Sử dụng chế độ sinh hoạt hàng ngày làm phương tiện giáo dục tính tự lập cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non

Abstract: The article refers to the content and meaning of daily living mode in educating

independent personality for children. On that basis, we offer orientation to use daily living mode

as a means of organizing life for children, creating opportunities for children to express their needs,

interests and self-participation in daily activities to serve individuals, group through activities of

playing, learning, eating, sleeping,. That contributes to improving the quality of children

education in general and education of children's independent personality for 3-4 years old children

in particular.

Keywords: Independent personality, educating independent personality, daily living mode in

preschool, means, using daily living mode.

pdf 6 trang phuongnguyen 5980
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng chế độ sinh hoạt hàng ngày làm phương tiện giáo dục tính tự lập cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng chế độ sinh hoạt hàng ngày làm phương tiện giáo dục tính tự lập cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non

Sử dụng chế độ sinh hoạt hàng ngày làm phương tiện giáo dục tính tự lập cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 445 (Kì 1 - 1/2019), tr 20-25 
20 
SỬ DỤNG CHẾ ĐỘ SINH HOẠT HÀNG NGÀY LÀM PHƯƠNG TIỆN 
GIÁO DỤC TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ 3-4 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON 
Lê Thị Huyên - Trường Đại học Hồng Đức 
Ngày nhận bài: 17/06/2018; ngày sửa chữa: 03/07/2018; ngày duyệt đăng: 04/12/2018. 
Abstract: The article refers to the content and meaning of daily living mode in educating 
independent personality for children. On that basis, we offer orientation to use daily living mode 
as a means of organizing life for children, creating opportunities for children to express their needs, 
interests and self-participation in daily activities to serve individuals, group through activities of 
playing, learning, eating, sleeping,... That contributes to improving the quality of children 
education in general and education of children's independent personality for 3-4 years old children 
in particular. 
Keywords: Independent personality, educating independent personality, daily living mode in 
preschool, means, using daily living mode. 
1. Mở đầu 
Tính tự lập (TTL) là một trong những phẩm chất rất 
quan trọng trong nhân cách của con người. Tự lập giúp 
con người chủ động, dễ thích ứng và hòa nhập với những 
biến đổi của tự nhiên, xã hội. TTL càng phát triển thì con 
người càng thành công trong cuộc sống. Trong quá trình 
phát triển và hoàn thiện nhân cách, lứa tuổi mầm non có 
vị trí đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự 
phát triển sau này. Giáo dục TTL cho trẻ ngay từ khi còn 
bé là hết sức cần thiết, giúp trẻ có ý thức trách nhiệm đối 
với bản thân, công việc, nhiệm vụ được giao; đặc biệt là 
trẻ 3-4 tuổi đã xuất hiện nhu cầu tự lập. Trẻ muốn tự 
khẳng định mình bằng cách “tập làm người lớn”, mong 
muốn được làm những công việc của người lớn, nhưng 
thực tế trẻ chưa đủ sức lực và tri thức để làm; dẫn đến ở 
trẻ diễn ra mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu và khả năng 
của chính mình. Các nhà tâm lí học gọi đây là “Thời kì 
khủng hoảng tuổi lên 3”. 
Vậy làm cách nào để giúp trẻ giải quyết mâu thuẫn, 
đồng thời thỏa mãn nhu cầu tự khẳng định chính mình 
với mọi người trong cuộc sống hàng ngày? Đây chính là 
thời cơ để giáo dục TTL cho trẻ, tạo cơ hội cho trẻ được 
tự làm, tự quyết định, tự cố gắng tìm cách giải quyết và 
hoàn thiện nhiệm vụ... và trở thành người tự tin, năng 
động và sáng tạo trong cuộc sống sau này. 
Chế độ sinh hoạt hàng ngày (CĐSHHN) ở trường 
mầm non là phương tiện giáo dục TTL phù hợp và hiệu 
quả đối với trẻ nói chung và trẻ 3-4 tuổi nói riêng. Thông 
qua các hoạt động trong CĐSHHN, trẻ được tự đưa ra ý 
tưởng, tự quyết định và được tự thể hiện mọi nhu cầu, sở 
thích của mình. Trẻ có nhiều cơ hội được thực hành, trải 
nghiệm thông qua những hoạt động trong thực tiễn; qua 
đó hình thành, củng cố, rèn luyện nền nếp thói quen tốt cho 
trẻ, là cơ sở khoa học để giáo dục TTL cho trẻ 3-4 tuổi. 
Tuy nhiên, để CĐSHHN mang lại hiệu quả cao trong 
việc giáo dục TTL cho trẻ, đòi hỏi vai trò của giáo viên 
(GV) vô cùng quan trọng trong việc phát huy hết những 
ưu thế của từng hoạt động trong CĐSHHN. Với những 
lí do đó, bài viết đề cập về cách sử dụng CĐSHHN làm 
phương tiện để giáo dục TTL cho trẻ 3-4 tuổi. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Tính tự lập và giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 
3-4 tuổi 
2.1.1. Khái niệm “tính tự lập” 
Khái niệm “TTL” đã được các nhà nghiên cứu trong 
và ngoài nước đề cập nhiều trong các công trình nghiên 
cứu. Họ đã có những định nghĩa khác nhau về TTL. 
Từ điển Hán - Việt giải thích, “TTL là tự mình vun 
trồng lấy mà đứng lên được, không dựa dẫm vào ai” 
[1; tr 27]. 
Theo Từ điển Tiếng Việt: “TTL là tự xây dựng lấy 
cuộc sống cho mình, tin vào khả năng và sự cố gắng nỗ 
lực của chính bản thân mình” [2; tr 15]. 
Như vậy, về bản chất, TTL là khả năng tự mình lên 
kế hoạch, tự mình kiểm soát các hoạt động dựa trên kiến 
thức hiện có của cá nhân mà không dựa vào người khác, 
không phụ thuộc vào hoàn cảnh nhằm thực hiện mục 
tiêu đề ra. 
Từ những phân tích trên, có thể hiểu, TTL của trẻ mẫu 
giáo là khả năng trẻ tự lập kế hoạch, tự hoạt động, tự tìm 
kiếm cách thức để giải quyết nhiệm vụ mà không dựa vào 
người khác, không phụ thuộc vào hoàn cảnh, nhằm thực 
hiện mục tiêu của mình đã đặt ra. 
2.1.2. Cấu trúc tính tự lập 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 445 (Kì 1 - 1/2019), tr 20-25 
21 
Nghiên cứu về cấu trúc TTL của trẻ, S.A. Zvereva đã 
coi TTL của trẻ là một đặc tính của phương thức hoạt 
động. Từ quan điểm này, cấu trúc độc lập sẽ tương ứng 
với cấu trúc hoạt động và bao gồm động cơ, mục đích, 
hành động cá nhân [3]. 
Nguyễn Thanh Huyền cho rằng, tính tự lực là một 
phẩm chất của nhân cách, mỗi phẩm chất nhân cách là 
tổng hợp phức tạp của kiến thức, thái độ và hành vi; từ 
đó xác định cấu trúc của tính tự lực bao gồm các thành 
phần: nhận thức về tính tự lực, thái độ đối với tính tự lực, 
hành vi tự lực [4]. 
Từ đó, có thể xem cấu trúc TTL bao gồm các thành 
phần sau: nhận thức, hành vi thực tiễn và thái độ biểu 
hiện. Các thành phần này thống nhất với nhau, hỗ trợ, bổ 
sung cho nhau. Một đứa trẻ có TTL được biểu hiện bởi 
những thành phần sau: 
- Nhận thức tại sao phải tự thực hiện nhiệm vụ này? 
để làm gì? mình làm được những gì? làm như thế nào? 
- Có hành động cụ thể biểu hiện ra bên ngoài như tự 
làm điều mình thích, tự tìm kiếm cách thức để hoàn 
thành nhiệm vụ được giao, kiên trì, hào hứng để thực 
hiện hành động. 
- Thái độ của trẻ ra sao? tự tin, mạnh dạn, sẵn sàng 
hành động tự lập, lên án, phê phán những hành vi phụ 
thuộc, ỷ lại người khác. 
2.1.3. Giáo dục tính tự lập cho trẻ 3-4 tuổi 
Giáo dục là hoạt động chuyên biệt nhằm hình thành 
và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu 
của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. 
Theo tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt, khái 
niệm “giáo dục” được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa 
hẹp, cụ thể như sau: - Theo nghĩa rộng, “giáo dục là 
một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ 
chức một cách có mục đích, có kế hoạch thông qua các 
hoạt động và có quan hệ giữa người được giáo dục và 
người giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những 
kinh nghiệm xã hội của loài người”; - Theo nghĩa hẹp, 
“giáo dục là quá trình hình thành niềm tin, lí tưởng, 
động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách của 
nhân cách, những hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn 
trong xã hội, thông qua việc tổ chức cho họ cấc hoạt 
động và giao lưu” [5; tr 14]. 
Từ đó, có thể hiểu, giáo dục TTL cho trẻ 3-4 tuổi là 
quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà giáo 
dục tới trẻ thông qua các hoạt động trong sinh hoạt hàng 
ngày nhằm hình thành và phát triển TTL cho trẻ. 
2.1.4. Đặc điểm tính tự lập của trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi 
- Trẻ xuất hiện nhu cầu, mong muốn trong ý định của 
mình: Biểu hiện TTL đầu tiên của trẻ là nhằm thỏa mãn 
nhu cầu vận động, nhu cầu hoạt động với đồ vật như 
muốn tự đi, tự lấy đồ chơi, tự chơi một mình. Lúc này, 
TTL của trẻ thuần túy ở khía cạnh hành vi, khi người lớn 
cung cấp cho trẻ đồ vật, đồ chơi dễ cầm nắm, trẻ tập sử 
dụng chúng để thỏa mãn nhu cầu, đó cũng là điều kiện 
thúc đẩy sự phát triển TTL của trẻ sau này. 
- Trẻ xuất hiện ý thức về bản thân, tự khẳng định 
mình: Trẻ xuất hiện nhu cầu tự khẳng định mình, thể 
hiện qua hành động tự lập không phụ thuộc vào người 
lớn. Trẻ mong muốn tự hành động theo ý muốn của 
mình, muốn tự mình bắt chước làm tất cả những công 
việc giống người lớn, mặc dù trên thực tế trẻ chưa làm 
được. Trẻ thể hiện qua hành động tự lập không phụ 
thuộc vào người lớn trong sinh hoạt hàng ngày (thích tự 
rửa chén, thích tự lau nhà, thích tự nhặt rau, thích tự bế 
em...) [6], [7]. 
Trong giao tiếp ứng xử thể hiện qua lời nói của trẻ 
như: “tự con”, “mặc kệ con”, “con tự làm được” có thể 
được xem là dấu hiệu đáng tin cậy nhất của sự biến đổi 
từ những biểu hiện ra bên ngoài qua hành vi phục vụ đã 
chuyển thành những dấu hiệu tự lực bên trong. Trẻ đã 
phân biệt những động cơ hoạt động của mình và của 
người khác [6], [7]. Đây chính là dấu hiệu tốt làm cơ sở 
cho quá trình giáo dục TTL cho trẻ. 
- Trẻ có khả năng tự mình làm được một số việc đơn 
giản: Mức độ tự lập của trẻ tiếp tục được bộc lộ rõ nét và 
nội dung phong phú hơn trong nhiều hoạt động vệ sinh 
cá nhân như: khi rửa tay, trẻ biết tự xắn tay áo, tự thực 
hiện các thao tác rửa; khi rửa mặt, trẻ biết tự lấy khăn và 
lau...; trong khi ăn, trẻ biết tự xúc ăn hết suất, ăn xong trẻ 
biết tự cất bát, tự lau mặt, tự lấy nước uống...; trẻ tự lập 
trong học, tự thực hiện các khâu như chuẩn bị đồ dùng 
học tập, đồ chơi, phương tiện cho các hoạt động cùng cô; 
trẻ tự lập trong trò chơi (lựa chọn các trò chơi, vai chơi, 
nội dung chơi...) [6], [7]. Tuy nhiên, để đạt được khả 
năng tự làm của trẻ thì vai trò của người lớn rất quan 
trọng trong việc tạo ra những điều kiện thuận lợi về vật 
chất lẫn tinh thần, giúp trẻ dễ dàng và tự tin thể hiện khả 
năng của mình 
- Trẻ kiên trì, hứng thú trong hoạt động và có khả 
năng điều chỉnh hành vi để hoàn thành nhiệm vụ: Lúc 
này trẻ trở nên kiên trì, hứng thú hơn trong hoạt động. 
Trẻ làm đi làm lại nếu chưa làm được một việc gì đó. Trẻ 
có sự tập trung chú ý hơn, hứng thú với nhiệm vụ được 
giao cũng như biết tự điều chỉnh nhu cầu, sở thích và 
hành vi của mình để mong muốn hoàn thành nhiệm vụ 
và đạt được mục đích của hoạt động. Ví dụ: trẻ mong 
muốn được tự xếp một ngôi nhà cho búp bê theo ý muốn 
của mình nhưng chưa đủ khả năng để thực hiện một cách 
dễ dàng nên trẻ đã phải kiên trì, làm đi làm lại, tự điều 
chỉnh hành động, thao tác của mình. Mặt khác, lúc này 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 445 (Kì 1 - 1/2019), tr 20-25 
22 
trẻ rất hứng thú trong hoạt động bởi trẻ mong muốn có 
được sản phẩm do mình tự làm để khẳng định bản thân 
và đặc biệt hơn là được người lớn khen. 
Vì vậy, ở độ tuổi này, người lớn cần quan tâm đến 
hành vi tự lập của trẻ trong các hoạt động, kịp thời động 
viên, khích lệ và giúp đỡ trẻ một cách tế nhị, duy trì sự 
hứng thú của trẻ, giúp trẻ học cách suy nghĩ, lựa chọn 
cách giải quyết phù hợp để tự hoàn thành nhiệm vụ, 
mục đích đề ra. Qua đó, còn rèn luyện tính kiên trì, 
trong hoạt động. 
- Bước đầu trẻ biết tự đánh giá kết quả hoạt động và 
đánh giá bản thân như một chủ thể hoạt động: Dấu hiệu 
này xuất hiện khi trẻ ngoài 3 tuổi. Lúc này trẻ đã có khả 
năng so sánh kết quả đạt được với ý định ban đầu. Tuy 
nhiên, ở giai đoạn này, trẻ luôn đánh giá bản thân là tốt, 
là đúng mà không quan tâm nhiều đến hành động và kết 
quả đạt được. Người lớn cần kịp thời khích lệ trẻ, giúp 
trẻ trải nghiệm những cảm xúc thỏa mãn khi trẻ thành 
công, dù chỉ là thành công nhỏ nhất của trẻ. Bên cạnh 
việc tán dương, khen thưởng những thành công của trẻ, 
người lớn cũng cần nhắc nhở khi trẻ phạm sai lầm để dần 
dần trẻ biết được hành động của chúng là tốt hay chưa 
tốt. Thông qua đó, dần dần trẻ học được cách đánh giá 
kết quả và đánh giá quá trình hoạt động. 
Như vậy, trẻ 3-4 tuổi đã có một số biểu hiện tự lập. 
Tuy nhiên, để giáo dục trẻ tự lập được thì lứa tuổi này 
không thể thiếu vai trò của người lớn trong các hoạt 
động để kịp thời có những hỗ trợ phù hợp, giúp trẻ có 
những điều chỉnh hành vi của mình phù hợp, tạo cơ hội 
để trẻ bộc lộ và phát huy được TTL của mình trong các 
hoạt động. 
2.2. Chế độ sinh hoạt hàng ngày và sử dụng chế độ sinh 
hoạt hàng ngày làm phương tiện giáo dục tính tự lập 
cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non 
2.2.1. Khái niệm “Chế độ sinh hoạt hàng ngày” của trẻ 
ở trường mầm non 
Khi nghiên cứu về CĐSHHN của trẻ, có rất nhiều 
quan niệm khác nhau: 
Tác giả Skhodnya cho rằng, “CĐSHHN của trẻ là 
lịch trình các hoạt động trong lớp học cho trẻ, được thiết 
kế phù hợp cho trẻ em ở từng độ tuổi, có đủ thời gian cho 
các trò chơi, hoạt động học và giải trí tích cực. Chế độ 
phù hợp với từng mùa, từng trường và tuân thủ theo các 
quy tắc chung” [8; tr 8]. 
Tác giả Nguyễn Thị Hòa cho rằng, “Chế độ sinh hoạt 
của trẻ là một quy trình khoa học nhằm phân phối thời 
gian và trình tự các hoạt động trong ngày cũng như việc 
ăn uống, nghỉ ngơi của trẻ một cách hợp lí, đúng đắn” 
[9; tr 138]. 
Theo tác giả Hoàng Thị Phương, “Chế độ sinh hoạt 
là sự luân phiên rõ ràng và hợp lí các dạng hoạt động và 
nghỉ ngơi của trẻ trong một ngày, nhằm thỏa mãn đầy đủ 
nhu cầu về ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân, hoạt động và nghỉ 
ngơi của trẻ theo lứa tuổi, đảm bảo trạng thái cân bằng 
của hệ thần kinh, giúp cơ thể phát triển tốt” [10; tr 49]. 
Từ đó, có thể hiểu “CĐSHHN của trẻ” như sau: 
CĐSHHN của trẻ là lịch trình các hoạt động trong ngày 
của trẻ ở trường mầm non, có sự phân phối về thời gian 
và luân phiên giữa các hoạt động và nghỉ ngơi một cách 
khoa học, hợp lí để tổ chức cuộc sống cho trẻ, giúp trẻ 
phát triển tốt. 
2.2.2. Nội dung Chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ ở 
trường mầm non 
Skhodnya đưa ra nội dung trong CĐSHHN bao gồm 
các hoạt động từ đón trẻ, học, dạo chơi ngoài trời, ăn trưa, 
ngủ trưa, sinh hoạt chiều, trả trẻ [10]. 
Các tác giả Nguyễn Thị Hòa [9], Hoàng Thị Phương 
[10], Nguyễn Thanh Huyền [4],... đã chỉ ra nội dung 
CĐSHHN của trẻ bao gồm các hoạt động: Đón trả trẻ, 
các hoạt động học; hoạt động ngoài trời; hoạt động chơi; 
vệ sinh ăn, ngủ, sinh hoạt chiều... 
Chương trình giáo dục mầm non, ban hành theo 
Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25/7/2009 của 
Bộ trưởng Bộ GD-ĐT [11], có thể dự kiến nội dung 
CĐSHHN của trẻ 3-4 tuổi với các hoạt động từ đón trẻ, 
hoạt động học, hoạt động chơi, hoạt động ngoài trời, vệ 
sinh, ăn, ngủ, sinh hoạt chiều, trả trẻ. 
Như vậy, có thể hiểu, nội dung CĐSHHN chính là 
quy trình các hoạt động từ đón trẻ, hoạt động học, hoạt 
động chơi, hoạt động ngoài trời, ăn, ngủ, sinh hoạt chiều 
đến trả trẻ mà GV sử dụng để tổ chức cuộc sống cho trẻ, 
tạo cơ hội để trẻ tự thể hiện nhu cầu, sở thích, tự thể hiện 
khả năng, trách nhiệm của mình... trong các hoạt động 
nhằm giáo dục TTL cho trẻ. 
2.2.3. Vai trò của Chế độ sinh hoạt hàng ngày đối với 
giáo dục trẻ nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ 
3-4 tuổi nói riêng 
CĐSHHN chính là phương tiện để giáo dục TTL cho 
trẻ ở trường mầm non. Bởi lẽ, tổ chức CĐSHHN thực 
chất là GV tổ chức các hoạt động từ đón trẻ, chơi, học, 
ăn, ngủ, lao động, dạo chơi... để tạo cơ hội cho trẻ được 
tự làm, tự thỏa mãn nhu cầu, sở thích của bản thân mà 
không phải chịu sự cấm đoán của người lớn. Chẳng hạn, 
trẻ được tự quét nhà giúp cô, tự bế em, tự cho em ăn, tự 
nhặt rau, tự rửa bát, tự nấu cơm thông qua các vai chơi... 
Thông qua các hoạt động trong CĐSHHN, trẻ còn được 
tự đưa ra ý tưởng hoạt động, tự lựa chọn nội dung hoạt 
động. Chẳng hạn, thông qua chơi, GV tạo cơ hội cho trẻ 
tự đưa ra ý tưởng về trò chơi, tự lựa chọn góc chơi, nội 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 445 (Kì 1 - 1/2019), tr 20-25 
23 
dung chơi, vai chơi, qua đó trẻ tự khẳng định được mình. 
Đây là cơ hội mà người lớn trao cho trẻ, giúp trẻ mạnh 
dạn, tự tin để bộc lộ mọi nhu cầu, sở thích và khả năng 
của mình, từ đó ngươi lớn nắm bắt được để có tác động 
phù hợp, giúp trẻ phát huy được TTL của mình trong các 
hoạt động. 
Mặt khác, trong quá trình tổ chức các hoạt động được 
lặp đi, lặp lại trong CĐSHHN và được tổ chức một cách 
thường xuyên, liên tục với sự đa dạng về nội dung, 
phương pháp, hình thức và biện pháp tổ chức sẽ là cơ hội 
để trẻ được thực hành, rèn luyện từ đó hình thành cho trẻ 
nề nếp, thói quen tốt trong các hoạt động, là cơ sở tốt cho 
quá trình giáo dục TTL cho trẻ. Chẳng hạn, thông qua 
giờ đón trẻ, GV rèn luyện cho trẻ biết tự mình cất đồ cá 
nhân đúng nơi quy định, giờ học, giờ chơi GV rèn luyện 
cho trẻ biết tự chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi, tự tham gia vào 
trò chơi, tự đưa ra ý tưởng... Đến giờ ăn, ngủ, GV rèn cho 
trẻ biết tự phục vụ bản thân, tự vệ sinh cá nhân... Như 
vậy, thông qua các hoạt động, qua ngày này ngày khác, 
trẻ được luyện tập liên tục sẽ thành thói quen tốt và khi 
trẻ đã có thói quen thì trẻ rất tự giác để tham gia và tự làm 
lấy trong các hoạt động, không có tính ỷ lại hay chờ đợi 
người lớn giúp, giờ nào việc đó trẻ sẽ rất tự lập. 
Ngoài ra, thông qua các hoạt động hàng ngày, trẻ còn 
được tự giải quyết các “tình huống chơi” thông qua các 
vai chơi, “tình huống thật” thông qua các hoạt động trải 
nghiệm thực tiễn. 
Qua đó giúp trẻ có cơ hội được tự giải quyết, tự tìm 
kiếm cách thức để tự hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân. 
Chẳng hạn, thông qua trò chơi, cô tạo tình huống thiếu 
đồ dùng, đồ chơi trẻ phải tự suy nghĩ để tìm vật thay thế 
để thực hiện được nội dung của trò chơi. Hay, thông qua 
việc GV giao các nhiệm vụ cho trẻ như lau đồ dùng, trực 
nhật lớp, sắp xếp đồ dùng đồ chơi trong lớp... trẻ sẽ phải 
tự tìm kiếm cách thức, phương tiện, tự giải quyết các tình 
huống trong quá trình thực hiện để tự hoàn thành nhiệm 
vụ của cô. 
Như vậy, có thể khẳng định được rằng, CĐSHHN có 
vai trò rất quan trọng đối với quá trình giáo dục nói chung 
và giáo dục TTL nói riêng. GV cần tổ chức các hoạt động 
trong CĐSHHN một cách thường xuyên, liên tục, giúp 
trẻ có cơ hội được rèn luyện, củng cố và phát triển TTL. 
2.3. Sử dụng chế độ sinh hoạt hàng ngày làm phương tiện 
giáo dục tính tự lập cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non 
CĐSHHN mang lại hiệu quả giáo dục TTL cho trẻ 
nói chung và trẻ 3-4 tuổi nói riêng khi GV biết thiết kế 
và tổ chức các hoạt động trong CĐSHHN một cách phù 
hợp, khoa học, giúp trẻ chủ động thể hiện nhu cầu, sở 
thích, được tham gia vào hoạt động tìm kiếm, khám phá, 
trải nghiệm, thông qua các hoạt động trong ngày như 
chơi, học, ăn, ngủ... qua đó trẻ bộc lộ và phát huy được 
TTL. Cụ thể: 
Thứ nhất: Thông qua hoạt động vui chơi 
Trước hết, GV cần xác định rõ hoạt động chơi là một 
dạng hoạt động không mang tính bắt buộc mà mang tính 
tự do, tự nguyện. Mặt khác, hoạt động này không nhằm 
tạo ra sản phẩm và hành động chơi không nhất thiết phải 
theo một phương thức nhất định mà do trẻ tự nghĩ ra dự 
định chơi của mình, lên kế hoạch chơi, chọn góc chơi, 
bạn chơi, vai chơi... Chính vì vậy, trong quá trình tổ chức 
chơi cho trẻ, GV tạo cơ hội để trẻ cùng được tham gia 
vào quá trình chuẩn bị về đồ dùng, đồ chơi, tạo môi 
trường để phục vụ cho hoạt động vui chơi. Chẳng hạn 
như cô giao nhiệm vụ cho trẻ tô màu, dán hoa, gắn các 
họa tiết để trang trí đồ chơi... sản phẩm làm được cô kịp 
thời khen ngợi và chụp lưu hình ảnh để khuyến khích trẻ, 
tạo niềm tin, động lực hoạt động tự lập của trẻ. 
Trong quá trình tổ chức cho trẻ chơi, GV tạo cơ hội 
để trẻ tự đề xuất những mong muốn, nhu cầu về lựa chọn 
trò chơi, vai chơi, nội dung chơi. Chẳng hạn: Chúng mình 
dự định chơi những trò chơi gì? Để chơi được trò chơi đó 
phải cần có ai? cần những đồ dùng đồ chơi gì? Các con 
sẽ chuẩn bị được những gì?... Với những câu hỏi gợi ý 
như vậy sẽ giúp trẻ hào hứng, say sưa suy nghĩ và tự đưa 
ra lựa chọn của mình về trò chơi, các vai chơi, nội dung 
chơi theo sở thích của mình mà không bị áp đặt theo dự 
định của cô. 
Trong quá trình chơi, GV khuyến khích trẻ chơi theo 
sở thích, tôn trọng nhu cầu, mong muốn của chính trẻ. 
GV tạo ra các tình huống phù hợp với khả năng của từng 
trẻ, khích lệ trẻ chủ động giải quyết tình huống, tạo tính 
tự tin, chủ động, qua đó phát triển TTL cho trẻ. Ví dụ: 
Trong nhóm chơi nấu ăn, cô có thể tham gia chơi cùng 
thông qua việc tạo tình huống: “Xin chào các bạn. Tôi 
rất muốn được học để nấu những món ăn ngon, tôi có thể 
làm công việc gì giúp các bạn được không...”. 
Cô luôn sẵn sàng chấp nhận “sản phẩm tự lập” và 
động viên, khuyến khích trẻ kịp thời. Đối với những trẻ 
nhút nhát, khả năng tự lập chưa tốt để hoàn thành nhiệm 
vụ của vai chơi, GV không nóng vội, làm thay, làm hộ 
trẻ mà phải quan tâm hơn, cùng chơi với trẻ như một 
người bạn để gợi ý cùng trẻ giải quyết nhiệm vụ của 
vai chơi. GV kiên nhẫn, nhẹ nhàng khuyến kích, động 
viên để tiếp cho trẻ thêm niềm tin vào chính khả năng 
của mình. 
Ví dụ: Trong nhóm chơi bác sĩ, Việt Anh với vai trò 
đóng vai bác sĩ nhưng chưa thể hiện rõ được nhiệm vụ 
của vai chơi. Khi cô tạo tình huống, trẻ còn lúng túng 
trong cách giải quyết. Tuy nhiên, cô khuyến khích trẻ, 
“Bác Việt Anh hôm nay làm bác sĩ đã biết thăm hỏi bệnh 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 445 (Kì 1 - 1/2019), tr 20-25 
24 
nhân, khám bệnh cho bệnh nhân và khi khám xong, bác 
sĩ còn phải làm gì?... và cô rất vui vì sự cố gắng của 
con...”. Với những lời khuyến khích động viên trẻ như 
vậy, sẽ giúp trẻ thêm tự tin, mạnh dạn và tích cực hơn, 
bởi trẻ thấy được sự quan tâm, gần gũi, sự ủng hộ nhiệt 
tình của cô đối với những cố gắng của mình. 
GV cùng trẻ tham gia vào quá trình nhận xét, đánh 
giá trong quá trình chơi, giúp trẻ cảm thấy tự hào, vui 
sướng về bản thân và những việc mình làm, bạn làm tốt. 
Biết nhận ra những lỗi sai của bản thân và mong muốn 
sửa chữa làm lại. Biết nhận xét, đánh giá về hành động, 
những thao tác của mình, của bạn. Qua đó, trẻ trở nên tự 
tin trong hoạt động và trở nên tự lập hơn trong các hoạt 
động tiếp theo. 
Thứ hai: Thông qua hoạt động học 
Học là hoạt động mang tính bắt buộc đối với trẻ ở 
trường mầm non. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm tâm 
lí của trẻ 3-4 tuổi để thực hiện được mục đích của hoạt 
động học, trong quá trình tổ chức, GV cần biến nhiệm vụ 
học trở thành nội dung chơi để khuyến khích trẻ tích cực, 
chủ động tham gia vào các trò chơi, qua đó thực hiện 
được nhiệm vụ học tập. Đồng thời, chính là cơ hội để tổ 
chức cho trẻ được tham gia vào quá trình học tập. Vì vậy, 
GV cần: Dựa vào “môn học công cụ” để thiết kế nội dung 
lồng ghép giáo dục TTL vào hoạt động học trong ngày 
của trẻ sao cho phù hợp về lượng kiến thức, nội dung chủ 
đề và khả năng của trẻ, tránh hiện tượng nội dung lồng 
ghép quá ôm đồm, gây hiện tượng trẻ hoạt động quá mệt 
và không thực hiện tốt được mục đích chính của “môn 
học công cụ”. Căn cứ vào “môn học công cụ” và nội 
dung lồng ghép giáo dục TTL, GV thiết kế dưới dạng trò 
chơi, vai chơi, nhiệm vụ chơi để kích thích trẻ chủ động 
trong hoạt động tìm kiếm, khám phá và thực hiện nhiệm 
vụ học. Qua đó thực hiện được mục tiêu cần đạt của hoạt 
động học, đồng thời giáo dục TTL cho trẻ. 
Ví dụ: “Môn học công cụ” của trẻ mẫu giáo bé là 
Khám phá khoa học về môi trường xung quanh. 
Đề tài: Một số con vật trong gia đình 
Chủ đề: Thế giới động vật 
Với đề tài trên, ngoài việc xác định mục đích chính 
của hoạt động khám phá nhằm phát triển về mặt nhận 
thức cho trẻ, GV cần dự kiến về nội dung lồng ghép TTL 
để giáo dục cho trẻ thông qua hoạt động này và có thể dự 
kiến như: 
+ Cho trẻ chuẩn bị về đồ dùng học tập cùng cô; 
+Tạo cơ hội cho cá nhân trẻ tự nói lên những hiểu 
biết của mình về thế giới động vật; 
+ Khuyến khích trẻ tham gia vào các trò chơi (Chọn 
nhanh các con vật theo tín hiệu từ cô, chọn mầu lông cho 
con vật bé yêu...), qua đó trẻ được tự thể hiện sở thích, 
nhu cầu và khả năng của mình để hoàn thiện yêu cầu của 
GV đề ra. 
+ Tổ chức cho trẻ tự nhận xét, đánh giá về mình và 
bạn, qua đó động viên, khích lệ tinh thần cho trẻ, tạo 
tâm thế tự tin, sẵn sàng tham gia vào hoạt động tiếp 
theo. Như vậy, với sự định hướng tốt và mang tính 
thường xuyên của GV trong quá trình tổ chức hoạt động 
học sẽ giúp quá trình giáo dục TTL cho trẻ mang lại 
hiệu quả thiết thực. 
Thứ ba: Thông qua các hoạt động khác trong 
CĐSHHN 
- Thông qua giờ đón, trả trẻ, GV giao nhiệm vụ cho 
trẻ tự làm những công việc tự phục vụ cá nhân thông 
qua việc cô có thể gợi ý cho trẻ tự cất và lấy đồ cá nhân 
của mình. Chẳng hạn: Hôm nay con mang những gì đến 
lớp, đồ của con rất đẹp và bây giờ con sẽ tự cất đồ đúng 
nơi quy định thì đồ của mình sẽ càng đẹp và lớp mình 
sẽ gọn, sạch hơn... Với những trẻ chưa tự làm, thời gian 
đầu, GV giúp trẻ tùy vào những công đoạn trong quy 
trình thực hiện để hướng dẫn trẻ tự làm. GV không làm 
thay, làm hộ những việc mà trẻ có thể làm được. Chẳng 
hạn, trẻ không tự cất đồ cá nhân cô có thể khích lệ bằng 
hình thức thi đua cô cùng con thi đua cất đồ vào tủ 
nào... Cô kịp thời động viên trẻ trong quá trình thực 
hiện nhiệm vụ, giúp trẻ thích thú và thể hiện rõ vai trò 
của mình hơn trong nhiệm vụ là động lực tốt cho những 
hoạt động tiếp theo. 
- Thông qua hoạt động ngoài trời, GV tạo cơ hội cho 
trẻ được hoạt động thoải mái, tự do theo sở thích, nhu cầu 
của mình như trẻ tự lựa chọn đối tượng khám phá, tự lựa 
chọn trò chơi, phương tiện chơi và đặc biệt tạo cơ hội để 
trẻ được gần gũi với thiên nhiên, có cơ hội được tự tìm 
tòi, khám phá về thiên nhiên. 
Chẳng hạn, cô trao đổi, trò chuyện dưới dạng câu hỏi 
gợi ý “Hôm nay chúng mình thích khám phá gì?”, hay 
“Các con có dự kiến gì cho hoạt động khám phá ngoài 
thiên nhiên?”, “Các con cần chuẩn bị những gì để ra 
hoạt động ngoài trời?”... để giao nhiệm vụ dưới hình 
thức định hướng cho trẻ trong việc trẻ tự lựa chọn nội 
dung, chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi, môi trường cho việc tổ 
chức khám phá, chơi trò chơi, chơi tự do. 
Cô cần kết hợp với nhà trường tạo ra những khu vực 
để trẻ có điều kiện được thực hành, trải nghiệm những 
công việc tự phục vụ như góc thiên nhiên với sự đa dạng 
về nguyên vật liệu, đồ dùng đồ chơi với sự đa dạng về 
kiểu dáng, kích thước, mầu sắc để thu hút trẻ vào tự tìm 
tòi, khám phá. Tạo ra các khu vực vườn trường, khu vực 
để trẻ được thực hành các thí nghiệm, thử nghiệm đơn 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 445 (Kì 1 - 1/2019), tr 20-25 
25 
giản như thí nghiệm với cát, nước, vật liệu chìm nổi, vật 
chất tan, không tan.... để trẻ được trải nghiệm cuộc sống. 
Cô kịp thời động viên, khích lệ về khả năng tự đưa ra 
ý tưởng, khả năng thực hiện các hành động, hoạt động, 
các trò chơi và mức độ hoàn thiện nhiệm vụ được giao 
trong quá trình thực hiện của trẻ, giúp trẻ tự tin và tự lập 
trong hoạt động tiếp theo. 
- Thông qua hoạt động ăn, ngủ,... cô tạo cơ hội dưới 
hình thức giao nhiệm vụ để trẻ phát huy khả năng của 
mình trong các khâu như vệ sinh thân thể (tự rửa tay, rửa 
mặt, chải tóc...). Chẳng hạn, giờ ăn đến rồi, mời các tổ thi 
đua xem tổ nào có bàn tay sạch, đẹp nhất; có khuôn mặt 
sạch sẽ nhất..., qua đó trẻ tự làm để rèn luyện, nền nếp, 
thói quen trong sinh hoạt hàng ngày, là cơ sở để hình 
thành và phát triển TTL cho trẻ. 
- Tất cả các hoạt động trong ngày, GV ghi lại cuối 
ngày cho trẻ xem lại để trẻ hình dung các hoạt động mà 
mình và bạn đã làm ở lớp, trẻ tự thấy mình làm được gì? 
Làm như thế nào? . GV tổ chức cho trẻ tự nhận xét, đánh 
giá qua hình thức chơi: “Bé đã làm được gì”- trẻ kể về 
những việc trong ngày đã làm được, hay chọn những việc 
mà trẻ đã tự làm được trong ngày và dán lên bảng cài, 
hay chơi trò chơi “Mặt khóc, mặt cười” và cho trẻ trong 
lớp nhận xét để trẻ tự đánh giá trong ngày nếu mình tự 
làm được nhiều việc tốt thì sẽ được tặng mặt cười và 
ngược lại... qua những trò chơi, giúp trẻ tự nhìn nhận, 
đánh giá bản thân mình, đánh giá bạn của mình trong 
ngày sẽ là động lực thúc đẩy cho hoạt động trong những 
ngày tiếp theo của trẻ. 
- Ngoài ra, trong ngày, GV phối kết hợp trao đổi với 
phụ huynh về nội dung cần giáo dục TTL cho trẻ dưới 
nhiều hình thức trực tiếp như thông qua buổi họp phụ 
huynh, thông qua giờ đón, trả trẻ; gián tiếp như thông qua 
góc trao đổi với phụ huynh để họ nắm bắt được nội dung 
giáo dục hiện GV đang tiến hành giáo dục trẻ, thông qua 
thư điện tử, trang mạng xã hội và đặc biệt là tổ chức các 
buổi seminar, các hoạt động trải nghiệm của trẻ và mời 
phụ huynh cùng tham gia để cùng thống nhất về nội dung 
giáo dục TTL cho trẻ, kết hợp hài hòa giữa gia đình và 
nhà trường để hình thành, rèn luyện và phát triển khả 
năng tự lập của trẻ. 
Như vậy, giáo dục TTL cho trẻ 3-4 tuổi có thể tiến 
hành trong các hoạt động khác nhau thông qua 
CĐSHHN. Tuy nhiên, hiệu quả của nó phụ thuộc rất 
nhiều vào sự khéo léo, linh hoạt và sáng tạo của GV trong 
việc lựa chọn nội dung để giao nhiệm vụ phù hợp trong 
từng hoạt động với sự linh hoạt trong việc lựa chọn các 
tác động phù hợp thì sẽ nâng cao được hiệu quả quá trình 
chăm sóc - giáo dục trẻ nói chung và giáo dục TTL cho 
trẻ nói riêng. 
3. Kết luận 
Giáo dục TTL có ý nghĩa đặc biệt đối với trẻ mầm 
non nói chung và trẻ 3-4 tuổi nói riêng. Việc sử dụng 
CĐSHHN làm phương tiện để giáo dục TTL thật sự 
mang lại hiệu quả khi và chỉ khi GV biết tận dụng những 
ưu thế trong từng hoạt động hàng ngày để tạo cơ hội cho 
trẻ được thỏa mãn nhu cầu, sở thích và bộc lộ mọi khả 
năng trong hoạt động; GV biết tạo ra những tình huống 
để gây hứng thú, kích thích trẻ hoạt động; biết tận dụng 
những tình huống thực tiễn trong CĐSHHN để khuyến 
khích trẻ sáng tạo trong quá trình hoạt động, góp phần 
giáo dục trẻ nói chung và TTL cho trẻ nói riêng. Giáo 
dục TTL là cả một quá trình, đòi hỏi sự phối hợp của gia 
đình, nhà trường và xã hội cần kết hợp đồng bộ để quá 
trình giáo dục mang lại hiệu quả. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Hồng Thuận (2002). Một số biện pháp tác 
động của gia đình nhằm phát triển tính tự lập cho 
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Luận án tiến sĩ Giáo dục học, 
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
[2] Hoàng Phê (1998). Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà 
Nẵng. 
[3] Zvereva S.A (2015). Теоретическая основа 
самостоятельного развития трудовой 
деятельности для дошкольников в возрасте от 
5 до 6 лет - № 1-1. 
[4] Nguyễn Thanh Huyền (2004). Các biện pháp giáo 
dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua 
chế độ sinh hoạt. Luận án tiến sĩ Giáo dục học, 
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
[5] Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt (1991). Giáo dục học. 
NXB Giáo dục. 
[6] Olga Potriedennaya (2013). возрастные особенности 
психического развития детей дошкольного 
возраста. 
[7] Kadieva farida ustarkhanovna (2012). Особенности 
развитиядетей от 3 до 4леT. 
[8] Skhodnya (2016). Режим дня в детском саду и 
расписание занятий в детском саду. 
[9] Nguyễn Thị Hòa (2009). Giáo trình giáo dục học 
mầm non. NXB Đại học Sư phạm. 
[10] Hoàng Thị Phương (2015). Giáo trình vệ sinh trẻ 
em. NXB Đại học Sư phạm. 
[11] Bộ GD-ĐT (2009). Thông tư số 17/2009/TT-
BGDĐT ngày 25/7/2009 về Ban hành Chương trình 
giáo dục mầm non.

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_che_do_sinh_hoat_hang_ngay_lam_phuong_tien_giao_duc.pdf