinh tế, đa thai, chăm sóc tiền sản 
kém, thai phụ hút thuốc lá, uống rượu, tăng 
huyết áp, đái tháo đường, lao động cực nhọc, 
hoặc nhiễm khuẩn niệu phụ khoa... Tuy vậy, 
vẫn còn khoảng 25% trường hợp SN-SNC 
xảy ra ở những thai phụ không có các yếu tố 
nguy cơ nói trên,4,7 đó là lý do khiến các nhà 
khoa học không ngừng tìm kiếm các nguyên 
nhân khác dẫn đến tình trạng SN-SNC.
 Trên thế giới, về phương diện Y Học Chứng 
Cứ, đã có nhiều nghiên cứu cho thấy viêm 
nha chu là yếu tố nguy cơ độc lập gây ra SN-
SNC8, tuy nhiên ở nước ta, chưa có nhiều 
nghiên cứu về vấn đề này.
Nghiên cứu bệnh chứng tìm hiểu nguy cơ 
gây sinh non-sinh nhẹ cân của bệnh viêm nha 
chu. 9
Tại bệnh viện Từ Dũ, khoa Hậu Sản thường, 
trong khoảng từ tháng 9/2013 đến tháng 
1/2014, một nghiên cứu bệnh chứng không 
bắt cặp được thực hiện với tỉ lệ 1 bệnh/2 
chứng. Nhóm bệnh gồm 76 sản phụ sinh con 
non tháng (tuổi thai dưới 37 tuẩn) sinh nhẹ 
cân (cân nặng< 2.500 gram) và nhóm chứng 
gồm 152 sản phụ sinh đủ tháng – đủ cân 
nặng. Những thông tin về tiền sử sản khoa 
liên quan đến thai kỳ được bác sĩ Sản phỏng 
vấn trực tiếp. Khám nha chu do bác sĩ răng 
hàm mặt thực hiện trên tất cả các răng cho 
các sản phụ tại giường bệnh trong vòng 48 
giờ sau sinh.
 Kết quả nghiên cứu: hai nhóm bệnh-chứng 
tương đối đồng nhất về tuổi, nghề nghiệp, 
trình độ học vấn, tình trạng kinh tế. Về tình 
trạng sức khỏe răng miệng: tỉ lệ viêm nướu 
ở nhóm bệnh là 98,7%, ở nhóm chứng là 
87,5%. Tỉ lệ viêm nha chu ở nhóm bệnh: 
30,3%, ở nhóm chứng: 16,4%. Phân tích hồi 
quy logistic cho thấy viêm nha chu là yếu 
tố nguy cơ gây SN-SNC với OR=2,2 (95% 
KTC: 1,2-4,3) p=0,009. 
Kết	luận	và	đề	xuất
Nghiên cứu nói trên có kết luận: sản phụ bị 
viêm nha chu có nguy cơ SN-SNC tăng gấp 
2,2 lần so với sản phụ không bị viêm nha chu, 
và khuyến cáo thai phụ nên đi khám răng để 
được điều trị nếu có viêm nha chu, nhờ đó 
tránh được nguy cơ SN-SNC.
Trong chăm sóc tiền sản, các nhà sản khoa 
nên chú ý thêm vấn đề sức khỏe răng miệng 
của thai phụ:3 
1. Hướng dẫn chải răng đúng cách, ít nhất 2 
lần mỗi ngày.
2. Hướng dẫn làm sạch kẽ răng bằng chỉ nha 
khoa, ít nhất 1 lần mỗi ngày.
40
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014
3. Nên đi khám răng để được làm sạch răng 
(cạo vôi răng) nếu cần thiết, thời điểm thích 
hợp là trong khoảng 3 tháng giữa thai kỳ.
Tài	liệu	tham	khảo
1. Vos, T; Flaxman, Abraham D; Naghavi, Mohsen; 
Lozano, Rafael; Michaud, Catherine; Ezzati, Majid; 
Shibuya, Kenji; Salomon, Joshua A; Abdalla, 
Safa; Aboyans, Victor; Abraham, Jerry; Ackerman, 
Ilana; Aggarwal, Rakesh; Ahn, Stephanie Y; Ali, 
Mohammed K; Almazroa, Mohammad A; Alvarado, 
Miriam; Anderson, H Ross; Anderson, Laurie M; 
Andrews, Kathryn G; Atkinson, Charles; Baddour, 
Larry M; Bahalim, Adil N; Barker-Collo, Suzanne; 
Barrero, Lope H; Bartels, David H; Basáñez, Maria-
Gloria; Baxter, Amanda; Bell, Michelle L et al. (Dec 
15, 2012). “Years lived with disability (YLDs) for 
1160 sequelae of 289 diseases and injuries 1990-
2010: a systematic analysis for the Global Burden 
of Disease Study 2010”. Lancet380 (9859): 2163–
96. doi:10.1016/S0140-6736(12)61729-2. PMID 
23245607. 
2. Baskaradoss JK, Geevarghese A, Al Dosari 
AA(2012). Causes of Adverse Pregnancy 
Outcomes and the Role of Maternal Periodontal 
Status – A Review of the Literature. Open Dent 
J;6:79-84.
3. P. Barros,Heather L.Jared, Steven 
Offenbacher(2010). Periodontal disease and 
pregnancy complications. Robert J.Genco, Ray 
C.Williams.Periodontaldisease and Overall 
Health: A Clinician’s Guide. Professional Audience 
Communications, Inc, pp132-141.
4. McGaw T (2002). Periodontal disease and preterm 
delivery of low-birth-weight infants. Journal of the 
Canadian Dental Association;68(3):165–9.
5. Offenbacher S, Katz V, Fertik G, Collins J, Boyd 
D, Maynor G, et al (1996).Periodontal infection as 
a possible risk factor for preterm low birth weight. 
Journal of Periodontology;67 (10 Suppl):1103–13.
6. Collins JG, Windley HW 3rd, Arnold RR, 
Offenbacher S (1994). Effects of a Porphyromonas 
gingivalis infection on inflammatory mediator 
response and pregnancy outcome in hamsters. 
Infection and Immunity;62(10):4356–61.
7. Vergnes JN, Sixou M. Preterm low birth weight and 
maternal periodontal status: a meta analysis. Am J 
Obstet Gynecol 2007;196:135.el-7.
8. Crowther CA, Thomas N, Middleton P, Chua MC, 
Esposito M (2009). Treating periodontal disease 
for preventing preterm birth in pregnant women 
(Protocol). The Cochrane Library, Issue 1. 
9. Trần Thị Lợi, Ngô Thị Quỳnh Lan, Lê Quang Thanh, 
Nguyễn Thị Yến Thu, Vũ Trần Bảo Châu (2014). 
Nguy cơ gây sinh non-sinh nhẹ cân của bệnh nha 
chu. Tạp chí Phụ Sản – 12(02 Phụ Bản), 10-14, 
2014.

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_dydrogesterone_trong_dieu_tri_doa_say_thai.pdf