Sự bùng nổ của các doanh nghiệp Fintech, cơ hội và thách thức cho các ngân hàng tại Việt Nam

TÓM TẮT

Sự ra đời và phát triển của các công ty Fintech đã làm thay đổi và thúc đẩy

các kênh phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống, mở rộng giao

dịch trực tuyến thông qua Internet Banking, Mobile banking, mạng xã hội, ngân

hàng không giấy, điều này dẫn đến câu hỏi Fintech là đối tác hay đối thủ của các

ngân hàng. Bài báo trên cơ sở phân tích sự phát triển của các doanh nghiệp

Fintech trong thời gian gần đây, từ đó cho thấy những cơ hội đồng thời cũng chỉ

ra những thách thức đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng trong tương lai.

Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường sự hợp

tác giữa các doanh nghiệp Fintech và ngân hàng trong bối cảnh cách mạng công

nghiệp 4.0 hiện nay

pdf 6 trang phuongnguyen 620
Bạn đang xem tài liệu "Sự bùng nổ của các doanh nghiệp Fintech, cơ hội và thách thức cho các ngân hàng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự bùng nổ của các doanh nghiệp Fintech, cơ hội và thách thức cho các ngân hàng tại Việt Nam

Sự bùng nổ của các doanh nghiệp Fintech, cơ hội và thách thức cho các ngân hàng tại Việt Nam
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY 
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 6 (Dec 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 151
SỰ BÙNG NỔ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP FINTECH, 
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 
THE EXPLOSION OF FINTECH ENTERPRISES, OPPORTUNITIES AND CHALLENGES 
FOR BANKS IN VIETNAM 
Hà Thị Kim Dung*, Nguyễn Thúy Quỳnh 
TÓM TẮT 
Sự ra đời và phát triển của các công ty Fintech đã làm thay đổi và thúc đẩy 
các kênh phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống, mở rộng giao 
dịch trực tuyến thông qua Internet Banking, Mobile banking, mạng xã hội, ngân 
hàng không giấy, điều này dẫn đến câu hỏi Fintech là đối tác hay đối thủ của các 
ngân hàng. Bài báo trên cơ sở phân tích sự phát triển của các doanh nghiệp 
Fintech trong thời gian gần đây, từ đó cho thấy những cơ hội đồng thời cũng chỉ
ra những thách thức đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng trong tương lai. 
Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường sự hợp 
tác giữa các doanh nghiệp Fintech và ngân hàng trong bối cảnh cách mạng công 
nghiệp 4.0 hiện nay. 
Từ khóa: Fintech, doanh nghiệp Fintech, ngân hàng, cách mạng công nghiệp 4.0. 
ABSTRACT 
The establishment and development of Fintech companies has changed and 
promoted the distribution channels of traditional banking products and services, 
expanding online transactions through Internet Banking, Mobile banking, social 
networks, and paperless bank, which raises the question that whether Fintech is 
a partner or a rival of banks. The article based on an analysis of the recent 
development of Fintech enterprises to show not only opportunities but also 
challenges for the operation of the banking system in the future. From that, 
some solutions are proposed to enhance the cooperation between Fintech 
enterprises and banks in the context of the current industrial revolution 4.0 
Keywords: Fintech, Fintech Enterprises, banks, industrial revolution 4.0. 
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 
*Email: dungh21@gmail.com 
Ngày nhận bài: 20/01/2020 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 28/6/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 23/12/2020 
1. SỰ BÙNG NỔ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP FINTECH 
1.1. Doanh nghiệp Fintech 
Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, 
nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội có những biến 
chuyển vô cùng mạnh mẽ, trong đó có lĩnh vực tài chính. 
Sự xuất hiện của Fintech làm thay đổi cục diện ngành dịch 
vụ tài chính với những lợi thế về tốc độ, đơn giản, hiệu quả, 
tôn trọng quyền riêng tư và tiềm năng đã cho phép các 
Fintech chia sẻ với khách hàng nhiều hơn, trao cho họ 
quyền kiểm soát và quyết định trong các giao dịch tài chính 
và các hoạt động đầu tư. 
Hiện tại, chưa có một định nghĩa thống nhất trên toàn 
cầu cho Fintech. Fintech - viết tắt của từ Financial 
Technology” có nghĩa là công nghệ tài chính - là thuật ngữ 
đề cập đến việc tận dụng sáng tạo công nghệ trong các 
hoạt động dịch vụ tài chính. Một cách đầy đủ hơn, theo 
Wikipedia trích dẫn từ Huffington Post, Fintech được định 
nghĩa là một ngành công nghiệp tài chính mới áp dụng 
công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính. Như 
vậy có thể hiểu Fintech là các ứng dụng, qui trình, sản 
phẩm, mô hình kinh doanh mới trong ngành dịch vụ tài 
chính, bao gồm một hay nhiều dịch vụ tài chính bổ sung và 
được cung cấp như một qui trình ‘từ đầu cuối tới đầu cuối’ 
qua mạng internet. 
Doanh nghiệp Fintech, thường biểu thị các công ty hoặc 
đại diện các công ty kết hợp các dịch vụ tài chính với các 
công nghệ hiện đại, sáng tạo. Các công ty Fintech thường 
hướng tới thu hút khách hàng bằng các sản phẩm và dịch vụ 
thân thiện với người dùng, hiệu quả hơn, minh bạch hơn và 
tự động hơn so với những sản phẩm và dịch vụ đã có. Ngoài 
cung cấp các sản phẩm và dịch vụ trong lĩnh vực ngân hàng, 
Fintech còn phân phối bảo hiểm và các công cụ tài chính 
khác hoặc cung cấp các dịch vụ bên thứ ba. 
Vậy nếu một ngân hàng hoặc công ty tài chính bắt đầu 
áp dụng công nghệ vào vận hành, ví dụ ngân hàng đưa ra 
phần mềm ứng dụng điện thoại di động cho phép khách 
hàng giao dịch Mobile banking thì có được định nghĩa là 
Fintech không? Câu trả lời là không, đó là việc ứng dụng 
công nghệ thông tin trong công ty tài chính hoặc ngân 
hàng và tuyệt nhiên không thể gọi là Fintech. 
Có nhiều lý lẽ xem Fintech là đối thủ của ngân hàng bởi 
dịch vụ của Fintech và các ngân hàng thương mại mang 
tính chất thay thế nhau, đây là một trong năm áp lực cạnh 
tranh theo mô hình của Michael Porter. Anagnostopoulos 
cho rằng Fintech sẽ đối xử với những định chế tài chính 
khác như là đối thủ cạnh tranh hơn là đối tác do những 
nghiệp vụ giữa các công ty Fintech gắn liền với khách hàng 
cuối cùng sử dụng sản phẩm [1]. Fernández De Lis S. cho 
rằng các hệ sinh thái Fintech không còn quá nhỏ bé để bỏ 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số 6 (12/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 152
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 
qua nữa, sự lớn mạnh của các định chế Fintech đã khiến 
cho ngân hàng và cả những nhà làm chính sách cũng phải 
dè chừng về quy mô [2]. Theo cách tiếp cận của Huertas 
cho thấy, sự cạnh tranh trong thị trường tiền gửi huy động 
vốn truyền thống đã bị thu hẹp lại trong khu vực ngân 
hàng; ngược lại, các công ty Fintech lại tập trung vào việc 
thu hút khách hàng từ các nền tảng công nghệ hiện đại, dễ 
nhìn, mỹ thuật thiết kế đẹp và có thể được cá nhân hóa tối 
đa với người dùng [3]. Nghiên cứu của Romānova I., 
Kudinska M. nhận thấy, Fintech sẽ đe dọa thị trường của 
ngân hàng thương mại ở một số lĩnh vực như thanh toán - 
lĩnh vực mà ngân hàng trước đây thống lĩnh - (95% người 
phản hồi rằng dường như khá chắc chắn với tình huống 
này), với sản phẩm tiết kiệm đơn giản (78% phản hồi), tài 
khoản vãng lai (64% phản hồi) và tín dụng tiêu dùng (54% 
phản hồi đồng ý). Trong nghiên cứu của mình, các tác giả 
cũng đồng ý rằng có hai mảng mà Fintech với các ngân 
hàng dường như tránh xa sự cạnh tranh của mình chính là 
sản phẩm tiết kiệm cấu trúc phân tầng (structured savings 
products) và các khoản vay mua nhà thông thường (home 
loan business) [4]. 
1.2. Phân khúc hoạt động của các doanh nghiệp Fintech 
Các công ty trong ngành công nghiệp Fintech có thể 
được chia thành bốn phân khúc chính dựa theo các mô 
hình kinh doanh đặc thù của họ, bao gồm: thanh toán, huy 
động vốn và cho vay, quản lý tài sản và các Fintech khác 
(hình 1). 
Hình 1. Các phân khúc thị trường Fintech tham gia 
- Thanh toán: gồm các công ty Fintech cung cấp các 
loại tiền ảo (cryptocurrency) như một phương án thay thế 
cho tiền truyền thống. Với vai trò là các công cụ thanh toán 
hợp pháp, tiền điện tử có thể được tiết kiệm, sử dụng và 
trao đổi. Các ngân hàng không cần hoạt động như các cơ 
quan trung gian. Một trong những ví dụ về tiền điện tử nổi 
tiếng nhất là Bitcoin. Bitcoin, trải qua biến động giá trị lớn 
trong quá khứ, vẫn chưa thể phát triển thành một đối thủ 
cạnh tranh nghiêm túc với tiền tệ chính thức được ngân 
hàng trung ương phát hành. Hiện có hơn 700 loại tiền ảo 
khác chưa đạt tới mức vốn hóa thị trường như của Bitcoin. 
Ngoài ra, còn có các Fintech cung cấp các phương thức 
thanh toán thay thế như giải pháp thanh toán di động (bao 
gồm các chức năng được xử lý qua điện thoại di động) 
cũng thuộc về phân đoạn này. Những chức năng này gồm 
sử dụng điện thoại di động để thực hiện thanh toán hoặc 
chuyển khoản ngân hàng, ví điện tử là một sản phẩm điển 
hình thuộc phân đoạn này. 
- Huy động vốn và cho vay: là lĩnh vực giúp tạo nguồn 
vốn cho các cá nhân hoặc doanh nghiệp thay cho một 
ngân hàng truyền thống, gồm các hoạt động như huy 
động vốn cộng đồng (crowdfunding - một hình thức huy 
động vốn trong đó một số lượng lớn “người ủng hộ” sẽ 
cung cấp các nguồn lực tài chính để đạt được một mục tiêu 
chung), tín dụng và bao thanh toán (credit and factoring- 
các khoản vay đôi khi được duyệt trong thời gian ngắn vài 
ngày hay vài tuần thông qua điện thoại di động hoặc cung 
cấp các giải pháp bao thanh toán sáng tạo). 
- Quản lý tài sản: bao gồm các công ty Fintech cung cấp 
tư vấn, xử lý và quản lý tài sản, và các chỉ số tổng hợp về 
mức độ giàu có cá nhân. Phân khúc này gồm: tư vấn tự 
động (robo-advice - đề cập đến các hệ thống quản lý danh 
mục đầu tư, có chức năng cung cấp tư vấn đầu tư tự động 
dựa trên thuật toán, đôi khi còn đưa ra các quyết định đầu 
tư), quản lý tài chính cá nhân (PFM - kế hoạch hóa tài chính 
cá nhân, đặc biệt là quản lý và trình bày dữ liệu tài chính 
bằng phần mềm hoặc các dịch vụ dựa trên ứng dụng), đầu 
tư và banking. 
- Các Fintech khác: là các công ty Fintech cung cấp bảo 
hiểm hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu mua được 
bao gộp trong phân đoạn bảo hiểm (còn được gọi là 
InsurTech - công nghệ bảo hiểm). Ngoài ra còn có, các 
Fintech của phân đoạn về các công cụ tìm kiếm và các 
trang so sánh, cho phép tìm kiếm và so sánh các sản phẩm 
và dịch vụ tài chính dựa trên Internet, được bao gộp vào 
phân khúc Fintech khác. Các công ty Fintech cung cấp các 
giải pháp kỹ thuật cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính 
được bao gộp vào phân đoạn công nghệ, công nghệ thông 
tin và cơ sở hạ tầng. 
1.3. Sự bùng nổ của các doanh nghiệp Fintech 
Theo một báo cáo của Accenture (công ty về 
outsourcing và các dịch vụ công nghệ, tư vấn quản lý toàn 
cầu), Fintech là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh 
nhất của nền kinh tế. Trong giai đoạn 2010 - 2013, các hoạt 
động đầu tư vào Fintech chưa thực sự mạnh, lượng vốn đầu 
tư khoảng 2 - 4 tỷ USD. Đến năm 2017, lượng đầu tư vào 
Fintech đã tăng lên mức gần 40 tỷ USD. Riêng trong nửa 
đầu năm 2018, tổng đầu tư vào Fintech trên toàn cầu đã 
đạt 41,7 tỷ USD, vượt qua cả số liệu đầu tư toàn năm 2017. 
Fintech hiện diện ở cả hai thị trường phát triển và đang 
phát triển, đặc biệt là các thị trường đang phát triển có sự 
"nhảy vọt”, nhiều nhà quan sát công nghệ kỳ vọng những 
đổi mới sang tạo quan trọng nhất trong lĩnh vực ngân hàng 
sẽ đến từ những thị trường mới nổi, trong đó có một số 
quốc gia có sự phát triển vượt bậc của Fintech như Brazil, 
Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi. 
Tại Châu Á, Trung Quốc là nơi các doanh nghiệp 
Fintech hoạt động vô cùng mạnh mẽ với sự tham gia của 
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY 
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 6 (Dec 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 153
hàng loạt các tập đoàn có tiềm lực tài chính mạnh, cơ sở 
hạ tầng công nghệ thông tin và có kỹ năng cùng năng lực 
phát triển ứng dụng đang tìm cách vươn ra quốc tế, trong 
đó có một số tên tuổi lớn như Alibaba Group, Baidu và 
Tencent. Ngoài ra, Đông Nam Á cũng đang chứng kiến sự 
tăng trưởng rõ rệt của Fintech. Trong năm 2016, đầu tư 
vào thị trường Fintech ở Đông Nam Á tăng lên 252 triệu 
USD, tăng 33% so với 190 triệu USD trong năm 2015, 
trong đó Singapo là quốc gia đi đầu. Theo dữ liệu từ 
Tracxn (Công ty chuyên tư vấn công nghệ và dữ liệu vốn 
mạo hiểm) cho thấy Singapo là quê hương của nhiều 
công ty Fintech lớn mạnh ở ASEAN, với tỷ lệ khoảng 39%. 
Cơ sở hạ tầng tài chính phát triển và các chính sách quản 
lý mang tính hỗ trợ của Singapo đã giúp cho quốc đảo 
này có thể cạnh tranh với các trung tâm tài chính toàn cầu 
khác. Indonesia, Malaysia và Thái Lan đang theo sát nút 
Singapo với vai trò là những điểm đến ưa thích của các 
công ty Fintech, nhờ được hỗ trợ bởi tỷ lệ sử dụng điện 
thoại di động cao, mức phổ cập Internet rộng và lượng 
dân số trẻ, tốc độ đô thị hóa nhanh. Điều này đã thu hút 
một lượng lớn các nhà đầu tư và các công ty Fintech dành 
sự chú ý của họ vào khu vực. 
Ở Việt Nam, từ năm 2015 các startup về Fintech bắt đầu 
phát triển và dần trở thành một tín hiệu tốt gây chú ý với 
cộng đồng cũng như các doanh nghiệp đang hoạt động 
trong lĩnh vực này, đặc biệt là tại Hà Nội và TP.HCM. Tuy 
nhiên, nếu so với các quốc gia khác trong khu vực, con số 
này còn rất khiêm tốn. Theo nghiên cứu của công ty tư vấn 
Solidiance, thị trường Fintech của Việt Nam đạt 4,4 tỷ USD 
trong năm 2017 và dự kiến sẽ đạt 9 tỷ USD vào năm 2020. 
Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu phát triển Công 
nghệ ngân hàng Đại học Quốc gia TP HCM (VNUHCM-IBT), 
tính đến tháng 10/2019 có hơn 154 công ty hoạt động 
trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam. Trong đó, 37 công ty 
hoạt động trong mảng thanh toán, 25 công ty hoạt động 
trong lĩnh vực cho vay; 22 công ty làm về Blockchain, 
Crypto & Remittance (hình 2). 70% công ty Fintech ở Việt 
Nam là các công ty khởi nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 
đến từ các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Canada, 
Australia, Anh, Đan Mạch, Pháp và các quốc gia lân cận như 
Trung Quốc, Singapo, Malaysia. 
Nhìn chung, Fintech ở Việt Nam hiện chủ yếu chỉ tập 
trung ở ba dịch vụ: thanh toán, cho vay ngang hàng và huy 
động vốn cộng đồng. Các lĩnh vực hoạt động của Fintech 
tại Việt Nam gồm có: 1) Thanh toán với các công cụ như 
Moca, Payoo, VinaPay, Momo hoặc cung ứng giải pháp 
thanh toán kỹ thuật số POS/mPOS4 như Hottab, SoftPay; 2) 
Gọi vốn, các công ty cung cấp nền tảng gọi vốn như 
FundStart, Comicola, Betado hay FirstSetp; 3) Cho vay 
trực tuyến như LoanVi, Timal; 4) Quản lý tài chính cá nhân 
như BankGo, Moneylover, Mobivi; 5) Quản lý dữ liệu như 
Trusting, Social, Circle Bii; 6) Chuyển tiền như Matchmovie, 
Cash2vn; 7) Blockchain như Bitcoin Vietnam, VBTC Bitcoin 
trong đó phát triển nhất là phân khúc thanh toán, đặc biệt 
là ở loại hình ví điện tử. MoMo hiện là công ty Fintech đang 
dẫn đầu thị trường tại Việt Nam. Ở những phân khúc khác, 
các công ty Fintech Việt Nam vẫn hoạt động ở quy mô nhỏ, 
số lượng ít và đang trong giai đoạn phát triển ban đầu. 
Nguồn: VNUHCM-IBT (2019) 
Hình 2. Tỷ lệ các công ty công nghệ tài chính tại Việt Nam 
2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO CÁC NGÂN HÀNG DO 
SỰ BÙNG NỔ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP FINTECH 
Sự bùng nổ của lĩnh vực Fintech ở Việt Nam trong thời 
gian gần đây vừa mang đến những cơ hội và cả những 
thách thức đối với hệ thống ngân hàng bởi ở thời điểm 
hiện tại, các phân khúc hoạt động của Fintech đang ảnh 
hưởng tới phần lớn các dịch vụ truyền thống mang tính cốt 
lõi của ngân hàng (như thanh toán, huy động vốn và cho 
vay). Mặc dù hiện tại trên thị trường tài chính ở Việt Nam thì 
các ngân hàng vẫn đang có thế mạng vốn dĩ là lợi thế cạnh 
tranh riêng có, tuy vậy Fintech đã và đang trở thành những 
đối thủ cạnh tranh khá mạnh buộc ngân hàng phải thay đổi 
và định hình lại chiến lược phát triển của mình. 
2.1. Cơ hội 
Thúc đẩy ngân hàng tăng cường đầu tư vào công 
nghệ, tiếp cận nhiều đối tượng khách hàng ở nhiều phân 
khúc thị trường khác nhau 
Với sự phát triển của các sản phẩm điện thoại thông 
minh và thiết bị di động đã làm thay đổi theo quen của 
người sử dụng trong việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Công 
nghệ di động đã làm chuyển dịch nhu cầu sử dụng dịch vụ 
của khách hàng sang các kênh giao dịch trực tuyến và điện 
thoại di động thông minh thay vì phải t ... chức gọn nhẹ 
hơn, linh hoạt hơn, hoạt động hiệu quả hơn nhờ chất lượng 
nguồn nhân lực gia tăng và chi phí cho nhân sự được tiết 
kiệm hơn. 
2.2. Thách thức 
- Một số mảng hoạt động truyền thống của ngân hàng 
bị thay đổi 
Fintech hiện đang có ảnh hưởng tới phần lớn các dịch 
vụ truyền thống mang tính cốt lõi của ngân hàng như huy 
động vốn, cho vay và thanh toán với hàng loạt công nghệ 
mang tính đột phá, hiện đại. Theo các chuyên gia ngành 
ngân hàng, 10 năm tới thì ngân hàng khó có thể bị lấn sân 
ở những mảng chủ chốt, chẳng hạn như cho vay, nhưng có 
sự thay đổi ở mảng thanh toán, dẫn đến giảm doanh thu 
các ngân hàng bị sụt giảm. Ở Việt Nam năm 2018, 2 kênh 
thanh toán qua internet và mobile banking có tốc độ tăng 
ấn tượng là 19,5% và 169%. Điều này dễ dàng được lý giải 
bởi sự tiện lợi, nhanh chóng, không bị chậm hay gián đoạn 
thanh toán vào các ngày cuối tuần, mặt khác các Fintech 
đầu tư mạnh cho hoạt động marketing nhằm lôi kéo người 
sử dụng như chuyển tiền ngoài hệ thống ngân hàng miễn 
phí, hoàn tiền khi thanh toán các hóa đơn, giảm tiền khi 
thanh toán cho hàng hóa dịch vụ qua ứng dụng... Thị phần 
và lợi nhuận của các ngân hàng ở mảng này theo đó sẽ có 
xu hướng giảm xuống. Theo báo cáo phân tích của Công ty 
tư vấn quản lý McKinsey, đến năm 2025, Fintech có thể ảnh 
hưởng đến xu hướng giảm từ 10 - 40% lợi nhuận của khu 
vực ngân hàng. Cũng theo khảo sát của McKinsey tại Việt 
Nam cho thấy, 50% số người được hỏi cho biết sẵn sàng sử 
dụng các công nghệ tài chính mới, đặc biệt là thanh toán 
số. Ngoài ra, phần lớn những người được hỏi cũng đánh giá 
trong vòng 10 đến 15 năm tới mô hình ngân hàng truyền 
thống sẽ bị thay thế bởi mô hình hợp tác giữa các ngân 
hàng và các công ty Fintech. 
- Áp lực gia tăng đầu tư cho công nghệ và chuyển đổi 
ngân hàng số 
Các Fintech được nhắc đến với sự đi đầu về ứng dụng 
công nghệ thay thế cho những phương thức truyền thống 
và ngày càng có xu hướng lấn sâu hơn vào các phân khúc 
khác của thị trường tài chính. Do vậy, các Fintech đặt ngân 
hàng vào thế buộc phải đua về công nghệ bởi nếu không 
bắt kịp xu thế thì chính ngân hàng truyền thống chắc chắn 
sẽ bị Fintech bỏ xa. Đối với ngân hàng, chuyển đổi số 
không chỉ giới hạn trong việc số hóa dữ liệu giao dịch mà 
thông qua đó còn tập trung nâng cao trải nghiệm của 
khách hàng và được thực hiện nhờ quá trình tự động hóa, 
sử dụng khoa học phân tích dữ liệu để hiểu biết sâu sắc về 
khách hàng, nhằm đưa ra các sản phẩm dịch vụ phù hợp 
đáp ứng với sự phát triển công nghệ ngân hàng. Tuy vậy 
theo nghiên cứu của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS, 
2018) cho thấy ngân hàng sẽ phải đối mặt với các thách 
thức trong chuyển đổi số như: khó khăn trong thu hút nhân 
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY 
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 6 (Dec 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 155
tài; lãnh đạo thiếu hiệu quả; sự thiếu hợp tác trong các đơn 
vị kinh doanh; kết cấu dữ liệu phức tạp; văn hóa doanh 
nghiệp; hạn chế của công nghệ thông tin... Mặt dù ngân 
hàng có thể gia tăng đầu tư cho công nghệ nhưng vẫn 
chưa thể đảm bảo ngân hàng có thể thắng được các 
Fintech do luôn có độ trễ trong việc ứng dụng công nghệ 
thông tin vào các hoạt động của ngân hàng. 
- Áp lực thay đổi quy trình thủ tục cung cấp dịch vụ tài 
chính quản lý rủi ro 
Fintech với sự phát triển mạnh của công nghệ đã làm 
thay đổi cách thức, quy trình vận hành cung cấp các dịch 
vụ tài chính theo hướng nhanh chóng, tiện lợi và trở nên lợi 
thế hơn so với các ngân hàng. Trong mảng cho vay, để đảm 
bảo an toàn vốn ngân hàng thường yêu cầu nhiều thủ tục, 
giấy tờ và mất nhiều thời gian để xử lý cho vay, trong khi 
quy trình cho vay và giải ngân của các công ty Fintech đơn 
giản và nhanh chóng hơn nhiều, có thể phê duyệt một số 
khoản vay chỉ trong vài giờ. Điều này cũng đòi hỏi các ngân 
hàng phải thay đổi quy trình thủ tục vận hành theo hướng 
nhanh gọn, tiện lợi nhưng phải đảm bảo an toàn nhằm 
tăng tính cạnh tranh với các Fintech. 
Tuy nhiên, ngay cả khi ngân hàng hợp tác với các 
Fintech và thay đổi quy trình thủ tục cung cấp dịch vụ tài 
chính thì việc chia sẻ một phần cơ sở dữ liệu cũng sẽ tiềm 
ẩn nhiều rủi ro lớn, đặc biệt là rủi ro an ninh mạng phát 
sinh từ các hành vi gian lận, lừa đảo khách hàng, tấn công 
mạng vào hạ tầng ngân hàng; rủi ro rò rỉ dữ liệu người 
dùng... Đó là những dữ liệu giá trị đối với tội phạm an ninh 
mạng như thông tin, mật khẩu khách hàng, thông tin ban 
lãnh đạo ngân hàng, thông tin tài chính, chiến lược ngân 
hàng, thông tin sáp nhập, thông tin nghiên cứu và phát 
triển, thông tin về bản quyền sở hữu, thông tin về sở hữu trí 
tuệ phi bản quyền, mật khẩu của các đối tác và nhà cung 
cấp, Rò rỉ thông tin là mối lo lớn đối với an ninh mạng thời 
gian qua và trong thời gian tới khi số hóa đang phát triển 
mạnh mẽ. Do đó, vấn đề quan trọng là doanh nghiệp 
Fintech, ngân hàng phải đầu tư thỏa đáng cho an ninh 
mạng, điều này gây áp lực lớn về việc cân đối nguồn vốn 
cho đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin. 
- Áp lực lên việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 
Phát triển ngân hàng số đã không còn là một lựa chọn, 
mà là yêu cầu tất yếu trong cuộc cạnh tranh với Fintech. 
Nhu cầu về đội ngũ nhân sự để triển khai quá trình này 
được dự liệu rất đáng kể, đặc biệt là một số ví trí công việc 
như phát triển phần mềm, kỹ sư công nghệ thông tin, quản 
lý dự án công nghệ thường xuyên được các ngân hàng Việt 
chiêu mộ nhằm phục vụ công cuộc chuyển đổi. Dẫu vậy, 
việc xây dựng một đội ngũ đảm nhận trọng trách này là 
không hề dễ dàng, bởi đây là một ngành có tính đặc thù 
cao, đòi hỏi nhân sự phải có hiểu biết cơ bản về nghiệp vụ 
ngân hàng, quy trình, quy định, quản trị rủi ro, Tuy nhiên, 
đào tạo và thực tế làm việc không thể theo kịp tốc độ phát 
triển nhanh chóng của công nghệ, gây ra khan hiếm số 
lượng nhân sự chất lượng trên thị trường. Hơn nữa, các vị 
trí kỹ thuật đặc thù này đòi hỏi ứng viên có kiến thức và 
kinh nghiệm về các công nghệ mới, như máy học, trí tuệ 
nhân tạo, blockchain là những công nghệ chưa được đào 
tạo rộng rãi ở Việt Nam. Nhà tuyển dụng bởi vậy cũng ít lựa 
chọn hơn, buộc phải tìm kiếm người nước ngoài hoặc 
người Việt Nam có kinh nghiệm học tập và làm việc tại 
nước ngoài cho những vị trí kỹ thuật chủ chốt. Mặt khác, 
các ngân hàng không chỉ chạy đua với nhau trong việc thu 
hút và giữ chân nhân tài, mà còn phải cạnh tranh nhân sự 
với các công ty Fintech. 
Nếu trước đây, nhân viên ngân hàng thường chỉ cần 
thông thạo một nghiệp vụ và tuân theo một lộ trình thăng 
tiến nhất định, thì giờ đây cần phải đa năng hơn. Để đáp 
ứng việc chuyển đổi theo mô hình công nghệ hiện đại 
cũng như nâng cấp đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ, nhân 
lực ngành tài chính, ngân hàng ngoài am hiểu chuyên môn 
nghiệp vụ, có khả năng phân tích dữ liệu, còn phải thành 
thạo kỹ năng vận hành công nghệ số. Ngoài ra, khi các 
ngân hàng áp dụng mô hình hoạt động linh hoạt thay vì 
cấu trúc phòng ban cứng nhắc như trước đây, người lao 
động sẽ cần phải biết nhanh chóng thích ứng với việc luân 
chuyển giữa các đội, nhóm “thời vụ” được lập nên nhằm 
theo kịp các xu hướng và cách thức hoạt động mới của lĩnh 
vực ngân hàng. 
3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC GIỮA CÁC DOANH 
NGHIỆP FINTECH VÀ NGÂN HÀNG 
Trước những cơ hội và thách thức do sự bùng nổ của 
hoạt động Fintech trong thời đại cách mạng công nghiệp 
4.0, các ngân hàng có những lựa chọn riêng về mối quan hệ 
của ngân hàng với Fintech. Theo các chuyên gia, ngành 
ngân hàng phản ứng với sự phát triển của Fintech theo 
những cách khác nhau, hoặc không có động thái gì, hoặc 
coi các công ty Fintech là đối thủ, hoặc là đối tác; hoặc mua 
bán sáp nhập; hoặc hợp tác thúc đẩy sự phát triển của 
fintech; hoặc nghiên cứu và phát triển trong nội bộ hệ 
thống ngân hàng Nhiều ngân hàng định hướng bán lẻ 
nhận thấy những thách thức đến Fintech nên đã tận dụng 
khi Fintech đang còn dạng sơ khai để tiến hành tăng tốc 
đầu tư lĩnh vực công nghệ nhằm đem đến những trải 
nghiệm ngân hàng tốt nhất cho khách hàng. Tuy nhiên, 
cũng có nhiều ngân hàng lựa chọn trở thành đối tác của 
các Fintech, đây được xem là một chiến lược phù hợp. 
Thực tế ở Việt Nam cho thấy, các ngân hàng đang có xu 
hướng hợp tác hơn là đối đầu với các công ty Fintech. Mặc 
dù phần lớn các công ty Fintech ở Việt Nam đang hoạt 
động chủ yếu ở mảng thanh toán, nhưng các ngân hàng 
Việt Nam vẫn đang thực hiện các liên kết với các công ty 
công ty nghệ tài chính để cung cấp dịch vụ tốt hơn, mang 
lại sự tiện lợi hơn cho khách hàng và giảm chi phí cho 
người sử dụng, chẳng hạn quét mã QR Code để thanh toán, 
thực hiện giao dịch thanh toán thông qua các ví điện tử, 
liên kết với các hoạt động P2P lending... Sự hợp tác giữa 
ngân hàng và các công ty Fintech là yêu cầu tất yếu, nhằm 
bù trừ những khiếm khuyết cho nhau. Các ngân hàng hiện 
đang phải đối diện với rất nhiều thách thức do công ty 
Fintech mang lại, trên hầu hết các nghiệp vụ kinh doanh 
truyền thống của mình như cho vay, thanh toán, chuyển 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số 6 (12/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 156
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 
tiền, tài chính cá nhân, bảo hiểm Dù có thể đầu tư nguồn 
lực tài cho phát triển công nghệ, song vấn đề vòng đời sản 
phẩm ngắn, cộng với độ trễ trong việc ứng dụng tích hợp 
công nghệ mới vào hệ thống máy tính đã lỗi thời của họ sẽ 
khiến cho khoản đầu tư của các ngân hàng có thể không 
mang lại hiệu quả. Ngược lại, về phía các công ty Fintech, 
thách thức đặt ra là phải đối mặt với nguy cơ thất bại do 
không thể cung cấp các sản phẩm phù hợp với thị trường, 
mô hình kinh doanh không bền vững, chi phí mở rộng thị 
trường cao, ít khả năng tìm được đối tác là ngân hàng phù 
hợp và khó khăn trong việc giành giật thị phần với sản 
phẩm mới khác biệt so với những sản phẩm đã được các 
ngân hàng cung ứng lâu năm. Việc hợp tác sẽ tận dụng 
được lợi thế của cả hai phía, gồm mạng lưới, vốn, kiểm soát 
nội bộ chặt chẽ và kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính của 
các ngân hàng và lợi thế về mặt công nghệ, mô hình kinh 
doanh sáng tạo và có khả năng phân tích dữ liệu lớn của 
các Fintech. Phương thức hợp tác nên được triển khai theo 
các hướng sau: 
- Tận dụng mạng lưới, cơ sở hạ tầng sẵn có của ngân 
hàng để kết hợp với khả năng phát triển công nghệ của các 
công ty Fintech thông qua việc liên kết phát triển dịch vụ, 
sản phẩm, ngân hàng có thể thực hiện thuê ngoài một số 
dịch vụ của các công ty Fintech hơn là đầu tư phát triển với 
chi phí đầu tư lớn. 
- Đẩy mạnh hoạt động thâu tóm thị trường thông qua 
các thương vụ mua bán và sáp nhập, đón đầu và cạnh 
tranh để gây sức ép trở lại cho các công ty Fintech. 
- Thực hiện các bước cải tổ mạnh mẽ, đặc biệt trong việc 
nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để 
luôn giữ vai trò là động lực phát triển đi đầu trong hệ thống 
tài chính. 
- Ngân hàng cần quy định về các loại dữ liệu cung cấp 
cho Fintech. Khi đưa sản phẩm vào ứng dụng, ngân hàng 
cũng cần giám sát các dữ liệu có được sử dụng đúng mục 
đích, đồng thời phải có chính sách bảo mật thông tin khách 
hàng. Với các doanh nghiệp Fintech, cần quan tâm đến 
khía cạnh bảo mật ngay từ khi đưa ra ý tưởng, thực hiện 
song song giữa sáng tạo và tăng cường bảo mật cho giao 
dịch của khách hàng. 
- Tăng cường hợp tác và đầu tư từ nước ngoài để nhận 
chuyển giao và cập nhật công nghệ mới, nhất là những 
công nghệ tạo ra sản phẩm bậc cao như tư vấn tự động, 
nhận diện kỹ thuật số từ xu thế phát triển của Fintech 
toàn cầu. 
Về phía cơ quan quản lý: 
- Cần tập trung xây dựng hệ thống chính sách pháp 
luật nhằm giải quyết các vấn đề về bảo mật, an ninh mạng, 
sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng nhằm bảo đảm sự 
phát triển của hệ thống ngân hàng, cũng như tạo hệ sinh 
thái cho các công ty Fintech khởi nghiệp và phát triển. Hệ 
sinh thái Fintech gồm các doanh nghiệp Fintech, các nhà 
phát triển công nghệ, các nhà quản lý chính sách, khách 
hàng, các tổ chức tài chính truyền thống như ngân hàng, 
công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán Một hệ sinh thái 
hoàn chỉnh, đồng bộ, cân đối sẽ là điều kiện tốt nhất cho 
Fintech phát triển. Bên cạnh đó, xây dựng kế hoạch, nghiên 
cứu, áp dụng cách thức quản lý theo khuôn khổ pháp lý thử 
nghiệm, phù hợp với thực tiễn, thông lệ quốc tế, tiến tới 
ban hành khuôn khổ pháp lý và quản lý chính thức trong 
thời gian tới. Trước mắt, cần công nhận và đẩy mạnh áp 
dụng các chứng từ điện tử, dữ liệu điện tử, chữ ký điện tử. 
- Chuẩn hóa cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, về doanh 
nghiệp, về khách hàng, về các trường thông tin cần phải 
khai báo, tạo nền tảng số hóa, phục vụ cho phát triển mô 
hình kinh tế chia sẻ; hoàn thiện hành lang pháp lý trong 
việc chia sẻ thông tin giữa các bộ ngành, giữa cơ quan 
quản lý với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với nhau 
- Dành nguồn lực ưu tiên cho phát triển hạ tầng về 
thông tin mạng và bảo đảm về anh ninh, an toàn cho mọi 
giao dịch của nền kinh tế trong môi trường mạng bởi 
Fintech và các định chế tài chính luôn đối mặt với những 
thách thức không nhỏ về vấn đề an toàn bảo mật, an ninh 
mạng, tội phạm công nghệ cao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Anagnostopoulos, 2018. Fintech and Regtech: Impact on Regulators and 
Banks. Journal of Economics and Business. 
[2]. Fernández De Lis S., 2016. RegTech, the new magic word in FinTech. 
Banking Outlook, BBVA. 
[3]. Huertas T., 2016. Six Structures in Search of Stability, in Banking Reform. 
edited by Patricia Jackson, UERF Conference Proceedings. 
[4]. Romānova I., Kudinska M., 2016. Banking and Fintech: A Challenge or 
Opportunity?. Contemporary Studies in Economic and Financial Analysis, 21–35. 
[5]. Accenture, 2017. The future of Fintech and banking. Capgemini, top 10 
trends in banking 2017. 
[6]. N.T. Hiền, N.T.M. Ngọc, 2019. Xu hướng phát triển Fintech trên thế giới, 
những cơ hội, thách thức đặt ra với ngành ngân hàng và thực tiễn tại Việt Nam. Tạp 
chí Ngân hàng, số 2+3. 
[7]. P.X. Hòe, 2019. Lợi thế của Fintech, sự hợp tác với ngân hàng và thách 
thức nguồn nhân lực. Hội thảo Quốc tế “Công nghệ tài chính trong nền kinh tế 
thông minh”, ĐHQGHN. 
[8]. P.T. Linh, 2019. Ứng dụng công nghệ tài chính trong chuyển đổi số của 
ngân hàng hiện nay. Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 10. 
[9]. T.Q. Thông, P.K. Duy, H.L.Đ. Toàn, 2018. Fintech và ngân hàng - đối tác 
hay đối thủ. Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Tương lai của Fintech và ngân hàng, phát 
triển và đổi mới. 
[10]. Hoài Sơn, 2019. Startup về Fintech phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam. 
https://kinhtechungkhoan.vn/startup-ve-fintech-phat-trien-manh-me-tai-viet-
nam-39315.html 
[11]. Thu Minh, 2019. Fintech - Xu thế mới của ngành tài chính hiện đại. 
https://nhandan.com.vn/hangthang/item/42381202-fintech-xu-the-moi-cua-
nganh-tai-chinh-hien-dai.html 
AUTHORS INFORMATION 
Ha Thi Kim Dung, Nguyen Thuy Quynh 
Hanoi University of Industry

File đính kèm:

  • pdfsu_bung_no_cua_cac_doanh_nghiep_fintech_co_hoi_va_thach_thuc.pdf