Sử dụng dydrogesterone trong điều trị dọa sẩy thai
Sẩy thai tự nhiên là vấn đề khá thường gặp,
chiếm khoảng 15-20% các thai kỳ đã được
nhận biết. 50-60% những trường hợp sẩy
thai tự nhiên là do bất thường nhiễm sắc thể,
nhiễm trùng ở mẹ, bất thường đường sinh
dục hay nội tiết ở người mẹ, kháng thể kháng
phospholipid, hút thuốc lá, yếu tố môi trường
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng dydrogesterone trong điều trị dọa sẩy thai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng dydrogesterone trong điều trị dọa sẩy thai

35 TỔNG QUAN Y VĂN Sử dụng dydrogesterone trong điều trị dọa sẩy thai Lê Văn Hiền * * ThS. BS - Bệnh viện Phụ sản MêKông Email: [email protected], DĐ: 0908418599 Sẩy thai tự nhiên là vấn đề khá thường gặp, chiếm khoảng 15-20% các thai kỳ đã được nhận biết. 50-60% những trường hợp sẩy thai tự nhiên là do bất thường nhiễm sắc thể, nhiễm trùng ở mẹ, bất thường đường sinh dục hay nội tiết ở người mẹ, kháng thể kháng phospholipid, hút thuốc lá, yếu tố môi trường. Dọa sẩy thai là tình trạng ra huyết âm đạo và/ hoặc co thắt tử cung trong khi cổ tử cung vẫn khép kín. Tình trạng này có thể dẫn đến sẩy thai tự nhiên sau đó. Một phần đáng kể của sẩy thai tự nhiên không rõ lý do, có thể do phản ứng miễn dịch có hại của người mẹ đối với phôi thai. Progesterone đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập môi trường miễn dịch đầy đủ trong giai đoạn đầu của thai kỳ. Progesterone đóng một vai trò quan trọng để duy trì thai kỳ. Điều này có thể thông qua sự ức chế hoạt động co cơ tử cung gây ra do oxytocine hay ức chế sự tiết prostaglandin vẫn còn chưa được biết rõ. Tuy nhiên một vài nghiên cứu đã chứng minh rằng việc sử dụng progestogen điều trị dọa sẩy thai sớm là không tỏ ra có hiệu quả hơn giả dược. Mặc dù vậy, progestogen đã được các bác sĩ sản khoa trên toàn thế giới tin tưởng sử dụng hơn 30 năm qua để điều trị dọa sẩy thai. Những nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng thiếu bằng chứng vững chắc rằng bất cứ loại nội tiết tố nào bị thiếu cũng đều là nguyên nhân gây sẩy thai tự nhiên. Vì thế việc bổ sung progesterone vẫn được chứng minh hiệu quả. Một số phân tích gộp đã được thực hiện với nỗ lực xác minh giá trị điều trị dọa sẩy thai của progestogen. Năm 1989 Goldstein và các cộng sự đã phân tích gộp những thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng về việc sử dụng progestatif trong thai kỳ và đã kết luận rằng progesterone và những chất tương tự không có tác dụng duy trì thai kỳ. Keirse đã tiến hành phân tích gộp hạn chế hơn liên quan đến việc sử dụng progestogenic như 17- hydroxyprogesterone acetate, đã kết luận rằng sử dụng bất cứ tác nhân progestatif nào cũng ngăn ngừa sẩy thai.2 Trong những trường hợp có tiền sử sẩy thai không rõ nguyên nhân, một trong những cách can thiệp hứa hẹn nhất là dùng dydrogesterone (6-dehydroretroprogesterone) để bổ sung progesterone nội tại bị thiếu. Đây là một progestogen hoạt động dùng đường uống có ái lực cao với thụ thể progesterone, cấu trúc phân tử và tác dụng dược lý tương tự như progesterone nội sinh. Omar và cộng sự (2004) đã tiến hành nghiên cứu tiến cứu để xác định hiệu quả của việc sử dụng dydrogesterone điều trị dọa sẩy thai 3 tháng đầu thai kỳ. Nghiên cứu ngẫu nhiên với nhóm dùng dydrogesterone 40mg liều khởi đầu và tiếp theo là 10mg, 2 lần mỗi ngày trong 1 tuần và nhóm chứng (nghỉ ngơi và sử dụng acid folic). Kết quả nghiên cứu cho thấy progestogens, sử dụng cho những trường hợp dọa sẩy thai nhưng không có tiền sử sẩy thai liên tiếp, có hiệu quả duy trì thai kỳ qua khỏi 20 tuần. Tỷ lệ duy trì thai đến thời điểm 20 tuần ở nhóm sử dụng dydrogesterone là 95,5% và nhóm chứng là 86,3%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Trong nghiên cứu này, hầu hết các trường hợp duy trì thai kỳ nhưng vẫn tiếp tục ra huyết âm đạo (93,1% ở nhóm dydrogesterone và 83,8% ở nhóm chứng) hoặc ra huyết thấm giọt (97,5% ở nhóm dydrogesterone và 88,4% ở nhóm chứng).4 36 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 Một tổng quan hệ thống từ các tài liệu Medline, Embase, và Ovid Medline về việc sử dụng dydrogesterone trong điều trị dọa sẩy thai 3 tháng đầu thai kỳ ghi nhận được 21 nghiên cứu, trong đó 5 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiêu có nhóm chứng, với nhóm chứng là nghỉ ngơi hoặc sử dụng giả dược. Qua phân tích ghi nhận 13% các trường hợp sẩy thai tự nhiên sau điều trị với dydrogesterone so với 24% ở nhóm chứng OR= 0.47, (CI = 0.31-0.7), giảm tỷ lệ sẩy thai tự nhiên 11%. Tổng kết từ 21 báo cáo này ghi nhận những tác dụng phụ, tác dụng bất lợi là rất ít.1 Hiệu quả của dydrogesterone lên nồng độ PIB Ở phụ nữ mang thai, với sự hiện diện của progesterone, lympho bào sản xuất một loại protein là progesterone-induced blocking factor (PIBF). PIBF làm trung gian cho điều hòa miễn dịch và có tác dụng ngăn ngừa sẩy thai của progesterone. Nhận diện miễn dịch của thai kỳ và tiếp theo kích hoạt hệ thống miễn dịch của người mẹ dẫn đến điều hòa tăng thụ thể progesterone trên tế bào lympho đã được kích hoạt ở tế bào nhau thai và CD8+. Trong trường hợp nồng độ progesterone đầy đủ, những tế bào này sẽ tổng hợp PIBF. Một sự gia tăng đáng kể biểu hiện của T-helper 1 (Th1) cytokine có thể là nguyên nhân miễn dịch cơ bản dẫn đến sẩy thai. Những bệnh nhân có nguy cơ cao sanh non có sự tăng Interleukin (IL)-12, PIBF thấp, và biểu hiện IL 10 trên tế bào lympho. Tác dụng miễn dịch bảo vệ thai kỳ của progesterone một phần thể hiện qua việc kiểm soát những sản phẩm cytokine. PIBF thay đổi sự tiết cytokine của tế bào lympho đã được kích hoạt thay đổi cán cân về phía Th2. Trong một nghiên cứu của Kalinka so sánh nồng độ progesterone, estradiol trong máu và nồng độ PIBF trong nước tiểu mẹ ở những phụ nữ bị dọa sẩy thai với phụ nữ mang thai bình thường và đánh giá tác động của dydrogesterone. Nghiên cứu này thực hiện trên 57 trường hợp mang thai từ 6 – 12 tuần, trong đó 36 trường hợp trong nhóm điều trị dydrogesterone có triệu chứng dọa sẩy thai (xuất huyết, ra máu thấm giọt, co thắt ở tử cung) và 21 trường hợp trong nhóm chứng mang thai khỏe mạnh, bình thường (không có triệu chứng dọa sẩy thai trước và tại thời điểm thu nhận vào nghiên cứu). Những bệnh nhân có triệu chứng dọa sẩy thai sẽ được điều trị 30-40mg dydrogesterone mỗi ngày trong 10 ngày. Lấy máu xét nghiệm nồng độ progesterone và estradiol trước và sau 10 ngày điều trị. Ở nhóm chứng không can thiệp điều trị gì giữa 2 lần lấy máu. Xét nghiệm nước tiểu định lượng PIBF ở hai lần giống như xét nghiệm máu 3. Trong nghiên cứu này Kalinka đã ghi nhận sự gia tăng PIBF ở những bệnh nhân dọa sẩy thai điều trị với dydrogesterone. Ban đầu nồng độ PIBF trong nước tiểu bệnh nhân dọa sẩy thai thấp hơn có ý nghĩa thống kê với những phụ nữ mang thai khỏe mạnh bình thường (453,3 pg/ml so với 1057,94pg/ ml). Sau điều trị với dydrogesterone nồng độ PIBF tăng lên 1291,59pg/ml. Tuy nhiên kết cục thai kỳ của những trường hợp điều trị với dydrogesterone không có sự khác biệt so với nhóm thai kỳ khoẻ mạnh bình thường. Qua dữ liệu của nghiên cứu đã chứng minh rằng dydrogesterone có thể duy trì thai kỳ thông qua sự gia tăng sản xuất PIBF.3 Sự điều hòa cytokine bằng dydrogesterone Cytokine liên quan đến phản ứng miễn dịch tế bào có thể chịu trách nhiệm 40-60% những trường hợp sẩy thai tự nhiên liên tiếp không rõ nguyên. Tăng nồng độ của cytokine Th1 (IL- 2, IFN-), giảm nồng độ cytokine Th2 (IL-10), đã được ghi nhận trong những trường hợp sẩy thai tự nhiên liên tiếp. Khả năng kết hợp giữa sẩy thai tự nhiên liên tiếp với cytokine Th1 người mẹ sai lệch tăng khả năng kiểm soát cân bằng cytokine Th1/Th2 để điều hoà giảm cytokine Th1, và tăng cơ hội duy trì thai kỳ thành công. Progesterone, có đặc tính kháng viêm và ức chế miễn dịch, giúp tế bào T sản xuất cytokines Th2. Progesterone cũng ngăn 37 TỔNG QUAN Y VĂN chặn lympho bào sản xuất cytokines Th1 đáp ứng với kích thích in-vitro bởi kháng nguyên trophoblast. Dydrogesterone có tác dụng đáng kể đến sự sản xuất PIBF. PIBF ức chế một vài phản ứng miễn dịch qua trung gian tế bào đặc biệt là hoạt động của độc tế bào qua trung gian tế bào và NK (natural killer) nên đóng vai trò bảo vệ miễn dịch trong thai kỳ. Dydrogesterone điều hoà giảm cytokines Th1 và điều hoà tăng cytokines Th2. Xuất huyết dưới màng đệm Khối máu tụ dưới màng đệm hay xuất huyết dưới màng đệm là tình trạng đặc trưng ở 3 tháng đầu thai kỳ. Khối máu tụ có thể giới hạn hoặc lan rộng xung quanh túi thai tách màng đệm với màng rụng. Khối máu tụ dưới màng đệm có thể kèm với tình trạng suy hoàng thể ở mức độ khác nhau. Khối máu tụ dưới màng đệm có thể do sự xung đột miễn dịch ở giao diện thai nhi – mẹ. Xung đột này do sự thất bại của cơ chế điều hòa miễn dịch qua trung gian progesterone. Cơ chế liên quan với khối máu tụ dưới màng đệm được dẫn dắt bởi cytokine Th1. Interleukin (IL-1), tumor necrosis factor – α (TNF-α) và interferon-λ (INF-λ) kích hoạt tế bào nội mô phóng thích prothrombinase, chuyển prothrombin thành thrombin hoạt hóa. Thrombin hoạt hóa kích thích tế bào nội mô tiết ra IL-8, chiêu mộ tế bào nhân đa hình (Polymorphonuclear cell: PMN). Những tế bào PMN phá hủy tế bào nội mô màng rụng dẫn đến đông các mạch máu màng rụng. Trong trường hợp bình thường tình trạng đông này được ngăn chặn bởi IL-4 và IL-10, ức chế hoạt động của prothombinase tế bào nội mô. Tế bào Th1 liên quan đến khối máu tụ dưới màng đệm nhưng Th2 có cơ chế bảo vệ chống đông máu nội mạch và cắt cụt mạch máu màng rụng. Dydrogesterone được biết là có ảnh hưởng đến quá trình miễn dịch của màng rụng bằng cách kích thích tiến trình miễn dịch dưới sự kiểm soát Th2. Vì vậy dydrogesterone đã được sử dụng để điều trị tình trạng này và đã được chứng minh hiệu quả qua nhiều nghiên cứu. Trong một nghiên cứu của Pelinescu trên 100 bệnh nhân mang thai 3 tháng đầu thai kỳ, có phôi thai sống, với dấu hiệu ra máu âm đạo và bằng chứng máu tụ dưới màng đệm qua siêu âm. Những bệnh nhân này được điều trị 40mg dydrogesterone uống mỗi ngày đến khi thai 16 tuần. Qua nghiên cứu ghi nhận: 93 trường hợp duy trì được thai kỳ, chỉ có 7% sẩy thai tự nhiên. Vì thế tỷ lệ sẩy thai chỉ là 7% so với 18,7% ở những nghiên cứu trước đây sử dụng micronized progesterone. Khi so sánh với 2 nghiên cứu nhận thấy sử dụng dydrogesterone giảm 37% tỷ lệ sẩy thai.5 Kết luận Dydrogesterone (6-dehydroretroprogesterone) là một loại progestogen có tính khả dụng cao qua đường uống, đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng là hiệu quả duy trì thai kỳ trong các trường hợp dọa sẩy thai. Đây là một hướng điều trị hứa hẹn cho những trường hợp có tiền sử sẩy thai liên tiếp không rõ nguyên nhân ■ Tài liệu tham khảo 1. Carp H, A systematic review of dydrogesterone for the treatment of threatened miscarriage, Gynecological Endocrinology, December 1 2012, Vol. 28, Issue 12, ppg 983-90. 2. F. Fuch, A.R. Fuch, Induction and inhibition of labour in the rabbit, Acta Endocrinol. 26 (1958) 615–624 3. Jaroslow Kalinka, Julia Szekeres Bartho, The Impact of Dydrogesterone Supplementation on Hormonal Profile and Progesterone-induced Blocking Factor Concentrations in Women with Threatened Abortion, American Journal of Reproductive Immunology, Copyright @ Blackwell Munksgaard, 2005 4. M.H. Omar, M.K. Mashita, P.S. Lim, M.A. Jamil, Dydrogesterone in threatened abortion: Pregnancy outcome, Journal of Steroid Biochemistry & Molecular Biology 97 (2005) 421–425. 5. Pelinescu-Onciul D, Subchorionic hemorrhage treatment with dydrogesterone, Gynecol Endocrinol. 2007 Oct;23 Suppl 1:77-81. 38 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 Viêm nha chu: một trong các yếu tố gây sinh non- sinh nhẹ cân Trần Thị Lợi * * GS.TS.BS - Khoa Y Đại học Quốc Gia TPHCM Email: [email protected] Bệnh nha chu là một tình trạng nhiễm trùng mạn tính vùng miệng liên quan đến các bộ phận nâng đỡ răng như nướu răng, dây chằng nha chu, lớp xê măng bọc quanh chân răng và xương ổ răng. Bệnh nha chu, bao gồm cả viêm nướu và viêm nha chu, được bắt đầu do sự tích lũy các vi khuẩn xung quanh răng, có thể ảnh hưởng đến một hoặc nhiều răng và nếu không được điều trị, có thể dẫn đến mất răng, mặc dù răng không bị sâu. Đây là một tình trạng bệnh lý răng miệng thường gặp nhất ở người trưởng thành, và cũng là một trong những bệnh viêm mạn tính phổ biến nhất ảnh hưởng đến phần lớn dân số trên toàn thế giới. Tại Hoa Kỳ, tỉ lệ bệnh nha chu lên đến 30% người trưởng thành, tuy nhiên chỉ khoảng 10% bị viêm nha chu nặng1. Năm 2010, trên toàn thế giới có khoảng 750 triệu người bị viêm nha chu mạn tính, chiếm khoảng 10,8% dân số thế giới.1 Đo túi nha chu bằng cây thăm dò William có khắc vạch từng mm Chẩn đoán bệnh nha chu chủ yếu dựa vào thăm khám lâm sàng với cây thăm dò William có khắc vạch từng mm để ghi nhận 5 thông số: chỉ số mảng bám (Plaque Index: PlI), chỉ số nướu (Gingival Index: GI), độ sâu qua thăm dò túi nha chu (Probing Pocket Depht: PPD), độ mất bám dính lâm sàng (Clinical Attachment loss: CAL), chỉ số phần trăm chảy máu khi thăm dò (%Bleeding on Probing: %BOP). Ảnh hưởng của viêm nha chu với kết cuộc thai kỳ Môi trường răng miệng tuy chỉ là một phần nhỏ của cơ thể, nhưng có thể xem như một tấm gương phản ánh sức khoẻ toàn thân. Ở phương Tây, từ xưa, đã có quan niệm “mỗi lần có thai người phụ nữ lại mất một chiếc răng”2,3 cho thấy rằng sức khoẻ răng miệng trong thai kỳ từ lâu đã là một vấn đề thu hút được sự quan tâm của cộng đồng. Tương tự, ở nước ta, có thể do bị viêm nha chu mà sau sinh con răng bị lung lay, nhưng vì không hiểu nguyên nhân gây bệnh, nên các sản phụ có những kiêng khem vô lý như không chải răng mà chỉ súc miệng. Ở người phụ nữ có thai, do nội tiết tố progesterone làm giảm sức đề kháng miễn nhiễm, những bệnh lý răng miệng như viêm nướu, viêm nha chu tiến triển rất nhanh1. Nếu không điều trị kịp thời, lớp mô nâng đỡ, các dây chằng giữ răng sẽ bị phá hủy làm tiêu xương ổ răng, răng bị lung lay và cuối cùng sẽ mất răng dù răng còn nguyên vẹn. Mối liên quan giữa viêm nha chu và sinh non-sinh nhẹ cân (SN-SNC) phải đợi đến thập niên 90 của thế kỷ trước, những nghiên cứu thực nghiệm trên thú vật mới chứng minh được vai trò của các vi khuẩn gram âm ở dưới nướu răng như: Actinobacillus actinomycetemcomitans, Porphyromonas 39 TỔNG QUAN Y VĂN gingivalis và những độc tố lipopolysaccharide (LPS) của chúng có thể gây nên một đáp ứng miễn dịch toàn thân.2,4,5 Năm 1994, Collins và cộng sự 6 đã chứng minh cơ chế vi khuẩn hoạt hoá các tế bào trung gian miễn dịch, sản xuất ra cytokines (như interleukins IL-1 và IL-6), yếu tố hoại tử khối u alpha (tumor necrosis factor alpha: TNF- α), prostaglandin (đặc biệt prostaglandin E2: PGE2). Những chất nói trên có thể gây ra cơn co tử cung, dẫn đến tình trạng sinh non, sinh nhẹ cân. Sinh non (tuổi thai dưới 37 tuần) và sinh nhẹ cân (trọng lượng thai dưới 2500 gram) là nguyên nhân chính gây nên tử suất và bệnh suất sơ sinh cao với những di chứng dài lâu, ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng y khoa và kinh tế của xã hội. Tại Hoa kỳ, năm 2011, tỉ lệ sinh non - sinh nhẹ cân (SN-SNC) là 6,1% (theo số liệu của Agency for Healthcare Research and Quality). Bệnh viện Từ Dũ là một bệnh viện sản khoa đầu ngành ở phía nam nước ta với số sinh trong năm 2012 lên đến 62.022 ca, số trẻ sinh non - sinh nhẹ cân (SN-SNC) là 6.051 bé, chiếm tỉ lệ khoảng 10% (theo số liệu của phòng kế hoạch tổng hợp bệnh viện Từ Dũ), con số này cho thấy đây là một vấn đề rất đáng quan tâm. Đã có nhiều nghiên cứu về vai trò của các yếu tố nguy cơ gây SN-SNC như tuổi thai phụ quá trẻ (34 tuổi), khó khăn về kinh tế, đa thai, chăm sóc tiền sản kém, thai phụ hút thuốc lá, uống rượu, tăng huyết áp, đái tháo đường, lao động cực nhọc, hoặc nhiễm khuẩn niệu phụ khoa... Tuy vậy, vẫn còn khoảng 25% trường hợp SN-SNC xảy ra ở những thai phụ không có các yếu tố nguy cơ nói trên,4,7 đó là lý do khiến các nhà khoa học không ngừng tìm kiếm các nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng SN-SNC. Trên thế giới, về phương diện Y Học Chứng Cứ, đã có nhiều nghiên cứu cho thấy viêm nha chu là yếu tố nguy cơ độc lập gây ra SN- SNC8, tuy nhiên ở nước ta, chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Nghiên cứu bệnh chứng tìm hiểu nguy cơ gây sinh non-sinh nhẹ cân của bệnh viêm nha chu. 9 Tại bệnh viện Từ Dũ, khoa Hậu Sản thường, trong khoảng từ tháng 9/2013 đến tháng 1/2014, một nghiên cứu bệnh chứng không bắt cặp được thực hiện với tỉ lệ 1 bệnh/2 chứng. Nhóm bệnh gồm 76 sản phụ sinh con non tháng (tuổi thai dưới 37 tuẩn) sinh nhẹ cân (cân nặng< 2.500 gram) và nhóm chứng gồm 152 sản phụ sinh đủ tháng – đủ cân nặng. Những thông tin về tiền sử sản khoa liên quan đến thai kỳ được bác sĩ Sản phỏng vấn trực tiếp. Khám nha chu do bác sĩ răng hàm mặt thực hiện trên tất cả các răng cho các sản phụ tại giường bệnh trong vòng 48 giờ sau sinh. Kết quả nghiên cứu: hai nhóm bệnh-chứng tương đối đồng nhất về tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng kinh tế. Về tình trạng sức khỏe răng miệng: tỉ lệ viêm nướu ở nhóm bệnh là 98,7%, ở nhóm chứng là 87,5%. Tỉ lệ viêm nha chu ở nhóm bệnh: 30,3%, ở nhóm chứng: 16,4%. Phân tích hồi quy logistic cho thấy viêm nha chu là yếu tố nguy cơ gây SN-SNC với OR=2,2 (95% KTC: 1,2-4,3) p=0,009. Kết luận và đề xuất Nghiên cứu nói trên có kết luận: sản phụ bị viêm nha chu có nguy cơ SN-SNC tăng gấp 2,2 lần so với sản phụ không bị viêm nha chu, và khuyến cáo thai phụ nên đi khám răng để được điều trị nếu có viêm nha chu, nhờ đó tránh được nguy cơ SN-SNC. Trong chăm sóc tiền sản, các nhà sản khoa nên chú ý thêm vấn đề sức khỏe răng miệng của thai phụ:3 1. Hướng dẫn chải răng đúng cách, ít nhất 2 lần mỗi ngày. 2. Hướng dẫn làm sạch kẽ răng bằng chỉ nha khoa, ít nhất 1 lần mỗi ngày. 40 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 3. Nên đi khám răng để được làm sạch răng (cạo vôi răng) nếu cần thiết, thời điểm thích hợp là trong khoảng 3 tháng giữa thai kỳ. Tài liệu tham khảo 1. Vos, T; Flaxman, Abraham D; Naghavi, Mohsen; Lozano, Rafael; Michaud, Catherine; Ezzati, Majid; Shibuya, Kenji; Salomon, Joshua A; Abdalla, Safa; Aboyans, Victor; Abraham, Jerry; Ackerman, Ilana; Aggarwal, Rakesh; Ahn, Stephanie Y; Ali, Mohammed K; Almazroa, Mohammad A; Alvarado, Miriam; Anderson, H Ross; Anderson, Laurie M; Andrews, Kathryn G; Atkinson, Charles; Baddour, Larry M; Bahalim, Adil N; Barker-Collo, Suzanne; Barrero, Lope H; Bartels, David H; Basáñez, Maria- Gloria; Baxter, Amanda; Bell, Michelle L et al. (Dec 15, 2012). “Years lived with disability (YLDs) for 1160 sequelae of 289 diseases and injuries 1990- 2010: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2010”. Lancet380 (9859): 2163– 96. doi:10.1016/S0140-6736(12)61729-2. PMID 23245607. 2. Baskaradoss JK, Geevarghese A, Al Dosari AA(2012). Causes of Adverse Pregnancy Outcomes and the Role of Maternal Periodontal Status – A Review of the Literature. Open Dent J;6:79-84. 3. P. Barros,Heather L.Jared, Steven Offenbacher(2010). Periodontal disease and pregnancy complications. Robert J.Genco, Ray C.Williams.Periodontaldisease and Overall Health: A Clinician’s Guide. Professional Audience Communications, Inc, pp132-141. 4. McGaw T (2002). Periodontal disease and preterm delivery of low-birth-weight infants. Journal of the Canadian Dental Association;68(3):165–9. 5. Offenbacher S, Katz V, Fertik G, Collins J, Boyd D, Maynor G, et al (1996).Periodontal infection as a possible risk factor for preterm low birth weight. Journal of Periodontology;67 (10 Suppl):1103–13. 6. Collins JG, Windley HW 3rd, Arnold RR, Offenbacher S (1994). Effects of a Porphyromonas gingivalis infection on inflammatory mediator response and pregnancy outcome in hamsters. Infection and Immunity;62(10):4356–61. 7. Vergnes JN, Sixou M. Preterm low birth weight and maternal periodontal status: a meta analysis. Am J Obstet Gynecol 2007;196:135.el-7. 8. Crowther CA, Thomas N, Middleton P, Chua MC, Esposito M (2009). Treating periodontal disease for preventing preterm birth in pregnant women (Protocol). The Cochrane Library, Issue 1. 9. Trần Thị Lợi, Ngô Thị Quỳnh Lan, Lê Quang Thanh, Nguyễn Thị Yến Thu, Vũ Trần Bảo Châu (2014). Nguy cơ gây sinh non-sinh nhẹ cân của bệnh nha chu. Tạp chí Phụ Sản – 12(02 Phụ Bản), 10-14, 2014.
File đính kèm:
su_dung_dydrogesterone_trong_dieu_tri_doa_say_thai.pdf