Sự chính xác trong kiến thức và thực hành của điều dưỡng Việt Nam khi sử dụng thang điểm đánh giá tri giác glasgow

TÓM TẮT

Mục đích: Nghiên cứu điều tra sự chính xác về lý thuyết và thực hành của điều dưỡng khi sử dụng thang

điểm đánh giá tri giác Glasgow.

Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả,tiến hành bằng cách sử dụng bảng câu hởi về kiến thức

của điều dưỡng về thang điểm Glasgow. Tổng cộng 94 điều dưỡng tại một Bệnh viện đa khoa lớn ở Tp.HCM đã

tham gia nghiên cứu. Số liệu được phân tích bằng cách sử dụng phần mềm SPSS.

Kết quả: nghiên cứu cho thấy đa số điều dưỡng trả lời đúng với bảng câu hỏi liên quan tới kiến thức cơ bản

về thang điểm Glasgow (>90%); tuy nhiên có 52,1% điều dưỡng đã trả lời sai trong câu hỏi tình huống lâm sàng

ứng dụng. Trong phần đánh giá về thực hành sử dụng thang điểm Glasgow, mức độ chính xác trong đánh giá

riêng lẻ mỗi thành phần của thang điểm là chấp nhận được ( >70%), điều dưỡng mà có đánh giá chính xác cho cả

3 thành phần của thang điểm chỉ đạt 42,6%. Những kết quả này cho thấy điều dưỡng chưa thống nhất về kiến

thức trong thang điểm Glasgow để thực hành lâm sàng

pdf 7 trang phuongnguyen 11680
Bạn đang xem tài liệu "Sự chính xác trong kiến thức và thực hành của điều dưỡng Việt Nam khi sử dụng thang điểm đánh giá tri giác glasgow", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự chính xác trong kiến thức và thực hành của điều dưỡng Việt Nam khi sử dụng thang điểm đánh giá tri giác glasgow

Sự chính xác trong kiến thức và thực hành của điều dưỡng Việt Nam khi sử dụng thang điểm đánh giá tri giác glasgow
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 195
SỰ CHÍNH XÁC TRONG KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH 
CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIỆT NAM KHI SỬ DỤNG THANG ĐIỂM 
ĐÁNH GIÁ TRI GIÁC GLASGOW 
Nguyễn Thị Hiền* 
TÓM TẮT 
Mục đích: Nghiên cứu điều tra sự chính xác về lý thuyết và thực hành của điều dưỡng khi sử dụng thang 
điểm đánh giá tri giác Glasgow. 
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả,tiến hành bằng cách sử dụng bảng câu hởi về kiến thức 
của điều dưỡng về thang điểm Glasgow. Tổng cộng 94 điều dưỡng tại một Bệnh viện đa khoa lớn ở Tp.HCM đã 
tham gia nghiên cứu. Số liệu được phân tích bằng cách sử dụng phần mềm SPSS. 
Kết quả: nghiên cứu cho thấy đa số điều dưỡng trả lời đúng với bảng câu hỏi liên quan tới kiến thức cơ bản 
về thang điểm Glasgow (>90%); tuy nhiên có 52,1% điều dưỡng đã trả lời sai trong câu hỏi tình huống lâm sàng 
ứng dụng. Trong phần đánh giá về thực hành sử dụng thang điểm Glasgow, mức độ chính xác trong đánh giá 
riêng lẻ mỗi thành phần của thang điểm là chấp nhận được ( >70%), điều dưỡng mà có đánh giá chính xác cho cả 
3 thành phần của thang điểm chỉ đạt 42,6%. Những kết quả này cho thấy điều dưỡng chưa thống nhất về kiến 
thức trong thang điểm Glasgow để thực hành lâm sàng. 
Kết luận: nghiên cứu này đề nghị phát triển một chiến lược giáo dục cho điều dưỡng để cải thiện sự chính 
xác trong thực hành đánh giá thang điểm Glasgow. 
Từ khóa: thang điểm đánh giá tri giác Glasgow, kiến thực, thực hành, điều dưỡng. 
ABSTRACT 
THE ACCURACY OF GLASGOW COMA SCALE (GCS) 
KNOWLEDGE AND PERFORMANCE AMONG NURSES 
Nguyen Thi Hien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 194 - 200 
Purpose: The purpose of this study was to investigate the accuracy of Glasgow Coma Scale (GCS) knowledge 
and performance among nurses. 
Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted using a questionnaire for the nurses’ knowledge 
on GCS and a structured evaluation tool for measuring the accuracy of their GCS scoring. A total of 94 
Vietnamese nurses participated in the study from a general hospital in Ho Chi Minh City, Vietnam. Data were 
analyzed by conducting SPSS. 
Results: This study found that the vast majority of the nurses (>90%) responded correctly to the questions 
on GCS basic knowledge; however, 52.1% of the nurses answered wrong for the clinical scenario questions 
requiring application of the basic knowledge. Regarding the GCS performance, the nurses demonstrated acceptable 
accuracy rates for each component of GCS, but those who accurately scored in all 3 components were only 42.6%. 
These findings indicate that the Vietnamese nurses were not able to integrate their GCS knowledge into actual 
practice of GCS scoring. 
* Khoa Điều dưỡng - Kỹ thuật Y học, Đại học Y Dược Tp.HCM 
Tác giả liên lạc: Ths ĐD Nguyễn Thị Hiền ĐT: 01683886879 Email: nguyenthihien2603@yahoo.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 196
Conclusion: This study suggests that new educational strategies should be developed for the Vietnamese 
nurses to improve their performance of accurate GCS scoring based on the theoretical knowledge. 
Key words: Glasgow Coma Scale, Knowledge, Performance, Nurses. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đánh giá mức độ tri giác được xem như là 
một thực hành ưu tiên của nhân viên y tế, bao 
gồm điều dưỡng, những người chăm sóc cho 
người bệnh có vấn đề liên quan đến hệ thần 
kinh. Nhận định này giúp xác định những vấn 
đề liên quan đến thần kinh, phát hiện những 
dấu hiệu sớm của biến chứng và còn là một 
công cụ giúp chỉ định những can thiệp trong 
những tình huống cấp cứu (Weir, Bradford & 
Lees, 2003)(16). 
Tính giá trị và độ tin cậy cao của thang điểm 
Glasgow bảo đảm cho sự nhận định chính xác so 
với những công cụ đánh giá trước đây (Fisher & 
Mathieson, 2001; Kingston & O’Flanaga, 2000)(3,9). 
Sự hữu ích, độ tin cậy và tính ứng dụng thực 
hành đã được khẳng định qua nhiều nghiên cứu 
(Mcnarry & Golhill, 2004; Juarez & Lyons, 1995; 
Rowley & Fielding, 1991)(8,11,13) 
GCS thì bao gồm 3 thành phần chính: đáp 
ứng về mở mắt, đáp ứng về lới nói và vận động, 
tổng điểm được đánh giá từ 3-15. Rất nhiều 
nghiên cứu trước đây đã báo cáo rằng có rất 
nhiều nhà lâm sàng đã sử dụng thang điểm này 
hoàn toàn không chính xác và không hiệu quả 
(Bazarian, Eirich, & Salhanick, 2003; Iankova, 
2006; Zuercher, Ummenhofer, Baltussen & 
Walder, 2009)(2,7,17). 
Có rất ít những nghiên cứu điều tra về 
kiến thức với GCS của nhân viên chăm sóc sức 
khỏe chuyên nghiệp (Heim, Schoettker, 
Gilliard, & Spahn, 2009; Riechers, 2005)(4,12) 
hoặc độ tin cậy trong đánh giá lâm sàng của 
những nhân viên chăm sóc sức khỏe ở những 
chuyên môn khác nhau (Arbabi 2004; 
Holdgate 2006; Menegazzi, Davis & Paris 
1993; Rowley & Feilding 1991)(1,6,10). Rất ít 
nghiên cứu đo lường mối liên hệ giữa kiến 
thức và thực hành GCS cho đối tượng là điều 
dưỡng, đặc biệt là Việt Nam chưa có nghiên 
cứu nào. 
Thang điểm đánh giá hôn mê Glasgow cũng 
được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam cũng giống 
như các quốc gia khác trên thế giới để đánh giá 
mức độ tri giác của người bệnh. Vì thế, nghiên 
cứu này sẽ tạo ra một sự đóng góp có ý nghĩa 
thông qua sự điều tra về sự chính xác trong sử 
dụng GCS của điều dưỡng Việt Nam. Vì vậy, kết 
quả nghiên cứu có thể thúc đẩy những trường 
điều dưỡng và bệnh viện phát triển chương 
trình giáo dục toàn diện về GCS cho người điều 
dưỡng có thể chăm sóc chất lượng cao nhất. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu của nghiên cứu giúp xác định sự 
chính xác trong kiến thức và thực hành của điều 
dưỡng Việt Nam khi sử dụng thang điểm đánh 
giá tri giác Glasgow. 
Mục tiêu chuyên biệt 
- Xác định sự chính xác về kiến thức với 
thang điểm đánh giá tri giác Glasgow. 
- Xác định sự chính xác trong thực hành với 
thang điểm đánh giá tri giác Glasgow. 
- Kiểm tra sự khác biệt trong kiến thức với 
thang điểm đánh giá tri giác Glasgow giữa nhóm 
thực hành đánh giá chính xác và nhóm đánh giá 
không chính xác. 
- Kiểm tra sự khác biệt về kiến thức và thực 
hành với thang điểm đánh giá tri giác Glasgow 
qua các yếu tố về đặc điểm chung điều dưỡng. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cắt ngang mô tả. 
Đối tượng nghiên cứu 
Phương pháp sử dụng mẫu có sẵn để lựa 
chọn đối tượng nghiên cứu được thực hiên tại 
các khoa Nội Thần Kinh (NTK) và Ngoại Thần 
Kinh(NgTK), khoa Chấn Thương Sọ Não 
(CTSN) và khoa Hồi Sức Ngoại Thần 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 197
Kinh(HSNgTK) ở một bệnh viện đa khoa lớn tại 
thành phố Hồ Chí Minh. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Điều dưỡng được mời tham gia vào nghiên 
cứu bao gồm 
1) Điều dưỡng đang làm việc tại bệnh viện 
đã tốt nghiệp chương trình đào tạo điều dưỡng 
từ 2 năm trở lên. 
2) Thực hành chăm sóc bệnh người lớn bị 
chấn thương đầu hay những bệnh lý tổn thương 
về thần kinh và được phép đánh giá GCS hợp 
pháp. 
3) Tự nguyện tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chí loại trừ 
1) Điều dưỡng tốt nghiệp chương trình đào 
tạo 1 năm. 
2) Y sĩ chuyển sang điều dưỡng sau 3 tháng 
đào tạo. 
3) Điều dượng có ít hơn 1 năm về kinh 
nghiệm. 
Tổng cộng 94 điều dưỡng đạt tiêu chí tham 
gia vào nghiên cứu 
Công cụ nghiên cứu 
Bảng câu hỏi kiến thức về GCS 
Bảng câu hỏi sử dụng để đánh giá kiến 
thức của điều dưỡng về GCS được thiết kế bởi 
Heim và những cộng sự (2009)(4). Bảng câu hỏi 
về kiến thức GCS gồm 6 câu hỏi chia làm 2 
phần. Phần đầu của bảng câu hỏi giúp kiểm 
tra kiến thức cơ bản chung về GCS. Phần thứ 2 
của bảng câu hỏi mô tả một tình huống giả 
định đòi hỏi điều dưỡng phải ứng dụng lí 
thuyết kiến thức về GCS để trả lời. Mỗi câu trả 
lời đúng được cho 1 điểm, câu trả lời sai là “0” 
điểm. Tổng điểm của bảng câu hỏi dao động 
trong khoảng từ 0-6. Điểm càng cao có nghĩa 
là càng có kiến thức sâu về GCS. Độ tin cậy 
KR-20 cho bản câu hỏi tiếng Việt là 0,6. 
Bảng đánh giá thực hành về nhận định GCS 
trên người bệnh 
Bảng đánh giá gồm 3 thành phần của GCS: 
đáp ứng mở mắt, đáp ứng lời nói và đáp ứng 
vận động. Điều dưỡng và nhà nghiên cứu cùng 
dùng bảng đánh giá để nhận đỉnh mức độ tri 
giác của người bệnh và ghi nhận lại số điểm của 
3 thành phần cũng như tổng điểm của GCS. Số 
điểm ghi nhận của nhà nghiên cứu được xem 
như là một tiêu chí so sánh. 
Thu thập dữ liệu 
Số liệu được thu thập từ tháng 7 đến tháng 8, 
năm 2010 tại bệnh viện CR Tp.HCM, Việt Nam. 
Điều dưỡng sẽ trả lời tất cả câu hỏi trong bảng 
câu hỏi một cách độc lập trong vòng 15 phút 
dưới sự giám sát nhà nghiên cứu. Điều dưỡng 
hoàn tất bảng câu hỏi sẽ tiếp tục thực hiện đánh 
giá GCS trên một người bệnh do nhà nghiên cứu 
sắp xếp ngẫu nhiên. Nhà nghiên cứu cũng đánh 
giá đồng thời với điều dưỡng trên cùng một 
người bệnh và ghi nhận lại kết quả riêng biệt. 
Phân tích dữ liệu 
Số liệu thu thập được sẽ được phân tích bằng 
chương trình SPSS 17. Chương trình phân tích 
mô tả được sử dụng để mô tả thông tin chung 
điều dưỡng, sự chính xác trong kiến thức và 
thực hành GCS. Kiểm định t- test được dùng để 
kiểm tra sự khác biệt về kiến thức giữa nhóm 
thực hành đánh giá GCS đúng và nhóm thực 
hành đánh giá sai, ANOVA và χ2 được dùng để 
đo lường sự khác biệt về kiến thức và thực hành 
qua những thông tin chung. So sánh trung bình 
giữa các nhóm khi kết quả có ý nghĩa thống kê 
kiểm định bởi phân tích Posthoc và LSD (Least 
Significant Difference). 
Y đức 
Nghiên cứu cho phép thực hiện bởi bệnh 
viện trước khi thu thập dữ liệu bắt đầu. Nhà 
nghiên cứu giải thích mục đích của nghiên cứu 
và quyền khi tham gia nghiên cứu cho điều 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 198
dưỡng, bao gồm: diễn tiến, sự độc lập và quyền 
được ngưng không tham gia nghiên cứu hay từ 
chối trả lời câu hỏi tại bất kỳ thời điểm nào là 
một quyền hợp pháp. Điều dưỡng đồng ý tham 
gia ký tên vào bản thư mời tham gia nghiên cứu. 
KẾT QUẢ 
Thông tin chung điều dưỡng 
Trong tổng số điều dưỡng tham gia nghiên 
cứu, điều dưỡng nữ đông hơn (n=83, 88,3%) điều 
dưỡng nam. Tuổi của điều dưỡng trong khoảng 
từ 20-51 tuổi; hơn phân nửa điều dưỡng (n=61, 
64,9%) nhỏ hơn 30 tuổi. Tương tự, hơn 1/3 điều 
dưỡng (n=33, 35,1%) có ít hơn 2 năm kinh 
nghiệm. Gần 1/3 trong tổng số điều dưỡng tham 
gia nghiên cứu là điều dưỡng khoa Hồi Sức 
Ngoại Thần Kinh, số điều dưỡng còn lại thuộc 
các khoa khác. Phần thông tin về trình học vấn, 
đại đa số điều dưỡng (n=86, 91,5%) tốt nghiệp 
chương trình đào tạo 2 năm. Nghiên cứu cho 
thấy đa số điều dưỡng được cung cấp kiến thức 
về GCS từ trường học, (n=63, 67,0%); 1/3 số còn 
lại nhận được thông tin về GCS tại bệnh viên nơi 
làm việc. Hầu như tất cả điều dưỡng tham gia 
nghiên cứu đều cảm thấy tự tin về đánh giá GCS 
và tin rằng đánh giá GCS rất quan trọng cho 
người bệnh trong điều trị và chăm sóc. 
Sự chính xác trong kiến thức về GCS 
Hầu hết điều dưỡng tham gia nghiên có 
kiến thức đúng trong 5 câu hỏi đầu tiên của 
bảng câu hỏi. Trong số 5 câu hỏi đầu tiên, gần 
1/3 điều dưỡng đã trả lời sai câu hỏi về tên cho 
mỗi thành phần của GCS. So sánh với 5 câu hỏi 
đầu tiên, câu hỏi tình huống ứng dụng lâm 
sàng cho thấy tỉ lệ trả lời đúng thấp hơn: ít hơn 
một nửa điều dưỡng (n=45, 47,9%) có câu trả lời 
đúng. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn là 5,03 
và 0,82. 
Bảng 1: Sự chính xác trong kiến thức về GCS (N=94) 
Câu hỏi Trả lời đúng 
N (%) 
Trả lời sai 
N (%) 
Câu hỏi 1. Số lượng thành phần 
của GCS 
92 (97,9) 2 (2,1) 
Câu hỏi 2. Tên mỗi thành phần 67 (71,3) 27 (28,7) 
Câu hỏi Trả lời đúng 
N (%) 
Trả lời sai 
N (%) 
Câu hỏi 3. Điểm của mỗi thành 
phần 
89 (94,7) 5 (5,3) 
Câu hỏi 4. Giá trị nhỏ nhất của 
GCS 
94 (100) 0 (0,0) 
Câu hỏi 5. Giá trị lớn nhất của 
GCS 
92 (97,9) 2 (2,1) 
Câu hỏi 6. Tình huống lâm sàng 45 (47,9) 49 (52,1) 
Sự chính xác trong thực hành về GCS 
Mỗi kết quả đánh giá của điều dưỡng được 
chia thành 2 nhóm: đánh giá chính xác và đánh 
giá không chính xác thông qua sự so sánh với kết 
quả đánh giá của nhà nghiên cứu. Sự giống nhau 
cao nhất về kết quả đánh giá thuộc về phần đánh 
giá đáp ứng vận động (n=74, 78,7%) kế tiếp là 
phần đánh giá đáp ứng lời nói (n=71, 75,5%) và 
thấp nhất là phần đánh giá đáp ứng mở mắt 
(n=64, 68,1%). Trong khi phần đánh giá thực 
hành về mỗi thành phần GCS cho thấy sự chính 
xác cao của điều dưỡng, nhưng tỉ lệ chính xác 
cho cả ba thành phần của GCS cho kết quả thấp 
hơn so với khi so sánh trên từng thành phần, 
42,6% (n=40). 
Bảng 2. Sự chính xác trong thực hành về GCS 
(N=94) 
Thành phần GCS Thực hành đúng 
N (%) 
Thực hành sai 
N(%) 
Mở mắt 64 (68,1) 30 (31,9) 
Đáp ứng lời nói 71 (75,5) 23 (24,5) 
Đáp ứng vận động 74 (78,7) 20 (21,3) 
Cả 3 thành phần 40 (42,6) 54 (57,4) 
Sự khác biệt về kiến thức giữa nhóm thực 
hành đánh giá GCS đúng và nhóm thực 
hành không đúng 
Để kiểm tra sự khác biệt về kiến thức giữa 
nhóm thực hành đánh giá GCS đúng và nhóm 
thực hành không đúng, t-test được dùng để 
kiểm tra sự xem có sự khác biệt hay không. 
Nhóm thực hành đúng (5,38±0,82) có điểm trung 
bình cao hơn nhóm thực hành không đúng 
(4,78±0,71), kết quà này có ý nghĩa về mặt thống 
kê (t = 3,71, p = 0,001). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 199
Sự khác biệt trong kiến thức và thực hành 
GCS bởi các thông tin chung điều dưỡng 
Trong những biến số về thông tin chung của 
điều dưỡng tham gia nghiên cứu, giới tính và 
đơn vị làm việc cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê về kiến thức với GCS (bảng 3). Điều 
dưỡng làm việc tại khoa Hồi Sức Ngoại Thần 
Kinh có kiến thức về GCS cao hơn điều dưỡng 
làm việc tại các khoa Ngoại Thần Kinh (3B1), 
khoa Chấn Thương Sọ Não hay khoa Nội Thần 
Kinh (F = 11,92, p= 0,01). Bảng 4 biểu hiện sự 
khác biệt trong thực hành với các thông tin 
chung. Không có sự khác biệt nào có ý nghĩa về 
mặt thống kê. 
Bảng 3: Sự khác biệt về kiến thức GCS do các biến số 
thông tin chung điều dưỡng 
Biến số Phân loại (n) M (SD) F (p) Post-hoc 
Tuổi 20–25 (21) 4,95 (0,66) 0,657 (.62) 
 26–30 (40) 5,00 (0,98) 
 >31 (33) 6,12 (0,69) 
Kinh 
nghiệm 
làm việc 
0–2 (33) 4,97 (2,39) 0,347 (.84) 
 3–7 (32) 7,78 (2,32) 
 >7 (29) 6,67 (2,08) 
Khoa Ngoại TK-
3B1a (19) 
5,00 (0,90) 11,92 (.01) d>a* d>c** 
d>e** 
 Ngoại TK -
3B3b (23) 
5,17 (0,75) 
 CTSN c (17) 4,75 (0,96) 
 Hồi sức Ngoại 
TK d (29) 
5,27 (0,875) 
 Nội TK e (6) 4,84 (0,50) 
Thông 
tin về 
GCS 
Từ trường 
(63) 
5,03 (0,76) 0,691 (.60) 
 Từ bệnh viện 
(31) 
5,00 (0,98) 
Tôn giáo Có (40) 4,75 (0,88) 1,053 (,38) 
 Không (54) 5,06 (0,87) 
Tôn giáo Kết hôn (53) 5,06 (0,79) 0,689 (.60) 
 Độc thân (41) 5,00 (0,86) 
Ghi chú: * p <.05; ** p <.01 
Bảng 4: Sự khác biệt về thực hành do các biến số 
thông tin chung điều dưỡng 
Biến số Phân loại 
(n) 
Thực 
hành 
đúng (n) 
Thực 
hành sai 
(n) 
Χ2 (p) 
Tuổi 20–25 (21) 8 13 0,28 (.86) 
Biến số Phân loại 
(n) 
Thực 
hành 
đúng (n) 
Thực 
hành sai 
(n) 
Χ2 (p) 
 26–30 (40) 17 23 
 >31 (33) 15 18 
Kinh nghiệm 
làm việc 
0–2 (33) 7 12 1,94 (.74) 
 3–7 (32) 9 14 
 >7 (29) 8 9 
Khoa Ngoại TK-
3B1a (19) 
12 17 
 Ngoại TK -
3B3b (23) 
4 2 
 CTSN c (17) 10 23 3,55 (.16) 
 Hồi sức 
Ngoại TK d 
(29) 
17 15 
 Nội TK e (6) 13 16 
Thông tin về 
GCS 
Từ trường 
(63) 
27 36 4,58 (.10) 
 Từ bệnh 
viện (31) 
13 18 
Tôn giáo Có (40) 16 31 2,2 (.32) 
 Không (54) 24 24 
Tôn giáo Kết hôn (53) 23 30 0,03 (.85) 
 Độc thân 
(41) 
17 24 
BÀN LUẬN 
Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam để 
kiểm tra sự chính xác trong kiến thức và thực 
hành về GCS của điều dưỡng. Tất cả điều dưỡng 
tham gia nghiên cứu đều nhận thức rằng GCS 
rất quan trọng trong điều trị và cảm thấy tự tin 
khi sử dụng GCS để đánh giá mức độ tri giác. 
Trong một nghiên cứu với sinh viên điều dưởng 
năm thứ 3, chỉ có 64% sinh viên tham gia nghiên 
cứu cảm thấy thang đánh giá này rất quan trọng 
trong lĩnh vực ngoại thần kinh và một tỉ lệ rất 
thấp (15%) cảm thấy tự tin khi sử dụng GCS 
(Shoqirat, 2006)(14). Kết quả này cho thấy rằng 
càng nhiều năm kinh nghiệm lảm việc lâm sàng 
có vẻ có sự tự tin cao hơn và tin tưởng vào đánh 
giá GCS. 
Kiến thức và thực hành về GCS không được 
xác nhận dù điều dưỡng sử dụng rất thường 
xuyên. Kết quả này cho thấy điều dưỡng có kiến 
thức khá tốt về cấu trúc của GCS nhưng lại 
không đủ kiến thức áp dụng trên tình huống lâm 
sàng. Điều dưỡng tham gia nghiên cứu có một tỉ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 200
lệ cao câu trả lời sai (28,7%) về tên của mỗi thành 
phần của GCS, trong khi trong nghiên cứu của 
tác giả Heim và cộng sự với lực lượng cấp cứu 
bằng máy bay thì chỉ có 5.8% trả lời sai Heim 
(2009)(4). Thêm vào đó, hơn một nửa điều dưỡng 
trả lời sai ở phần câu hỏi tình huống ứng dụng; 
chỉ có 1/3 nhân viên cứu hộ trả lời sai trong 
nghiên cứu trước Heim (2009)(4). Sự khác biệt này 
bắt nguồn từ sự thiếu huấn luyện một cách hệ 
thống về GCS cho điều dưỡng hay sinh viên 
điều dưỡng. 
Điều dưỡng tham gia nghiên cứu cho thấy 
sự chính xác trong thực hành ở mức trung bình 
khi nói đến từng thành phần của GCS, kết quả 
này tương tự hoặc cao hơn so với các nghiên cứu 
trước kia (Holdgate 2006; Zuercher 2009)(6,17). Tuy 
nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng 
ít hơn một nửa điều dưỡng đã thực hành đúng 
khi xem xét sự chính xác cả 3 thành phần của 
GCS đồng thời, trong khi hơn 2/3 có sự chính xác 
khi kiểm tra từng thành phần GCS riêng lẻ. 
Những kết quả chứng tỏ rằng điều dưỡng chỉ 
thực hành đánh giá đúng khi đo lường ở một vài 
thành phần đơn lẻ, nhưng không phải cả 3 thành 
phần. Điều đó cho thấy kiến thức không tốt về 
GCS nên không thể có kết quả cao trong câu hỏi 
ứng dụng. 
Kết quả của chúng tôi khẳng định rẳng 
càng có kiến thức chính xác về kiến thức liên 
quan đến GCS thì sự thực hành sẽ càng chính 
xác. Nhóm điều dưỡng thực hành chính xác 
cho thấy họ kiến thức tốt hơn về GCS so với 
nhóm thực hành không chính xác. Chương 
trình giáo dục liên tục cho viêc sử dụng GCS 
cũng được nhấn mạnh trong các nghiên cứu 
của Watson, Horn và Curl (1992)(15). 
Trong báo cáo Arbabi (2004) thì có sự khác 
biệt so với kết quả của chúng tôi về sự chính xác 
cao trong khi đa số người bệnh trong tình trạng 
nặng. Người ta thường cho rằng người bệnh 
trong tình trạng nặng thường nằm tại khoa Hồi 
Sức Ngoại Thần Kinh, do đó kết quả trong phần 
thực hành vể GCS sẽ ít chính xác so với khoa 
khác có tình trạng bệnh tốt hơn. 
KẾT LUẬN 
GCS là một công cụ đánh giá về mức độ tri 
giác giá trị vá đáng tin cậy. Điều dưỡng chăm 
sóc chuyên nghiệp chịu trách nhiệm theo dõi 
liên tục và xác định những rối loại về tri giác 
người bệnh. Do vậy kiến thức và kỹ năng thực 
hành chính xác rất quan trọng với điều dưỡng. 
Những kết quả của nghiên cứu này chỉ ra 
khoảng cách giữa lý thuyết và thực hành về GCS 
của điều dưỡng. Mặc dù hầu hết điều dưỡng có 
kiến thức cơ bản về GCS, nhưng họ không thể 
ứng dụng để phân tích cho một tình huống lâm 
sàng. Hơn thế nữa kiến thức của họ không đủ để 
có sự thực hành chính xác. Do đó nghiên cứu 
này đề nghị có một chương trình huấn luyện 
được phát triển tốt để có thể cung cấp sự đánh 
giá chính xác các mức độ tri giác thông qua GCS 
mà kết quả cuối cùng là nhằm cải thiện chất 
lượng chăm sóc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arbabi S, Jurkovich GJ, Walh WL, Franklin GA, Hemmila 
MR, Taheri PA, Mairer RV (2004). A comparison of 
prehospital and hospital data in trauma patients. Journal of 
Trauma, 56, 1029- 1032. 
2. Bazarian JJ, Eirich MA, Salhanick SD (2003). The relationship 
between pre- hospital and emergency department Glasgow 
Coma Scale score. Brain Injury, 17(7), 553- 560. 
3. Fisher J, Mathieson C (2001). The History of the Glasgow 
Coma Scale: implications for practice. Critical Care Nurse, 23(4), 
52- 58. 
4. Heim C, Schoettker P, Gilliard N, Spahn DR (2009). 
Knowledge of Glasgow Coma Scale by air-rescue physicians. 
Scandinavian Journal of Trauma, Resuscitation and Emergency 
Medicine, 17(39), 1- 6. 
5. Heron R, Davie A, Gillies R, Courtey M (2001). Interrater 
reliability of the Glasgow Coma Scale scoring among nurses in 
sub-specialities of critical care. Australia critical care, 14(3), 101- 
105. 
6. Holdgate A, Ching N, Angonese L (2006). Variability in 
agreement between physicians and nurses when measuring 
the Glasgow Coma Scale in the emergency department limits 
its clinical usefulness. Journal of Emergency Medicine Australasia, 
18(4), 379- 384. 
7. Iankova A (2006). The Glasgow Coma Scale clinical 
application in emergency departments. Emergency Nurse, 
14(8), 31- 35. 
8. Juarez VJ, Lyons M (1995). Interrater reliability of the Glasgow 
Coma Scale. Journal of Neuroscience Nursing, 27, 283- 286. 
9. Kingston R, O’Flanagan SJ (2000). Scoring system in trauma. 
Irish Journal of Medicine Science,169(3), 168- 172. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 201
10. Menegazzi JJ, Davis EA, Paris PM (1993). Reliability of the 
Glasgow Coma Scale when used by emergency physicans and 
paramedics. Journal of Trauma, 34, 46-48. 
11. Mcnarry AF, Golhill DR (2004). Simple bedside assessment of 
level of consciousness: comparison of two simple assessment 
scales with the Glasgow coma scale. Anaesthesia. 59, 34- 37. 
12. Riechers RG, Ramage A, Brown W, Kalehua A, Rhee P, 
Ecklund JM, Ling GSF (2005). Physician knowledge of the 
Glasgow Coma Scale. Journal of Neurotrauma, 22(11), 1372- 
1334. 
13. Rowley G, Feilding K (1991). Reliability and accuracy of the 
Glasgow Coma Scale with experienced and inexperienced 
users. Lancet, 337, 535- 538. 
14. Shoqirat N (2006). Nursing students’ understanding of the 
Glasgow Coma Scale. Nursing Standard, 20(30), 41- 47. 
15. Watson M, Horn S, Curl J (1992). Searching for signs of 
revival. Uses of the Glasgow Coma Scale. Professional Nurse, 
7(10), 670- 674. 
16. Weir CJ, Bradford APJ, Lees KR (2003). The prognostic value 
of the components of the Glasgow Coma Scale following acute 
stroke. The Quarterly Journal of Medicine, 96, 67- 74. 
17. Zuercher M, Ummenhofer W, Baltussen A, Walder B (2009). 
The use of Glasgow Coma Scale in injury assessment: A 
critical review. Brain Injury, 23(5), 371- 384. 

File đính kèm:

  • pdfsu_chinh_xac_trong_kien_thuc_va_thuc_hanh_cua_dieu_duong_vie.pdf