Sử dụng dịch vụ chăm sóc cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ tại Hà Nội, 2018

Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiên trên 121 phụ huynh nhằm mô tả thực trạng sử dụng dịch vụ chăm sóc

cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ (ASD) của phụ huynh tại một số cơ sở chăm sóc trẻ tự kỷ tại Hà Nội và một số yếu tố

liên quan. Nghiên cứu tiến hành tại 7 cơ sở chăm sóc trẻ tự kỷ trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả cho thấy,

dịch vụ giáo dục được sử dụng nhiều nhất là trường chuyên biệt bán trú và chăm sóc tại nhà không có người

chăm sóc chuyên biệt. Dịch vụ y tế được sử dụng nhiều nhất là cơ sở y học cổ truyền và bệnh viện chuyên

khoa nhi. Các yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc trẻ của phụ hunh là giới tính, tuổi của trẻ

(dịch vụ giáo dục); trình độ học vấn của phụ huynh, tiêu chí tìm kiếm, thời gian chẩn đoán/điều trị (dịch vụ y tế).

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng dịch vụ chăm sóc cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ tại Hà Nội, 2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng dịch vụ chăm sóc cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ tại Hà Nội, 2018

Sử dụng dịch vụ chăm sóc cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ tại Hà Nội, 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
225TCNCYH 129 (5) - 2020
Tác giả liên hệ: Đỗ Thị Thanh Toàn, 
Viện ĐT YHDP &YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 01/02/2020
Ngày được chấp nhận: 28/03/2020
SỬ DỤNG DỊCH VỤ CHĂM SÓC CHO TRẺ RỐI LOẠN PHỔ 
TỰ KỶ TẠI HÀ NỘI, 2018
Đỗ Thị Thanh Toàn1, , Nguyễn Hữu Thắng¹, Nguyễn Ngọc Khánh², 
Nguyễn Hà Lâm², Trình Mai Lê2, Nguyễn Minh Hoàng2, 
Phạm Hải Thanh2
¹Viện ĐT YHDP&YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội
²Sinh viên Viện ĐT YHDP&YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiên trên 121 phụ huynh nhằm mô tả thực trạng sử dụng dịch vụ chăm sóc 
cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ (ASD) của phụ huynh tại một số cơ sở chăm sóc trẻ tự kỷ tại Hà Nội và một số yếu tố 
liên quan. Nghiên cứu tiến hành tại 7 cơ sở chăm sóc trẻ tự kỷ trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả cho thấy, 
dịch vụ giáo dục được sử dụng nhiều nhất là trường chuyên biệt bán trú và chăm sóc tại nhà không có người 
chăm sóc chuyên biệt. Dịch vụ y tế được sử dụng nhiều nhất là cơ sở y học cổ truyền và bệnh viện chuyên 
khoa nhi. Các yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc trẻ của phụ hunh là giới tính, tuổi của trẻ 
(dịch vụ giáo dục); trình độ học vấn của phụ huynh, tiêu chí tìm kiếm, thời gian chẩn đoán/điều trị (dịch vụ y tế).
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn phổ tự kỷ (Autism Spectrum 
Disorders - ASD) làm hạn chế đáng kể năng 
lực của một đứa trẻ trong các sinh hoạt hàng 
ngày và hoạt động xã hội. ASD gây ra những 
ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng học tập, tự 
chăm sóc bản than hay quan hệ xã hội của trẻ 
bị mắc cũng như cơ hội việc làm của trẻ sau 
này. Bên cạnh đó, ASD sẽ tạo ra gánh nặng 
kinh tế cho những trẻ bị mắc cũng như gia đình. 
Không những thế, những đứa trẻ mắc ASD 
thường phải chịu sự kỳ thị và phân biệt đối xử, 
bao gồm mất quyền lợi y tế, giáo dục và cơ hội 
để tham gia vào cộng đồng. Theo thống kê của 
Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO) (2017), tỉ lệ trẻ 
mắc rối loạn phổ tự kỷ là 1:160 trẻ trên toàn 
cầu.1 Ở Trung Quốc (2018), cứ 20 trẻ dưới 4 
tuổi thì có 1 trẻ bị rối loạn phổ tự kỷ.2 Tại Việt 
Nam (2018), cứ 100 trẻ sinh ra thì có 1 trẻ mắc 
rối loạn phổ tự kỷ.3
Trẻ bị rối loạn phổ tự kỷ thường cần can 
thiệp chuyên sâu và toàn diện trong suốt cuộc 
đời. Điều quan trọng là trẻ em mắc ASD và gia 
đình cần được cung cấp thông tin, dịch vụ, giới 
thiệu và hỗ trợ thiết thực theo nhu cầu cá nhân. 
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người mắc 
ASD rất phức tạp và đòi hỏi một loạt các dịch 
vụ tích hợp, bao gồm tăng cường sức khỏe, 
chăm sóc, phục hồi chức năng và cộng tác với 
các ngành khác như giáo dục, việc làm và các 
lĩnh vực xã hội.2 
Trên thế giới hiện đã có nhiều nghiên cứu về 
sử dụng các dịch vụ chăm sóc cho trẻ ASD của 
bậc phụ huynh nhưng chưa đề cập đến mức độ 
sử dụng các dịch vụ này như thế nào.4,5 Hiện 
nay, ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu đề cập đến 
việc tiếp cận và mức độ sử dụng dịch vụ chăm 
sóc sức khỏe cho trẻ của các phụ huynh có con 
mắc ASD. Do đó, chúng tôi đã tiến hành nghiên 
cứu này nhằm: (1) Mô tả thực trạng sử dụng 
dịch vụ chăm sóc trẻ rối loạn phổ tự kỷ của phụ 
Từ khóa: sử dụng dịch vụ, rối loạn phổ tự kỷ, phụ huynh, Hà Nội.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
226 TCNCYH 129 (5) - 2020
huynh tại một số cơ sở chăm sóc trẻ tự kỷ ở Hà 
Nội và (2) Mô tả một số yếu tố liên quan tới thực 
trạng sử dụng dịch vụ chăm sóc trẻ rối loạn phổ 
tự kỷ của phụ huynh tại một số cơ sở chăm sóc 
trẻ tự kỷ ở Hà Nội năm 2018.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là phụ huynh sống 
tại Hà Nội, có con được chẩn đoán là mắc rối 
loạn phổ tự kỷ, đang theo học, can thiệp và 
điều trị ở các trường, trung tâm chuyên biệt, 
bệnh viện cho các trẻ rối loạn phổ tự kỷ trên địa 
bàn thành phố Hà Nội năm 2018. Phụ huynh 
là người chăm sóc chính cho trẻ, có sức khỏe 
tâm thần bình thường, có khả năng giao tiếp 
và trả lời phỏng vấn; mắc chứng rối loạn phổ 
tự kỷ. Phụ huynh có sử dụng điện thoại (có thể 
phỏng vấn qua điện thoại nếu không gặp mặt 
được trực tiếp). Trường hợp cha mẹ có con 
mắc các hội chứng chậm nói, bại não sẽ bị loại 
ra khỏi nghiên cứu. Trẻ tự kỷ thường đồng mắc 
rối loạn tăng động, giảm chú ý; chậm phát triển 
tâm thần hay các rối loạn về đọc vẫn được lựa 
chọn vào nhóm nghiên cứu.
2. Phương pháp
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện 
trên 121 phụ huynh được chọn từ 7 cơ sở chăm 
sóc trẻ rối loạn phổ tự kỷ trên địa bàn thành phố 
Hà Nội. Kỹ thuật chọn mẫu chùm được thực 
hiện, lập danh sách tất cả các cơ sở chăm sóc 
trẻ tự kỷ trên địa bàn thành phố Hà Nội và chọn 
chủ đích 20 cơ sở. Chúng tôi đã tiếp cận được 
7/20 cơ sở đã liệt kê và tiến hành chọn toàn bộ 
phụ huynh đạt tiêu chuẩn lựa chọn tại các cơ 
sở đã chọn.
Bộ câu hỏi gồm 4 phần: Phần một là thông 
tin chung của phụ huynh, bao gồm: tuổi, giới, 
địa chỉ, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu 
nhập, hôn nhân, quan hệ với trẻ; Phần hai là 
thông tin chung của trẻ, bao gồm: tuổi, giới, thời 
gian phát hiện bất thường, thời gian khám lần 
đầu, thời gian can thiệp/điều trị đầu tiên; Phần 
ba là sử dụng dịch vụ chăm sóc trẻ, bao gồm: 
dịch vụ chăm sóc, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế 
và các dịch vụ khác. 
Phân tích số liệu: Số liệu được phân tích 
trên phần mềm STATA 12.0. Thống kê mô tả 
thực trạng sử dụng dịch vụ chăm sóc của phụ 
huynh: bảng mô tả tần số, giá trị trung bình cho 
phân bố chuẩn, trung vị cho phân bố không 
chuẩn và tỷ lệ. Các phép toán kiểm định sự 
khác biệt T-test, Chi-square và ANOVA được 
sử dụng để mô tả một số yếu tố liên quan đến 
thực trạng sự dụng dịch vụ chăm sóc của phụ 
huynh trẻ rối loạn phổ tự kỷ. Hệ số tương quan 
được sử dụng để tìm mối quan hệ giữa các đặc 
điểm của phụ huynh và trẻ với từng phái cạnh 
hài lòng của dịch vụ.
3. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được Hội đồng đề cương và 
Hội đồng đề tài cơ sở của Viện Đào tạo Y học 
Dự phòng & Y tế Công cộng phê duyệt.
III. KẾT QUẢ
1. Thông tin chung của đối tượng
Kết quả ở bảng trên cho thấy độ tuổi trung 
bình của phụ huynh là 39,8 ± 11,2 tuổi. Đa số là 
khu vực nội thành (71,1%), gần 2/3 phụ huynh 
có trình độ học vấn trên cấp 3. Nhóm phụ 
huynh là công nhân/viên chức chiếm tỷ lệ cao 
nhất (26,5%). Độ tuổi trung bình của đối tượng 
trẻ mắc ASD trong nghiên cứu là 8,4 ± 5,8. Đa 
số các trẻ được phụ huynh phát hiện thấy dấu 
hiệu bất thường ở tháng thứ 22 và chủ yếu trẻ 
được đưa đi khám lần đầu sau 1 tháng kể từ 
khi phát hiện. 
2. Đặc điểm sử dụng dịch vụ chăm sóc
2/3 phụ huynh đã từng tìm đến dịch vụ khác 
trước khi sử dụng dịch vụ hiện tại. Số phụ 
huynh mua bảo hiểm y tế cho trẻ chiếm đa số 
(87,6%). Về mức độ nặng của trẻ khi mới phát 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
227TCNCYH 129 (5) - 2020
hiện dấu hiệu bất thường, chủ yếu phụ huynh cảm thấy trẻ ở mức độ trung bình (49,6%). Về mức độ 
nặng của trẻ ở thời điểm hiện tại, đa số phụ huynh cảm thấy trẻ ở mức độ trung bình (52%)
3. Sử dụng dịch vụ giáo dục dành cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Hình 1. Điểm trung bình sử dụng dịch vụ giáo dục dành cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Phụ huynh sử dụng dịch vụ trường chuyên biệt cho trẻ tự kỷ bán trú nhiều nhất với điểm trung 
bình là 3,18 (95%CI: 2,82 – 3,45), tiếp đến là dịch vụ chăm sóc tại nhà không có người chăm sóc 
chuyên biệt (3,14; 95%CI: 2,80 – 3,48)
4. Sử dụng dịch vụ y tế dành cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Hình 2. Điểm trung bình sử dụng dịch vụ y tế dành cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Về mức độ sử dụng các dịch vụ y tế cho trẻ, cơ sở y học cổ truyền được phụ huynh sử dụng 
thường xuyên nhất (2,93; 95%CI: 2,62 – 3,25), tiếp đến là bệnh viện chuyên khoa nhi (2,60; 95%CI: 
2,33 – 2,88)
2,32
2,04
1,86
3,18
3,14
1,62
1,07
1 2 3 4 5
Trường bình thường không có giáo viên chuyên 
biệt đi kèm
Trường bình thường có giáo viên chuyên biệt đi 
kèm
Trường chuyên biệt cho trẻ tự kỷ nội trú
Trường chuyên biệt cho trẻ tự kỷ bán trú
Chăm sóc tại nhà không có người chăm sóc 
chuyên biệt
Chăm sóc tại nhà có người chăm sóc chuyên biệt
Dịch vụ giáo dục khác
2,632,01
2,311,77
2,131,59
3,452,82
3,482,80
1,841,40
1,170,98
2,60
2,12
1,72
1,14
2,93
1,08
1
2
3
4
Bệnh viện 
chuyên khoa 
nhi
Bệnh viện 
chuyên khoa 
về tâm thần 
kinh
Tự mua thuốc 
theo đơn
Tự mua thuốc 
không theo 
đơn
Cơ sở y học 
cổ truyền
Cơ sở y tế 
khác
2,88
2,33
2,38
1,87
1,96
1,48 1,22
1,06
3,25
2,62
1,17
0,99
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
228 TCNCYH 129 (5) - 2020
5. Dịch vụ khác dành cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Hình 3. Điểm trung bình dịch vụ khác dành cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Kết quả biểu đồ trên cho thấy trong các dịch vụ khác thì kết hợp nhiều loại dịch vụ được phụ 
huynh sử dụng thường xuyên nhất (2,28; 95%CI: 2,01 – 2,55) và dịch vụ đào tạo, tư vấn các dịch vụ 
chăm sóc trẻ cho người thân, gia đình (2,08; 95%CI: 1,82 – 2,35)
6. Một số yếu tố liên quan việc sử dụng dịch vụ chăm sóc dành cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Bảng 1. Một số yếu tố liên quan việc sử dụng dịch vụ chăm sóc dành 
cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Yếu tố
Dịch vụ giáo dục
Hệ số tương quan 
(95%CI)
Dịch vụ y tế
Hệ số tương 
quan (95%CI)
Dịch vụ khác
Hệ số tương 
quan (95%CI)
Giới tính của trẻ
Nam 0 0 0
Nữ
0,24
(0,02-0,46)
0,06
(-0,20) – (0,33)
-0,02
(-0,37) – (0,33)
Tuổi của trẻ khi phát hiện những 
dấu hiệu bất thường
-0.01
(-0,02) - (-0,0002)
0,001
(-0,01) – (0,01)
-0,01
(-0,02) – (0,01)
Điểm trung bình tiêu chí tìm kiếm 
dịch vụ 
-0,05
(-0,19) – (0,09)
0,30
(0,14 – 0,46)
0,11
(-0,11) – (0,34)
Đã từng sử dụng 
dịch vụ trước đây
Có 0 0 0
Không
-0,09
(-0,29) – (0,10)
-0,29
(-0,53) - (-0,04)
-0,21
(-0,52) – (0,42)
Khu vực sinh sống
Nông thôn 0 0 0
Thành thị
0,06
(-0,15) – (0,25)
-0,20
(-0,46) – (0,06)
-0,41
(-0,75) – (-0,07)
1,36
1,73
2,08
2,28
1,03
1.000
2.000
3.000
Dịch vụ hỗ trợ trẻ 
đi lại đến 
trường/cơ sở
Dịch vụ công tác 
xã hội khác
Đào tạo, tư vấn 
các dịch vụ chăm 
sóc trẻ cho người 
thân, gia đình
Kết hợp nhiều loại 
dịch vụ
Các dịch vụ khác
1,54
1,19
1,96
1,49
2,35
1,82
2,55
2,01
1,09
0,98
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
229TCNCYH 129 (5) - 2020
Yếu tố
Dịch vụ giáo dục
Hệ số tương quan 
(95%CI)
Dịch vụ y tế
Hệ số tương 
quan (95%CI)
Dịch vụ khác
Hệ số tương 
quan (95%CI)
Trình độ học vấn 
của phụ huynh
Cấp 3 trở 
xuống
0 0 0
Từ cấp 3 trở 
lên
0,32
(0,01 – 0,63)
0,12
(-0,13) – (0,36)
0,32
(0,01) – (0,63)
Khoảng thời gian từ lúc trẻ có 
dấu hiệu đến khi đi khám bác sĩ
0,003
(-0,01) – (0,02)
0,003
(-0,01) – (0,02)
-0,22
(-0,42) – (-0,22)
Khoảng thời gian từ lúc lần đầu 
đi khám bác sĩ đến lúc bắt đầu 
chữa trị
0,001
(-0,11) – (0,13)
-0,01
(-0,02) – (0,01)
-0,28
(-0,46) – (-0,10)
Mức độ sử dụng dịch vụ giáo dục của phụ 
huynh cho trẻ có liên quan đến giới tính của trẻ, 
tuổi của trẻ khi phát hiện bất thường, khu vực 
sinh sống và trình độ học vấn của phụ huynh 
(p < 0,05). Mức độ sử dụng dịch vụ y tế của 
phụ huynh cho trẻ có liên quan với tiêu chí tìm 
kiếm dịch vụ, đã từng sử dụng dịch vụ trước 
đây và khu vực sinh sống của phụ huynh (p < 
0,05). Mức độ sử dụng dịch vụ khác thì có mối 
liên quan có ý nghĩa thống kê đến khu vực sinh 
sống, trình độ học vấn, khoảng thời gian từ lúc 
trẻ có dấu hiệu đến khi đi khám bác sĩ, khoảng 
thời gian từ lúc lần đầu đi khám bác sĩ đến lúc 
bắt đầu chữa trị (p < 0,05).
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của Xin Zhang về tiếp cận 
dịch vụ y tế cho rằng các nghiên cứu quốc gia 
thường không chứng minh việc sử dụng dịch 
vụ y tế có liên quan chặt chẽ với mức độ sẵn 
có, đa dạng của dịch vụ do các nhà cũng cấp y 
tế cung cấp.6 Khác với nghiên cứu của chúng 
tôi, một số nghiên cứu khác chỉ ra rằng, giá cả 
của dịch vụ là một rào cản đối với việc tiếp cận 
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, do đó nó được coi 
là tiêu chí hàng đầu trong tìm kiếm.7 Việc lựa 
chọn chăm sóc bán trú hay chăm sóc tại nhà 
thường xuyên là phù hợp với kết quả của các 
nghiên cứu khác.5 Giải thích cho vấn đề này là 
do các phụ huynh thường có xu hướng mong 
muốn con cái của họ gần với gia đình hơn và 
không cha mẹ nào muốn con của họ phải vào 
một cơ sở điều trị nào mà không có cha mẹ 
theo dõi, quan tâm. 
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Tho thực hiện 
trên 148 cha mẹ bệnh nhi dưới 6 tuổi được 
chuẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ đang khám và 
điều trị ngoại trú tại Khoa Tâm thần Bệnh viện 
Nhi Trung ương cho thấy cha mẹ chọn nơi 
khám đầu tiên cho trẻ tự kỷ phần lớn ở phòng 
khám tâm thần (77,8%) và phòng khám Nhi 
(18,5%).8 Kết quả này khá giống với nghiên 
cứu của chúng tôi tuy nhiên trong nghiên cứu 
này không đề cập đến cơ sở y học cổ truyền. 
Một nghiên cứu khác của tác giả Xin Zhang, 
cha mẹ được hỏi về nhu cầu đối với dịch vụ 
phục hồi chức năng, 50% trong số họ đã chọn 
điều trị và phục hồi chức năng tại bệnh viện 
và 37,5% chọn được can thiệp tại nhà. Tuy 
nhiên, không cha mẹ nào hy vọng để cho con 
cái của họ được điều trị tại bệnh viện. 82,3% 
phụ huynh thích nhận can thiệp cho con cái họ 
ở nhà và 19,7% họ muốn được phục hồi chức 
năng của con cái họ trong các tổ chức chuyên 
ngành.6 Giải thích cho vấn đề này, có thể do sự 
phát triển của y học cổ truyền trong nền y học 
của các nước phương đông như Việt Nam và 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
230 TCNCYH 129 (5) - 2020
Trung Quốc đã tác động đến lựa chọn cơ sở y 
tế của phụ huynh. Kết quả nghiên cứu cho thấy 
dịch vụ ít được sử dụng là dịch vụ công tác xã 
hội (Coef = 1,73; 95%CI: 1,49 – 1,96), dịch vụ 
hỗ trợ trẻ đi lại đến trường/cơ sở (Coef = 1,36; 
95%CI: 1,19 – 1,54) và dịch vụ khác (Coef = 
1,03; 95%CI: 0,98 – 1,09). Nghiên cứu của Xin 
Wei cũng cho kết quả tương tự với 39% phụ 
huynh phối hợp các loại dịch vụ khác.9 Dịch vụ 
công tác xã hội được sử dụng với mức độ thấp 
trong cả nghiên cứu của chúng tôi và của tác 
giả Xin Wei đã phản ánh công tác xã hội cho trẻ 
mắc ASD chưa được phổ biến đối với các quốc 
gia như Việt Nam và Trung Quốc. 
Về trình độ học vấn, phụ huynh có trình độ 
trên cấp 3 sẽ có mức độ sử dụng dịch vụ khác 
cao hơn. Điều này có thể do cha mẹ có trình độ 
hiểu biết càng cao thì càng quan tâm hơn đến 
tình trạng bệnh của con và tìm hiểu nhiều hơn 
về các loại dịch vụ chăm sóc, điều trị cho trẻ. 
Nhờ vậy mà trẻ có nhiều cơ hội được hưởng 
các dịch vụ chăm sóc hơn. Về thời gian từ lúc 
phát hiện đến lúc khám lần đầu và thời gian từ 
lúc chẩn đoán đến lúc điều trị can thiệp càng 
tăng thì mức độ sử dụng các dịch vụ khác giảm. 
Kết quả của chúng tôi tương đồng với nghiên 
cứu của tác giả Xiang Sun.6 Điều này được giải 
thích do sự chậm trễ trong chẩn đoán và can 
thiệp dẫn đến khó khăn của phụ huynh trong 
việc sử dụng các dịch vụ khác sau này.
V.KẾT LUẬN
Dịch vụ giáo dục được phụ huynh sử dụng 
nhiều nhất là trường chuyên biệt cho trẻ tự kỷ 
bán trú và chăm sóc tại nhà không có người 
chăm sóc chuyên biệt. Dịch vụ y tế được phụ 
huynh sử dụng nhiều nhất là cơ sở y học cổ 
truyền tiếp đến là bệnh viện chuyên khoa nhi 
và bệnh viện chuyên khoa tâm thần kinh. Kết 
hợp nhiều loại hình dịch vụ chăm sóc được phụ 
huynh lựa chọn phổ biến.
Sử dụng dịch vụ giáo dục có các yếu tố: tuổi 
của trẻ khi phát hiện bất thường, khu vực sinh 
sống và trình độ học vấn của phụ huynh. Mức 
độ sử dụng dịch vụ y tế của phụ huynh cho 
trẻ có liên đã từng sử dụng dịch vụ trước đây. 
Mức độ sử dụng dịch vụ khác thì có mối liên 
quan đến khu vực sinh sống, trình độ học vấn, 
khoảng thời gian từ lúc trẻ có dấu hiệu đến khi 
đi khám bác sĩ, khoảng thời gian từ lúc lần đầu 
đi khám bác sĩ đến lúc bắt đầu chữa trị.
Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu gửi lời cảm ơn đến Viện 
Đào tạo Y học dự phòng & Y tế công cộng, 
Trường Đại học Y Hà Nội, tất cả những cộng 
sự tham gia vào nghiên cứu và các cơ sở chăm 
sóc trẻ tự kỷ đã giúp nghiên cứu được thực 
hiện thành công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Incidence of autism spectrum disorders: 
Changes over time and their meaning* - Rutter 
- Acta Paediatrica - Wiley Online Library.2005 - 
14(7):717-725.
2. Wang F, Lu L, Wang S-B, et al. The 
prevalence of autism spectrum disorders in 
China: a comprehensive meta-analysis. Int J 
Biol Sci. 2018;14(7):717-725.
3. Trẻ tự kỷ cần được bảo vệ bằng chính 
sách đặc biệt để có một cuộc sống tốt hơn. Sở 
Y Tế Thành Phố Hà Nội. 2018.
4. Bitterman A, Daley TC, Misra S, Carlson E, 
Markowitz J. A national sample of preschoolers 
with autism spectrum disorders: special 
education services and parent satisfaction. J 
Autism Dev Disord. 2008;38(8):1509-1517.
5. Sun X, Allison C, Auyeung B, Baron-
Cohen S, Brayne C. A review of healthcare 
service and education provision of Autism 
Spectrum Condition in mainland China. Res 
Dev Disabil. 2013;34(1):469-479.
6. Zhang X, Ji C. Autism and mental 
retardation of young children in China. Biomed 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
231TCNCYH 129 (5) - 2020
Summary
UTILIZATION OF CARE SERVICES FOR AUTISTIC CHILDREN 
IN HA NOI, 2018
A cross-sectional study was conducted on 121 parents that describe the current situation of 
using care services for children with Autism Spectrum Disorders (ASD) at the care centers in Hanoi 
and factors related to parental choices of these services. The results showed that educational 
services were mostly used are semi-boarding schools and non-specialized home-care centers. 
The medical services were traditional medicine facilities and specialized pediatric and psychiatric 
hospitals. Factors related to parental care choices were gender, age of the child (educational 
service), parent education, search criteria, diagnosis / treatment time (medical services).
Keywords: utilize services, autism spectrum disorders, parents, Hanoi. 
Environ Sci BES. 2005;18(5):334-340.
7. El-Kebbi IM, Bacha GA, Ziemer DC, et al. 
Bệnh tiểu đường ở người Mỹ gốc Phi thành thị. 
V. Sử dụng các nhóm thảo luận để xác định 
các rào cản đối với liệu pháp ăn kiêng ở những 
người có thu nhập thấp với bệnh đái tháo 
đường không phụ thuộc insulin. Diabetes Educ. 
1996;22(5):488-492.
8. Nguyễn Thị Thơ . Tìm hiểu nhận biết của 
cha mẹ trẻ tự kỷ về những bất thường của rối 
loạn tự kỷ. 2013.
9. Wei X, Wagner M, Christiano ERA, 
Shattuck P, Yu JW. Special Education Services 
Received by Students with Autism Spectrum 
Disorders from Preschool through High School. 
J Spec Educ. 2014;48(3):167-179.

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_dich_vu_cham_soc_cho_tre_roi_loan_pho_tu_ky_tai_ha_n.pdf