Sự cần thiết trong việc xây dựng hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cho kiểm toán ngân sách cấp huyện tai kiểm toán nhà nước

Ngân sách địa phương (NSĐP) là bộ phận quan trọng của ngân sách nhà nước (NSNN) do các nhiệm vụ thu, chi ngân sách và các chính sách, chế độ của Nhà nước hầu hết được tổ chức triển khai thực hiện tại các địa phương. Theo quy định hiện hành của Luật NSNN, NSĐP gồm ngân sách của các cấp chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã), trong đó

ngân sách cấp huyện đóng vai trò quan trọng trong quản lý điều hành nguồn thu, nhiệm vụ chi của NSĐP.

Xuất phát từ thực tế trên, việc kiểm toán NSĐP huyện là một phần không thể thiếu trong cuộc kiểm toán

NSĐP của KTNN.

pdf 8 trang phuongnguyen 5280
Bạn đang xem tài liệu "Sự cần thiết trong việc xây dựng hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cho kiểm toán ngân sách cấp huyện tai kiểm toán nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự cần thiết trong việc xây dựng hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cho kiểm toán ngân sách cấp huyện tai kiểm toán nhà nước

Sự cần thiết trong việc xây dựng hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cho kiểm toán ngân sách cấp huyện tai kiểm toán nhà nước
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 47Số 131 - tháng 9/2018
Söï cAàn thIeát trOng vIeäc xAâY döïng
höôùng dAãn quY trình nghIeäp vuï chO 
KIeåm tOAùn ngAân SAùch cAáp huYeän 
tAïI KIeåm tOAùn nhAø nöôùc
ThS. TRươNG HẢI YẾN*
ThS. HOÀNG CẩM Tú*
*Phó Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành Ia; Phó trưởng phòng Vụ Tổng hợp
Ngân sách địa phương (NSĐP) là bộ phận quan trọng của ngân sách nhà nước (NSNN) do các nhiệm vụ thu, chi ngân sách và các chính sách, chế độ của Nhà nước hầu hết được tổ chức triển khai thực hiện tại các địa phương. Theo quy định hiện hành của Luật NSNN, NSĐP gồm ngân sách của các cấp chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã), trong đó 
ngân sách cấp huyện đóng vai trò quan trọng trong quản lý điều hành nguồn thu, nhiệm vụ chi của NSĐP. 
Xuất phát từ thực tế trên, việc kiểm toán NSĐP huyện là một phần không thể thiếu trong cuộc kiểm toán 
NSĐP của KTNN.
Từ khóa: Ngân sách nhà nước, ngân sách cấp huyện, quy trình kiểm toán ngân sách cấp huyện.
The need for the development of professional guidelines for district level budget auditing by SAV
Local budgets are an important part of the state budget due to the state budget’s revenue and expenditure 
tasks as well as the policies and regimes of the State are implemented locally. According to the current 
regulations of the State Budget Law, local budgets (provincial, district, commune) are the budget of local 
governments, with which district budget plays an important role in the management of revenue sources and 
expenditure tasks of local budget. Based on this fact, district level budget auditing is an integral part of the 
SAV’s audit work.
keywords: State budget, district budget, district budget auditing process.
1. Sự cần thiết phải xây dựng hướng dẫn riêng 
cho kiểm toán ngân sách cấp huyện
Việc thực hiện kiểm toán ngân sách của các tỉnh, 
thành phố trực thuộc trung ương có ý nghĩa đặc 
biệt quan trọng trong hoạt động kiểm toán hàng 
năm của Kiểm toán nhà nước (KTNN). Điều này 
đã được khẳng định trong Chiến lược phát triển 
KTNN đến năm 2020 đã được Ủy ban Thường vụ 
Quốc hội phê chuẩn tại Nghị quyết số 927/2010/
UBTVQH12 ngày 19/4/2010 “Phấn đấu đến năm 
2015 cơ bản tiến hành kiểm toán thường xuyên 
hàng năm các đơn vị dự toán cấp I trực thuộc ngân 
sách trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc 
trung ương. Tăng quy mô mẫu kiểm toán về tổng 
thể và tại các đầu mối trên để đạt yêu cầu xác nhận 
tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính, 
báo cáo quyết toán ngân sách; đánh giá việc tuân 
thủ pháp luật, tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu 
quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài 
sản nhà nước theo quy định của Luật KTNN”. 
Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 đòi 
hỏi phải đổi mới hoạt động kiểm toán của Ngành, 
đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc xây dựng và đổi 
mới phương pháp kiểm toán, nhất là phương pháp 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN48 Số 131 - tháng 9/2018
kiểm toán đối với kiểm toán báo cáo quyết toán 
ngân sách địa phương hướng đến chuyên nghiệp 
hóa hoạt động kiểm toán, nhằm giảm thiểu thời 
gian kiểm toán, tăng cường đầu mối địa phương 
được kiểm toán. 
Trong những năm qua, KTNN cũng đã từng 
bước hoàn thiện quy trình, chuẩn mực và các văn 
bản hướng dẫn nghiệp vụ kiểm toán. Tuy nhiên, 
việc hướng dẫn mới chỉ dừng ở các chuẩn mực 
và các quy trình kiểm toán mang tính tổng quát 
về hoạt động kiểm toán mà chưa đưa ra được các 
hướng dẫn chi tiết, cụ thể cho từng nội dung công 
việc cần thực hiện kiểm toán, nhất là đối với kiểm 
toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo quyết toán 
NSĐP do các KTNN khu vực thực hiện. Việc thực 
hiện kiểm toán tại các cấp ngân sách, trong đó có 
ngân sách cấp huyện chủ yếu mang tính chủ quan, 
tự phát của kiểm toán viên, không đầy đủ và thiếu 
tính thống nhất.
2. Thực trạng kiểm toán ngân sách cấp huyện 
trong những năm gần đây
Qua nghiên cứu các KHKT NSĐP trong các 
năm từ 2015-2017 cho thấy những kết quả đạt được 
trong kiểm toán ngân sách cấp huyện như sau: 
(1) Về KHKT của cuộc kiểm toán:
- Cơ bản KHKT NSĐP địa phương của từng 
cuộc kiểm toán, trong đó có KHKT ngân sách cấp 
huyện đã bám sát hướng dẫn và định hướng của 
ngành tại các văn bản của Tổng Kiểm toán nhà 
nước về hướng dẫn nội dung, mục tiêu, phương án 
tổ chức kiểm toán từng năm.
- Hầu hết các KTNN khu vực đã tổ chức thu 
thập thông tin cơ bản về công tác quản lý, điều 
hành và sử dụng tài chính, tài sản công; việc tổ 
chức đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ, tình 
hình thanh tra, kiểm toán đối với đơn vị được kiểm 
toán đầy đủ hơn những năm trước. Trong đó, một 
số ít KHKT đã thu thập được thông tin cần thiết 
cho việc xác định trọng tâm, nội dung kiểm toán cả 
đối với ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp huyện; 
bởi vậy, việc đánh giá rủi ro, xác định trọng tâm 
kiểm toán bước đầu đã bám sát thông tin thu thập 
và mục tiêu của cuộc kiểm toán. Việc xác định mục 
tiêu kiểm toán chung cơ bản đã bám sát hướng dẫn 
của KTNN tại các công văn hướng dẫn hàng năm 
của KTNN. 
- Nhìn chung, nội dung kiểm toán tại ngân 
sách cấp huyện của các KHKT đã bám sát mục tiêu 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 49Số 131 - tháng 9/2018
kiểm toán và thông tin thu thập được. KHKT đã 
xác định được phạm vi, giới hạn và đối tượng kiểm 
toán tại ngân sách cấp huyện phù hợp với mục tiêu, 
nội dung kiểm toán và định hướng chung của cuộc 
kiểm toán; bố trí nhân sự, thời gian kiểm toán cho 
các đơn vị, đầu mối kiểm toán chi tiết cơ bản phù 
hợp với mục tiêu, nội dung, trọng yếu kiểm toán 
đã xác định. 
(2) Về kết quả kiểm toán
- Nhìn chung các cuộc kiểm toán đã tập trung 
thực hiện và đạt được một số mục tiêu đã xác định 
tại KHKT, cụ thể:
+ Đánh giá việc tuân thủ pháp luật; tính kinh 
tế, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân 
sách, tiền và tài sản nhà nước tại các huyện được 
kiểm toán. Một số BCKT đã xác nhận được tính 
đúng đắn, trung thực, hợp lý của báo cáo quyết 
toán ngân sách cấp huyện.
+ Chỉ ra một số sai phạm để kiến nghị với đơn 
vị được kiểm toán chấn chỉnh công tác quản lý tài 
chính - kế toán, hoạt động của đơn vị và biện pháp 
khắc phục những tồn tại được phát hiện thông qua 
kiểm toán.
+ Phát hiện một số hành vi lãng phí và sai phạm 
trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản 
nhà nước tại các đơn vị sử dụng ngân sách, cấp 
ngân sách; xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá 
nhân, kiến nghị xử lý vi phạm theo quy định của 
pháp luật.
- Một số BCKT đã có phát hiện kiểm toán về 
việc quản lý, đất đai, khai thác tài nguyên khoáng 
sản tại các huyện được kiểm toán... Trên cơ sở đó, 
BCKT đã đưa ra nhiều kiến nghị đối với UBND 
tỉnh, các đơn vị được kiểm toán để chấn chỉnh, 
khắc phục những hạn chế, sai sót trong quản lý, sử 
dụng tài chính tài sản công. 
Bên cạnh đó, quá trình thực hiện kiểm toán 
ngân sách cấp huyện trong cuộc kiểm toán ngân 
sách địa phương còn một số hạn chế sau:
(1) Về khảo sát và thu thập thông tin
- Tại KHKT của cuộc kiểm toán NSĐP, các thông 
tin về ngân sách cấp huyện thường mờ nhạt, sơ sài; 
các thông tin cần thiết, chủ yếu cho việc kiểm toán 
tổng hợp tại ngân sách cấp huyện thường chưa thu 
thập đầy đủ như:
+ Số liệu và tình hình sử dụng nguồn tăng thu; 
thông tin về việc quản lý và sử dụng các chương 
trình mục tiêu quốc gia của ngân sách cấp huyện.
+ Tình hình quản lý, mua sắm, thanh lý tài sản; 
quản lý đất đai tại cấp huyện.
+ Các khoản thu, chi chưa đưa vào cân đối ngân 
sách; số liệu quyết toán thu, chi ngân sách; các lưu 
ý về tình hình quyết toán ngân sách của các huyện.
+ Thông tin về số liệu bổ sung cân đối, bổ sung 
có mục tiêu từ ngân sách cấp tỉnh.
+ Thông tin về số liệu nợ đọng XDCB thời điểm 
cuối năm liền kề niên độ được kiểm toán để làm cơ 
sở đánh giá tình hình bố trí vốn đầu tư để thanh 
toán nợ đọng cho các dự án hoàn thành và nợ đọng 
khối lượng hoàn thành; thông tin về kế hoạch vốn 
(bố trí cho các dự án khởi công mới, chuyển tiếp, 
hoàn thành), điều chỉnh vốn đầu tư của ngân sách 
huyện; tình hình thực hiện vốn đầu tư của ngân 
sách cấp huyện.
+ Chưa thu thập đầy đủ về thông tin về tình 
hình thanh tra, kiểm tra tại các huyện.
- Nhiều KHKT còn thu thập thiếu các thông 
tin về các đơn vị, đầu mối chọn kiểm toán như: 
Thông tin về các dự án đầu tư chọn kiểm toán tại 
ngân sách cấp huyện (số lượng dự án, tên dự án, 
tình hình thanh tra, kiểm toán, thông tin về tình 
hình thực hiện vốn đầu tư). Đặc biệt là hầu hết các 
KHKT không có thông tin về các xã, các đơn vị dự 
toán, đơn vị sự nghiệp thuộc cấp huyện dự kiến 
chọn kiểm toán. Do đó, việc chọn đầu mối, đơn 
vị kiểm toán thường không đảm bảo tiêu chí chọn 
trên cơ sở thông tin thu thập mà thường chọn ngẫu 
nhiên hoặc theo tiêu chí số lớn.
- Thu thập thông tin chưa chính xác: Một số 
KHKT thu thập chưa chính xác tên hoặc các thông 
tin về các ban quản lý dự án đầu tư; tên các dự án 
đầu tư; tên của các đơn vị kiểm toán khác dẫn đến 
trong quá trình thực hiện kiểm toán phải bổ sung, 
điều chỉnh phạm vi kiểm toán. Ngoài ra, một số 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN50 Số 131 - tháng 9/2018
KHKT thu thập chưa chính xác thông tin về tài 
chính, ngân sách của địa phương dẫn đến việc xác 
định trọng tâm, nội dung kiểm toán chưa chính xác. 
Thực tiễn cho thấy nhiều Đoàn kiểm toán thu thập 
thông tin về tiến độ, khối lượng hoàn thành của Dự 
án đầu tư tại ngân sách cấp huyện chưa chính xác 
nên thực tế triển khai kiểm toán phải điều chỉnh 
nhiều do dự án chưa có khối lượng nghiệm thu 
hoặc khối lượng nghiệm thu thấp.
Ngoài ra, do công tác lập KHKT năm chưa tốt 
nên chưa có đầy đủ thông tin để lập KHKT chi tiết 
của các tổ kiểm toán tại cấp huyện theo quy định 
của Ngành. Việc lập KHKT chi tiết trước khi ban 
hành quyết định kiểm toán thường chỉ là hình thức 
thủ tục và sau khi triển khai kiểm toán, các tổ mới 
điều chỉnh và có KHKT chính thức gửi lại Vụ Chế 
độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán; trưởng đoàn 
kiểm toán... theo quy định, trong đó, hầu hết các 
thông tin trên KHKT phải điều chỉnh như: Trọng 
tâm, nội dung kiểm toán, phạm vi, giới hạn kiểm 
toán, thời gian kiểm toán (thời điểm triển khai và 
thời gian thực hiện của tổ kiểm toán tại ngân sách 
cấp huyện); số lượng kiểm toán viên bố trí cho mỗi 
tổ kiểm toán, đoàn kiểm toán. 
(2) Về xác định trọng tâm, trọng yếu và rủi ro 
kiểm toán
- Do thiếu thông tin của ngân sách cấp huyện 
nên hầu hết các cuộc kiểm toán không tập trung 
nghiên cứu, phân tích thông tin thu thập để xác 
định trọng tâm kiểm toán cho ngân sách cấp 
huyện. Vấn đề này gần như bị lãng quên, các đoàn 
kiểm toán chỉ tập trung xác định trọng tâm kiểm 
toán cho ngân sách cấp tỉnh. Đặc biệt là các trọng 
tâm trong kiểm toán việc lập, giao dự toán đầu 
năm, điều chỉnh trong năm, nhất là công tác lập, 
thẩm định và phê duyệt chủ trương đầu tư, bố trí 
kế hoạch vốn đầu tư và việc sử dụng nguồn của 
ngân sách cấp huyện hay việc điều hành ngân sách 
huyện trong điều kiện hụt thu.
- Phần trình bày trọng tâm kiểm toán đối với 
kiểm toán tổng hợp của ngân sách cấp huyện được 
các đoàn xác định trên cơ sở các nội dung kiểm 
toán tổng hợp của ngân sách cấp tỉnh mà không 
trên cơ sở phân tích thông tin thu thập nên dẫn đến 
còn chung chung hoặc dàn trải.
- Chưa tập trung cho việc kiểm toán xác nhận 
quyết toán ngân sách huyện; chưa xác định trọng 
yếu, trọng tâm kiểm toán tại mỗi đơn vị được kiểm 
toán của ngân sách cấp huyện; xác định rủi ro kiểm 
toán tại nhiều KHKT còn chưa phù hợp; còn nhầm 
lẫn giữa rủi ro và nội dung, trọng yếu kiểm toán...
- Việc xác định trọng tâm, mục tiêu, nội dung 
kiểm toán trong KHKT của một số cuộc kiểm toán 
chủ yếu dựa vào hướng dẫn chung của ngành, dẫn 
đến nhiều trọng tâm, nội dung kiểm toán không 
phù hợp với thực tế, không phát sinh ở ngân sách 
cấp huyện (như vay nợ chính quyền địa phương, 
ứng trước ngân sách trung ương, sử dụng quỹ tích 
lũy trả nợ...).
(3) Về mục tiêu kiểm toán
 Do kiểm toán ngân sách cấp huyện được lồng 
ghép trong ngân sách địa phương các tỉnh thành 
phố nên mục tiêu kiểm toán của ngân sách cấp 
huyện được thể hiện (nằm trong) mục tiêu chung 
của cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, tại một số KHKT 
có phạm vi và đặc thù riêng (kiểm toán theo chủ 
đề) được triển khai kiểm toán tại ngân sách cấp 
huyện, các đoàn cũng chưa xác định mục tiêu kiểm 
toán cụ thể có liên quan.
(4) Về nội dung kiểm toán
- Do chưa có hướng dẫn riêng cho ngân sách 
cấp huyện nên tại các KHKT việc trình bày nội 
dung kiểm toán tại ngân sách cấp huyện còn chưa 
thống nhất, như: có KHKT không trình bày riêng 
nội dung kiểm toán tại ngân sách cấp huyện mà 
chỉ nêu chung theo nguyên tắc “Đoàn kiểm toán 
sẽ bám sát Đề cương kiểm toán Ngân sách địa 
phương năm 2015 để thực hiện. Những nội dung 
không phát sinh sẽ được trình bày trong kế hoạch 
kiểm toán chi tiết” hoặc có KHKT trình bày các nội 
dung kiểm toán tại cấp huyện nhưng các nội dung 
kiểm toán không đầy đủ khi kiểm toán tại các đơn 
vị kiểm toán tổng hợp và đơn vị kiểm toán chi tiết. 
- Chưa quan tâm thực hiện kiểm toán để xác 
nhận quyết toán ngân sách địa phương nói chung 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 51Số 131 - tháng 9/2018
và ngân sách cấp huyện nói riêng. Do đó, KHKT 
chưa trình bày các nội dung kiểm toán tương ứng 
để xác nhận quyết toán ngân sách cấp huyện.
- Xác định thiếu nội dung kiểm toán tương ứng 
với các trọng tâm kiểm toán đã xác định hoặc trọng 
tâm kiểm toán cần bổ sung theo ý kiến thẩm định 
của các Vụ tham mưu, nhất là đối với các chuyên 
đề, chủ đề kiểm toán tại ngân sách cấp huyện.
- Một số nội dung kiểm toán chưa được cụ thể 
hóa nhất là các nội dung kiểm toán tổng hợp tại 
ngân sách cấp huyện, nội dung trình bày còn quá 
ngắn gọn, sơ sài và chưa hướng dẫn cụ thể các 
bước để thực hiện nội dung kiểm toán tổng hợp. 
Nội dung kiểm toán xác định còn chung chung nên 
chưa giúp cho các tổ kiểm toán, các kiểm toán viên, 
nhất là kiểm toán viên mới vào nghề định hướng, 
triển khai trong quá trình thực hiện kiểm toán.
- Chưa xác định nội dung kiểm toán cụ thể cho 
mỗi đơn vị, đầu mối được kiểm toán tại huyện. Một 
số KHKT không xác định đầy đủ nội dung kiểm 
toán của chuyên đề, chủ đề trong cuộc kiểm toán 
mà phạm vi kiểm toán được xác định là kiểm toán 
tại các huyện. Tại các Ban quản lý dự án cấp huyện, 
hầu hết các KHKT không xác định nội dung kiểm 
toán tổng hợp.
- Xác định nội dung kiểm toán chưa phù hợp 
với thông tin thu thập hoặc xác định nội dung kiểm 
toán nhưng không có thông tin.
(5) Về phạm vi kiểm toán
- Việc lựa chọn đầu mối, đơn vị kiểm toán tại 
cấp huyện của hầu hết các KHKT còn chưa cụ thể; 
chưa dựa trên cơ sở yêu cầu, mục tiêu, trọng yếu, 
nội dung của cuộc kiểm toán tại cấp huyện. Tại 
KHKT của đoàn kiểm toán chỉ xác định:
+ Số lượng đơn vị dự toán cấp huyện, số lượng 
xã mà Đoàn kiểm toán dự kiến sẽ chọn kiểm toán 
chi tiết.
+ Số lượng mẫu chọn (trong khoảng nào đó) 
các dự án kiểm toán chi tiết (từ năm 2016 trở về 
trước) hoặc danh mục các dự án kiểm toán chi tiết 
(đối với năm 2017). 
Bên cạnh đó, một số KHKT của Đoàn kiểm 
toán cũng không nêu số lượng mẫu chọn cụ thể để 
kiểm toán chi tiết các đơn vị dự toán và các xã mà 
chỉ xác định chung chung “chọn một số đơn vị dự 
toán cấp huyện và một số xã để kiểm toán chi tiết” 
và trình bày theo nguyên tắc “Việc lựa chọn kiểm 
toán chi tiết tại các huyện, Kiểm toán trưởng quyết 
định trên cơ sở đề nghị của Trưởng đoàn kiểm 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN52 Số 131 - tháng 9/2018
toán, báo cáo Lãnh đạo Kiểm toán nhà nước phụ 
trách và chịu trách nhiệm trước Tổng Kiểm toán 
nhà nước về quyết định của mình theo hướng dẫn 
của KTNN”.
Ngoài ra, nhiều đoàn kiểm toán không kiểm 
toán chi tiết mà chỉ xác định đối chiếu tại các đơn 
vị này khi kiểm toán tại ngân sách cấp huyện.
- Tại các KHKT chi tiết của Tổ kiểm toán, việc 
lựa chọn đơn vị, đầu mối kiểm toán tại huyện cũng 
chưa có tiêu chí, cụ thể, rõ ràng. Thông thường, việc 
lựa chọn đơn vị kiểm toán theo phương pháp chọn 
mẫu luân phiên, số lớn thường căn cứ vào quy mô 
kinh phí sử dụng (đối với đơn vị dự toán và các xã) 
mà chưa lượng hóa được tính chất, mức độ phức 
tạp của loại hình hoạt động, quản lý để xây dựng 
tiêu chí cho việc lựa chọn đơn vị, đầu mối kiểm 
toán hoặc lựa chọn các đơn vị chưa được kiểm toán 
những năm gần đây.
- Một số tổ kiểm toán còn kiểm toán chi phí 
quyết toán các dự án đầu tư tại Phòng Tài chính 
- Kế hoạch trong khi về cơ sở pháp luật, việc thực 
hiện kiểm toán chi phí quyết toán các dự án đầu tư 
tại Phòng Tài chính - Kế hoạch còn vướng mắc và 
KTNN chưa có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. 
(6) Về bố trí nhân sự và thời gian kiểm toán
- Cho đến nay, hầu hết các đoàn kiểm toán chưa 
tập trung bố trí nhân sự để kiểm toán tại các cơ 
quan quản lý tài chính tổng hợp của huyện trong 
khi đây là nội dung kiểm toán quan trọng khi kiểm 
toán ngân sách cấp huyện. Bên cạnh đó, nhiều 
đoàn kiểm toán chưa bố trí thời gian, nhân sự thỏa 
đáng cho kiểm toán xác nhận quyết toán ngân sách 
huyện mà chủ yếu dành nhiều thời gian, nhân lực 
cho kiểm toán tại các đầu mối, đơn vị kiểm toán 
chi tiết (một số Đoàn kiểm toán còn tập trung bố 
trí nhân lực và thời gian chủ yếu cho kiểm toán chi 
tiết các dự án đầu tư).
- Bố trí nhân sự không phù hợp với khối lượng 
công việc, phạm vi kiểm toán của tổ kiểm toán, 
đặc biệt khi có các chủ đề kiểm toán lồng ghép tại 
huyện mà bố trí chủ yếu trên cơ sở nhân sự hiện có 
của các tổ, đoàn kiểm toán. 
- Còn tình trạng phân công công việc cho các 
kiểm toán viên chưa hợp lý, còn chồng chéo, chưa 
phù hợp với năng lực, sở trường...
(7) Về kết quả kiểm toán 
- Kết quả kiểm toán ngân sách cấp huyện trình 
bày tại BCKT của Đoàn kiểm toán khá mờ nhạt, 
còn sơ sài, chưa đầy đủ, cụ thể, thiếu những nhận 
định sâu sắc hoặc kết quả kiểm toán không có tính 
xâu chuỗi, liên kết nên đánh giá, nhận xét từ kết quả 
kiểm toán chưa khái quát được những ưu điểm và 
hạn chế trong điều hành ngân sách của các huyện 
thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được 
kiểm toán.
- Các phát hiện kiểm toán của các tổ kiểm toán 
tại huyện nhiều khi còn mang tính đơn lẻ, chưa đi 
sâu đánh giá cùng một vấn đề dẫn đến các phát 
hiện kiểm toán trình bày trên BCKT còn dàn trải 
hoặc vụn vặt, thiếu khái quát. 
- Một số đánh giá, nhận xét tại BCKT thiếu bằng 
chứng, hoặc bằng chứng không cụ thể, không rõ 
ràng nên thiếu tính thuyết phục. Nhiều kiến nghị 
kiểm toán còn vụn vặt hoặc thiếu cơ sở do không 
đầy đủ bằng chứng.
Nguyên nhân của những hạn chế:
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân như: 
Chất lượng kiểm toán viên, chất lượng quản lý, chỉ 
đạo hoạt động kiểm toán, chất lượng hiệu quả hoạt 
động kiểm soát chất lượng kiểm toán, hệ thống văn 
bản quy phạm pháp luật... Trong giới hạn nghiên 
cứu của bài viết, tác giả đưa ra một số nguyên nhân 
chủ yếu sau: 
(1) Về chỉ đạo, lãnh đạo trong xây dựng KHKT: 
Việc xây dựng KHKT của một số đoàn kiểm toán 
còn mang tính hình thức, chưa thật sự coi KHKT là 
tiền đề quan trọng không thể thiếu của cuộc kiểm 
toán, nhất là việc xây dựng KHKT chi tiết. Một vài 
Lãnh đạo Đoàn kiểm toán, lãnh đạo KTNN khu 
vực chưa quan tâm, coi trọng đúng mức đối với 
công tác xây dựng KHKT của Đoàn kiểm toán nói 
chung và KHKT chi tiết của tổ kiểm toán nói riêng 
nên dẫn đến thiếu sự chỉ đạo, điều hành kịp thời 
hoặc chưa đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi đối với các 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 53Số 131 - tháng 9/2018
kiểm toán viên trực tiếp thực hiện công tác khảo 
sát, thu thập thông tin và xây dựng KHKT trong 
việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng KHKT; còn 
thiếu kiên quyết trong chỉ đạo hoàn thiện, chỉnh 
sửa KHKT. 
(2) Chưa dành thời gian thỏa đáng cho việc 
khảo sát, thu thập thông tin và lập KHKT dẫn đến 
thông tin thu thập không đầy đủ, thiếu kỹ càng; 
không có đủ thời gian cho việc nghiên cứu thông 
tin, đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán. Thời gian 
khảo sát, thu thập thông tin và lập KHKT của các 
cuộc kiểm toán thường từ 7 đến 20 ngày; thời gian 
kiểm toán thường từ 60 đến 90 ngày tùy quy mô 
và nhân sự của cuộc kiểm toán. Trong khi trên thế 
giới, hầu hết các nước dành thời gian chủ yếu cho 
công tác xây dựng KHKT, thời gian dành cho công 
tác kiểm toán không nhiều. Các KTNN khu vực 
chưa có bộ phận chuyên trách về công tác kế hoạch 
kiểm toán, lực lượng cán bộ kiểm toán viên lập 
KHKT thiếu chuyên nghiệp, trình độ, năng lực còn 
hạn chế chưa đồng đều; kỹ năng phân tích, tổng 
hợp đánh giá các thông tin thu thập chưa cao. Việc 
lập KHKT chi tiết cho các tổ kiểm toán ngân sách 
cấp huyện thường giao cho Đoàn khảo sát hoặc 
các tổ trưởng dự kiến thực hiện. Trường hợp giao 
cho đoàn khảo sát thực hiện thì thường dẫn đến 
KHKT chi tiết còn sơ sài, hình thức, bố trí nhân sự 
không phù hợp với năng lực và tính chất công việc 
được giao; lựa chọn các đơn vị, đầu mối kiểm toán 
chưa kỹ càng, không phù hợp với mục tiêu, trọng 
tâm của cuộc kiểm toán. Trường hợp giao cho các 
tổ trưởng tổ kiểm toán dự kiến thì KHKT chi tiết 
lập thường không thống nhất giữa các tổ; xác định 
trọng tâm, nội dung, phạm vi kiểm toán không dựa 
trên cơ sở thông tin đã thu thập; nội dung kiểm 
toán không thống nhất, không đầy đủ theo yêu 
cầu. Nhìn chung, với cả 2 trường hợp trên thì việc 
xác định trọng yếu, trọng tâm, nội dung kiểm toán 
thường mang tính kế thừa của các cuộc kiểm toán 
thực hiện trước, thiếu tính sáng tạo trong điều kiện 
cụ thể của cuộc kiểm toán.
Những hạn chế trong khâu xây dựng KHKT của 
đoàn kiểm toán nói chung và KHKT chi tiết nói 
riêng như đã nêu trên đã ảnh hưởng nhiều đến kết 
quả kiểm toán cả về số lượng và chất lượng trong 
thời gian qua, nhất là việc bố trí thời gian, nhân 
sự không thỏa đáng (do cùng lúc triển khai nhiều 
đoàn kiểm toán, trong điều kiện nhân sự của phần 
lớn các KTNN khu vực còn hạn chế nên nhân sự 
bố trí để thực hiện kiểm toán tổng hợp của nhiều 
đoàn kiểm toán còn khá mỏng và chưa đảm bảo 
về chất lượng) là một trong những nguyên nhân 
chính dẫn đến các nội dung kiểm toán tổng hợp 
tại các cơ quan trên không được thực hiện đầy đủ 
hoặc không đảm bảo chất lượng, một số phát hiện 
kiểm toán không được xem xét một cách thấu đáo.
(3) Chưa có hướng dẫn riêng cho kiểm toán 
ngân sách cấp huyện, nhất là việc thực hiện kiểm 
toán các nội dung tại các cơ quan tổng hợp của 
huyện dẫn đến các tổ kiểm toán không thực hiện 
đầy đủ các nội dung kiểm toán theo yêu cầu. Việc 
chỉ xác định đối chiếu tại các đơn vị dự toán và 
các xã của nhiều đoàn kiểm toán nhưng không 
xác định đúng trọng tâm cần đi sâu đã phần nào 
làm hạn chế chất lượng kiểm toán ngân sách cấp 
huyện do không có điều kiện đi sâu kiểm toán 
nhiều nội dung. 
(4) Ngoài ra, do việc kiểm toán ngân sách cấp 
huyện chưa được chú trọng, thực hiện trong cuộc 
kiểm toán ngân sách địa phương mà tập trung 
chủ yếu là kiểm toán tại ngân sách cấp tỉnh nên 
phần nhiều dung lượng của BCKT được trình 
bày cho kết quả kiểm toán ngân sách cấp tỉnh mà 
ít đề cập đến kết quả kiểm toán của ngân sách 
cấp huyện.
3. Giải pháp
Một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục hạn 
chế, nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán 
trong thực hiện kiểm toán ngân sách cấp huyện của 
các KTNN khu vực cụ thể như sau:
(1) Xây dựng hướng dẫn riêng cho kiểm toán 
ngân sách cấp huyện nhất là việc thực hiện kiểm 
toán các nội dung tại các cơ quan tổng hợp của 
huyện, trong đó chỉ rõ tài liệu cần thu thập, nội 
dung, thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên cần 
thực hiện tại từng đơn vị thuộc cấp huyện (Phòng 
Tài chính - Kế hoạch; Chi cục Thuế; Ban quản lý dự 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN54 Số 131 - tháng 9/2018
án; KBNN huyện; các đơn vị hành chính, sự nghiệp 
thuộc huyện), các sai sót thường gặp trong quá 
trình kiểm toán và đưa ra một số gợi ý về phương 
pháp chọn mẫu, phân tích, nhận diện để phát hiện 
các sai sót trọng yếu khi thực hiện các nội dung 
kiểm toán.
(2) Các cấp lãnh đạo (Lãnh đạo KTNN, Lãnh 
đạo KTNN các khu vực, Trưởng đoàn kiểm toán) 
cần quan tâm, coi trọng đúng mức đối với công tác 
xây dựng KHKT của đoàn kiểm toán nói chung và 
KHKT chi tiết của tổ kiểm toán nói riêng. Bắt đầu 
từ việc nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo, lãnh 
đạo trong xây dựng KHKT của các KTNN khu vực 
để việc xây dựng KHKT không còn là hình thức, 
thật sự coi KHKT là tiền đề quan trọng không thể 
thiếu của cuộc kiểm toán, nhất là việc xây dựng 
KHKT chi tiết của các tổ kiểm toán ngân sách 
huyện. Kịp thời chỉ đạo, lãnh đạo các thành viên 
đoàn khảo sát thu thập đầy đủ thông tin, phân tích 
thông tin để lập KHKT cũng như hoàn thiện, chỉnh 
sửa KHKT. 
(3) Dành thời gian thỏa đáng cho việc khảo sát, 
thu thập thông tin và lập KHKT để thu thập đầy 
đủ thông tin; tập trung thời gian và nhân lực cho 
việc nghiên cứu thông tin, đánh giá trọng yếu, rủi 
ro kiểm toán trên cơ sở thông tin đã thu thập. Bố 
trí kiểm toán viên có đủ năng lực cho công tác xây 
dựng KHKT, kiểm toán viên tham gia khảo sát lập 
KHKT phải có kỹ năng phân tích, tổng hợp đánh 
giá các thông tin thu thập được. Bên cạnh đó, cần 
lựa chọn các đơn vị, đầu mối kiểm toán một cách 
kỹ càng, phù hợp với mục tiêu, trọng tâm của cuộc 
kiểm toán nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả của 
cuộc kiểm toán. Trên cơ sở đó, bố trí thời gian thỏa 
đáng cho việc kiểm toán ngân sách huyện để thực 
hiện đầy đủ nội dung kiểm toán nhất là các trọng 
tâm kiểm toán tại huyện như đã hướng dẫn.
(4) Nâng cao chất lượng đào tạo kiểm toán viên 
KTNN theo hướng nội dung chương trình đào tạo, 
bồi dưỡng cần chú trọng nhiều hơn đến việc rèn 
luyện kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ KTVNN 
cũng như kiến thức về lý luận chính trị và những 
kiến thức hiện đại. Triển khai đào tạo, tập huấn để 
phổ biến, hướng dẫn đến tất cả các kiểm toán viên 
tham gia kiểm toán ngân sách địa phương về Sổ 
tay Hướng dẫn kiểm toán ngân sách cấp huyện, 
trong đó, chú trọng việc thực hiện kiểm toán các 
nội dung tại các cơ quan tổng hợp của huyện; tổng 
kết, đánh giá sau thời gian áp dụng vào hoạt động 
kiểm toán để hoàn thiện Sổ tay Hướng dẫn. 
(5) Khi áp dụng Sổ tay Hướng dẫn kiểm toán 
ngân sách cấp huyện trong thực tiễn kiểm toán, cần 
phải tiếp tục điều chỉnh, cập nhật bổ sung những 
thay đổi về chế độ, chính sách đã đề cập trong Sổ 
tay Hướng dẫn để áp dụng có hiệu quả trong hoạt 
động kiểm toán của KTNN. 
Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 đòi 
hỏi phải đổi mới hoạt động kiểm toán của Ngành, 
đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc xây dựng và đổi 
mới phương pháp kiểm toán nhằm giảm thiểu thời 
gian kiểm toán, tăng quy mô mẫu kiểm toán về 
tổng thể và tại các đầu mối kiểm toán để đạt yêu 
cầu xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo 
cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách; đánh 
giá việc tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, tính hiệu 
lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, 
tiền và tài sản nhà nước theo quy định của Luật 
KTNN. Do vậy, việc xây dựng hướng dẫn quy trình 
nghiệp vụ cho kiểm toán ngân sách cấp huyện sẽ 
giúp nâng cao chất lượng công tác kiểm toán báo 
cáo quyết toán ngân sách cấp huyện và tạo thuận 
lợi cho các kiểm toán viên cũng như Lãnh đạo 
Đoàn kiểm toán trong việc thực hiện kiểm toán tại 
ngân sách cấp huyện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Kiểm toán nhà nước 2015;
2. Chiến lược Kiểm toán nhà nước đến năm 
2020;
3. Nghị quyết số 927/2010/UBTVQH12 ngày 
19/4/2010 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
4. Hệ thống Quy trình, chuẩn mực của Kiểm 
toán nhà nước;
5. Kế hoạch kiểm toán và báo cáo kiểm toán 
ngân sách địa phương của Kiểm toán nhà 
nước trong các năm từ 2015-2017.

File đính kèm:

  • pdfsu_can_thiet_trong_viec_xay_dung_huong_dan_quy_trinh_nghiep.pdf