Stress và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: Các vấn đề tâm lý ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 (ĐTĐ) có ảnh hưởng đến quá trình chăm

sóc và điều trị bệnh.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân đái tháo đường type 2.

Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 274 bệnh nhân đái tháo

đường type 2 tại Bệnh viện Gò Vấp từ 1/2020 đến 7/2020. Thang đo stress phiên bản tiếng Việt (DDS-17) có 17

câu hỏi đo lường 4 lĩnh vực bao gồm gánh nặng cảm xúc, stress liên quan bác sĩ, liên quan điều trị và trong các

mối quan hệ. Điểm của stress được tính bằng trung bình của 17 câu hỏi và được phân loại <2: không="" hoặc="">

stress, 2 – <3: stress="" mức="" độ="" trung="" bình="" và="" mức="" độ="" nặng="" khi="" điểm="">

Kết quả: Tỷ lệ stress ở bệnh nhân ĐTĐ là 32,1%, trong đó mức độ trung bình và nặng lần lượt là 24,8% và

7,3%, stress liên quan đến cảm xúc và điều trị chiếm tỷ lệ cao (73,5% và 40,5%). Ngoài ra, bệnh nhân có mức

kiểm soát đường huyết chưa tốt có tỷ lệ stress cao hơn 2,75 lần bệnh nhân kiểm soát được đường huyết (PR: 2,75;

KTC 95%: 1,76-4,30).

Kết luận: Stress ở bệnh nhân ĐTĐ là vấn đề cần được quan tâm. Chương trình giáo dục bệnh nhân cần tập

trung vào việc tăng cường kiểm soát đường huyết và tuân thủ điều trị.

pdf 7 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Stress và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Stress và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh

Stress và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 22
STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO 
ĐƯỜNG TYPE 2 TẠI BỆNH VIỆN GÒ VẤP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Nguyễn Trung Cẩn1, Nguyễn Thị Ngọc Hân2, Huỳnh Giao1 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Các vấn đề tâm lý ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 (ĐTĐ) có ảnh hưởng đến quá trình chăm 
sóc và điều trị bệnh. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân đái tháo đường type 2. 
Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 274 bệnh nhân đái tháo 
đường type 2 tại Bệnh viện Gò Vấp từ 1/2020 đến 7/2020. Thang đo stress phiên bản tiếng Việt (DDS-17) có 17 
câu hỏi đo lường 4 lĩnh vực bao gồm gánh nặng cảm xúc, stress liên quan bác sĩ, liên quan điều trị và trong các 
mối quan hệ. Điểm của stress được tính bằng trung bình của 17 câu hỏi và được phân loại <2: không hoặc ít 
stress, 2 – <3: stress mức độ trung bình và mức độ nặng khi điểm ≥3. 
Kết quả: Tỷ lệ stress ở bệnh nhân ĐTĐ là 32,1%, trong đó mức độ trung bình và nặng lần lượt là 24,8% và 
7,3%, stress liên quan đến cảm xúc và điều trị chiếm tỷ lệ cao (73,5% và 40,5%). Ngoài ra, bệnh nhân có mức 
kiểm soát đường huyết chưa tốt có tỷ lệ stress cao hơn 2,75 lần bệnh nhân kiểm soát được đường huyết (PR: 2,75; 
KTC 95%: 1,76-4,30). 
Kết luận: Stress ở bệnh nhân ĐTĐ là vấn đề cần được quan tâm. Chương trình giáo dục bệnh nhân cần tập 
trung vào việc tăng cường kiểm soát đường huyết và tuân thủ điều trị. 
Từ khoá: đái tháo đường, thang đo distress, distress 
ABSTRACT 
DISTRESS AND ASSCOCIATED FACTORS IN DIABETES TYPE 2 PATIENTS 
AT GO VAP HOSPITAL HO CHI MINH CITY 
Nguyen Trung Can, Nguyen Thi Ngoc Han, Huynh Giao 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 22 - 28 
Background: Psychosocial issues in type 2 diabetes mellitus (T2DM) patients have an effect on diabetes self-
care and treatment. 
Objective: The study aimed to investigate the prevalence and associated factors of distress in T2DM 
patients. 
Methods: A cross-sectional study was recruited for 274 patients with T2DM at Go Vap Hospital. The 
diabetes distress Vietnamese scale (DDS) is a 17-item scale measuring diabetes-related distress including 
emotional distress, physician-related distress, regimen-related distress, and interpersonal distress. The total score 
of DDS-17 was calculated as the average of the 17 items. A mean score of <2.0 indicated none or little distress, 2-3 
indicated moderate and ≥2 was considered high distress. 
Results: We found 32.1% of the patients have distress with moderate to high DRD (24.8% and 7.3%, 
respectively). The prevalence of emotional and regimen-related distress was higher than other components. 
Patients who had HbA1c ≥ 7% was significantly higher 2.75 times in those who had HbA1c <7% (PR 2.75 
95%CI: 1.76-4.30). 
1Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh - Cơ sở 2 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Huỳnh Giao ĐT: 0908608338 Email: [email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 23
Conclusion: Distress should be more considerate in diabetes patients. Diabetes education programs need to 
focus on increase self-management glycemic control and adherence. 
Keywords: diabetes, distress scale, distress 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh rối loạn 
chuyển hóa không đồng nhất, tăng glucose 
máu do khiếm khuyết về insulin hoặc do tác 
động của insulin và nằm trong nhóm 10 bệnh 
mạn tính phổ biến trên thế giới(1). Theo ước 
tính toàn thế giới giai đoạn năm 2011 – 2030, 
bệnh ĐTĐ gây thiệt hại khoảng 1,7 tỷ USD và 
số người mắc bệnh ĐTĐ ngày càng tăng, ước 
tính đến năm 2035 khoảng 592 triệu người(1). 
Việt Nam là nước có nền kinh tế đang phát 
triển, theo báo cáo của Hiệp hội Đái tháo 
đường thế giới ghi nhận có 3,5 triệu người mắc 
bệnh và ước tính tỷ lệ này sẽ tăng lên 78,5% 
vào năm 2045. Theo kết quả điều tra năm 2015 
của Bộ Y tế có 68,9% người tăng đường huyết 
chưa được phát hiện và chỉ có 28,9% người 
bệnh được quản lý tại cơ sở y tế(1,2). Nghiên 
cứu gần đây của Ta T ghi nhận tỷ lệ đái tháo 
đường type 2 ở nam và nữ lần lượt là 10,8% và 
11,7% trong khi đó nghiên cứu của Ho-Pham 
LT ghi nhận tỷ lệ hiện mắc đái tháo đường là 
12,3%(3,4). Mục tiêu của điều trị bệnh nhân 
ĐTĐ là kiểm soát tốt đường huyết nhằm làm 
giảm các biến chứng do ĐTĐ gây ra trong đó 
hiệu quả điều trị phụ thuộc vào sự tự chăm sóc 
bản thân, tuân thủ điều trị và theo dõi đường 
huyết(5). Các vấn đề tâm lý ở bệnh nhân đái 
tháo đường type 2 có ảnh hưởng đến quá trình 
chăm sóc và điều trị bệnh. Bệnh nhân có nguy 
cơ stress từ việc lo lắng về tình trạng sức khỏe 
do chế độ điều trị suốt đời, tác dụng phụ của 
thuốc, chi phí điều trị và các biến chứng của 
bệnh, từ đó dẫn đến các hậu quả như: kiểm 
soát đường huyết kém, giảm tuân thủ điều trị 
và giảm chất lượng cuộc sống và nguy cơ dẫn 
đến các biến chứng nghiêm trọng và xuất hiện 
các bệnh lý đi kèm(6). Theo Hiệp hội Đái tháo 
đường Canada định nghĩa stress do đái tháo 
đường là sự bất ổn và các rối loạn cảm xúc liên 
quan đến việc mắc bệnh do đó cần thiết phải 
theo dõi và điều trị liên tục những lo lắng 
thường trực về các biến chứng và sự suy giảm 
tiềm ẩn các mối quan hệ cá nhân và với bác sĩ 
điều trị(7). Vì vậy việc đánh giá và sàng lọc 
phát hiện sớm các vấn đề tâm lý trên bệnh 
nhân đái tháo đường là cần thiết và từ đó đưa 
ra can thiệp phù hợp giúp cho điều trị bệnh 
toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Gò Vấp 
là một quận của TP. Hồ Chí Minh với tốc độ 
đô thị hóa cao, tập trung nhiều người dân lao 
động và mô hình bệnh tật phức tạp. Tại đây 
bệnh đái tháo đường khá phổ biến, số liệu ghi 
nhận tại khoa khám bệnh năm 2019 có đến 
37.055 lượt khám bệnh ĐTĐ type 2 tuy nhiên 
chưa có nghiên cứu đánh giá vấn đề tâm lý 
trên bệnh nhân đái tháo đường tại đây. Do đó 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm xác định 
tỷ lệ stress và các yếu tố liên trên bệnh nhân 
đái tháo đường type 2 tại bệnh viện Gò Vấp, 
TP. Hồ Chí Minh từ đó góp phần cải thiện, 
nâng cao chất lượng điều trị và chăm sóc toàn 
diện cho bệnh nhân. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 7 
năm 2020 trên người bệnh đái tháo đường type 
2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Gò Vấp, TP. 
Hồ Chí Minh. 
Tiêu chí chọn vào 
Bệnh nhân trên 18 tuổi. 
Bệnh nhân ngoại trú được chẩn đái tháo 
đường type 2 ít nhất 3 tháng tại bệnh viện Gò 
Vấp, TP. Hồ Chí Minh. 
Tiêu chí loại ra 
Bệnh nhân hạn chế về tâm thần, hạn chế về 
mặt ngôn ngữ. 
Bệnh nhân đang có thai. 
Bệnh nhân có tình trạng sức khỏe kém 
không thể trả lời phỏng vấn. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 24
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Cỡ mẫu 
Áp dụng công thức ước lượng một tỷ lệ: 
 =




 (1 − )

n: cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu. 
α: xác suất sai lầm loại I (α = 0,05). 
Z: trị số từ phân phối chuẩn (Z0,95=1,96 với 
khoảng tin cậy 95%). 
d: Sai số cho phép (d = 0,05). 
p = 0,363 là tỷ lệ stress trên bệnh nhân đái 
tháo đường type 2 bằng bộ câu hỏi DDS trong 
nghiên cứu của Ong Phúc Thịnh (2018), tại Việt 
Nam(8). 
Cỡ mẫu tối thiểu cần cho nghiên cứu là 247. 
Kỹ thuật chọn mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện 
Thu thập số liệu 
Sử dụng bộ câu hỏi cấu trúc để phỏng vấn 
trực tiếp và các kết quả về điều trị được thu thập 
thông tin từ sổ khám bệnh hoặc bệnh án điện tử. 
Bộ câu hỏi gồm 3 phần: phần 1 bao gồm các câu 
hỏi về đặc điểm dân số – xã hội của đối tượng 
nghiên cứu, phần 2 bao gồm các đặc điểm bệnh 
lý và tuân thủ điều trị, phần 3 đánh giá stress 
liên quan đến ĐTĐ sử dụng thang đo DDS gồm 
17 câu hỏi phiên bản tiếng Việt đã được tác giả 
Ong Phúc Thịnh đã chuyển ngữ và đánh giá 
thang đo DDS phiên bản tiếng Việt với chỉ số 
cronbach alpha=0,94 thể hiện tính tin cậy và tính 
giá trị cao(8).Thang đo có 4 lĩnh vực bao gồm 5 
câu hỏi về gánh nặng cảm xúc, 4 câu về stress 
liên quan đến bác sĩ, 5 câu đánh giá stress liên 
quan đến điều trị, và 3 câu về stress trong các 
mối quan hệ(8). 
Định nghĩa các biến số 
Mỗi câu hỏi trong thang đo stress liên quan 
đến đái tháo đường được đánh giá bằng thang 
điểm Likert 6 lựa chọn, và được cho điểm theo 
thứ tự lần lượt từ 1 = “Không phải vấn đề” đến 
6 = “Vấn đề rất nghiêm trọng”. Điểm của stress 
được tính bằng cách tính điểm trung bình của 
mỗi lĩnh vực, điểm trung bình <2,0 được đánh 
giá không hoặc ít stress, điểm từ 2,0 – <3 là 
stress mức độ trung bình, và mức độ nặng khi 
điểm ≥3(8). 
Xử lý số liệu 
Dữ liệu sau khi thu thập sẽ được nhập liệu 
bằng phần mềm Epidata 3.1 và phân tích dữ liệu 
bằng phần mềm Stata 14.2. Thống kê mô tả tính 
tần số và tỷ lệ các biến số đặc điểm dịch tễ học, 
đặc điểm bệnh lý và tuân thủ điều trị, stress liên 
quan ĐTĐ. Sử dụng phép kiểm Chi bình 
phương hoặc phép kiểm chính xác Fisher (khi có 
lớn hơn 20% số ô có giá trị vọng trị <5 hoặc có 1 ô 
có giá trị vọng trị <1) để xác định mối liên quan 
giữa stress và các đặc điểm của đối tượng nghiên 
cứu. Nghiên cứu sử dụng số đo tỷ số tỷ lệ hiện 
mắc PR và khoảng tin cậy 95% để đo lường mức 
độ liên quan. Sự khác biệt được xem là có ý 
nghĩa khi p <0,05 và khoảng tin cậy 95% không 
đi qua 1. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP. HCM số 202/HĐĐĐ, ngày 
9/3/2020. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm dân số-xã hội của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1: Đặc điểm dân số - xã hội của đối tượng 
nghiên cứu (n=274) 
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) 
Nhóm tuổi 
<50 tuổi 
50-59 tuổi 
≥ 60 tuổi 
17 
68 
189 
6,2 
24,8 
69,0 
Giới tính (Nữ) 220 80,3 
Nghề nghiệp 
Công nhân, viên chức 
Nội trợ 
Hưu trí 
73 
150 
51 
26,7 
54,7 
18,6 
Trình độ học vấn 
Cấp I 
Cấp II 
≥ Cấp III 
147 
65 
62 
53,7 
23,7 
22,6 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 25
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) 
Tình trạng sống chung 
Sống với người thân 
Sống một mình 
245 
29 
89,4 
10,6 
Tình trạng kinh tế 
Đủ sống và khá giả 
Không đủ sống 
268 
6 
97,8 
2,2 
Tham gia bảo hiểm y tế 
(Có) 
274 100 
Kết quả phân tích cho thấy nhóm tuổi ≥ 60 
chiếm hơn 2/3 trong tổng số đối tượng nghiên 
cứu. Phần lớn bệnh nhân là nữ giới (80,3%), 
nghề nghiệp nội trợ (54,7%) và trình độ học vấn 
tốt nghiệp cấp 1 trở xuống (53,7%) (Bảng 1). 
Đặc điểm bệnh lý và tuân thủ điều trị 
Bảng 2: Đặc điểm bệnh lý và tuân thủ điều trị của 
đối tượng nghiên cứu (n=274) 
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) 
Thời gian mắc bệnh 
< 5 năm 
5 - 10 năm 
≥10 năm 
101 
56 
117 
36,9 
20,4 
42,7 
Phương pháp điều trị 
Chỉ dùng thuốc viên 
Tiêm insulin/thuốc viên 
167 
107 
61,0 
39,0 
Mức độ bệnh (tự đánh giá) 
Không biết 
Nhẹ 
Trung bình 
Nặng và rất nặng 
10 
101 
141 
22 
3,6 
36,8 
51,5 
8,1 
Biến chứng (Có) 41 15,0 
Bệnh võng mạc 
Bệnh mạch máu ngoại biên 
Bệnh tim mạch 
Bệnh thần kinh ngoại biên 
Đột quỵ 
Bệnh thận 
Loét chân, cắt cụt chi 
22 
14 
6 
5 
5 
4 
4 
51,2 
31,7 
14,6 
12,2 
12,2 
9,8 
9,8 
Tuân thủ điều trị thuốc (Có) 216 78,8 
Tuân thủ tái khám (Có) 259 94,5 
Tuân thủ dinh dưỡng (Có) 169 61,7 
Tuân thủ tập thể dục (Có) 153 55,8 
Kiểm soát đường huyết <7% (Có) 118 43,1 
Đa số bệnh nhân có thời gian mắc bệnh từ 10 
năm trở lên chiếm tỷ lệ 42,7%. Gần 2/3 số bệnh 
nhân dùng phương pháp điều trị chỉ dùng thuốc 
viên (61,0%). Phần lớn bệnh nhân có tuân thủ 
điều trị thuốc (78,8%), tái khám (94,5%), và tuân 
thủ về dinh dưỡng (61,7%) (Bảng 2). 
Tình trạng stress ở bệnh nhân đái tháo đường 
Về các mức độ stress, đa số bệnh nhân không 
hoặc ít stress (67,9%), bệnh nhân ĐTĐ có stress 
chiếm tỷ lệ là 32,1%. So sánh giữa các lĩnh vực 
thì gánh nặng cảm xúc có mức độ stress (trung 
bình và nặng) chiếm tỷ lệ cao nhất là 36,5 % và 
28,5% (Bảng 3). 
Bảng 3: Tỷ lệ stress trên bệnh nhân đái tháo đường 
típ 2 (n=274) 
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) 
Gánh nặng cảm xúc 
Không hoặc ít Stress 
Stress mức độ Trung bình/ Nặng 
Stress liên quan đến bác sĩ 
Không hoặc ít Stress 
Stress mức độ Trung bình/ Nặng 
Stress liên quan đến điều trị 
Không hoặc ít Stress 
Stress mức độ Trung bình/ Nặng 
100 
174 
199 
75 
163 
111 
36,5 
73,5 
72,6 
27,4 
59,5 
40,5 
Stress liên quan đến mối quan hệ 
Không hoặc ít Stress 
Stress mức độ Trung bình/ Nặng 
190 
84 
69,3 
30,7 
Stress liên quan đái tháo đường 
Không hoặc ít stress 
Có stress 
Mức độ trung bình 
Mức độ nặng 
186 
88 
68 
20 
67,9 
32,1 
24,8 
7,3 
Các yếu tố liên quan đến stress trên bệnh nhân 
đái tháo đường type 2 
Có mối liên quan ý nghĩa thống kê giữa 
stress với thời gian mắc bệnh, phương pháp điều 
trị, tuân thủ điều trị thuốc, tuân thủ dinh dưỡng, 
và kiểm soát đường huyết. Cụ thể, những bệnh 
nhân có thời gian mắc bệnh từ 5 năm đến dưới 
10 năm sẽ giảm 28% khả năng stress, trên 10 
năm sẽ giảm 49% khả năng stress so với nhóm 
có thời gian mắc bệnh dưới 5 năm, những bệnh 
nhân có tiêm insulin thì gia tăng 43% khả năng 
stress so với nhóm bệnh nhân chỉ dùng thuốc 
viên, những bệnh nhân ĐTĐ không tuân thủ 
điều trị thuốc sẽ có khả năng stress cao gấp 1,92 
lần (KTC 95%: 1,38 – 2,69) so với nhóm bệnh 
nhân có tuân thủ điều trị thuốc và ở những bệnh 
nhân ĐTĐ không tuân thủ dinh dưỡng sẽ có khả 
năng stress cao gấp 1,85 lần (KTC 95%: 1,31 – 
2,60) so với nhóm bệnh nhân có tuân thủ dinh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 26
dưỡng. Những bệnh ĐTĐ không đạt mục tiêu 
kiểm soát đường huyết (HbA1c ≥7%) có tỷ lệ 
stress sẽ cao hơn gấp 2,75 lần (KTC 95%: 1,76 – 
4,30) so với những bệnh nhân đạt mục tiêu 
(HbA1c <7%) (Bảng 4). 
Bảng 4: Các yếu tố liên quan đến stress trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 (n=274) 
Đặc điểm 
Stress đái tháo đường 
p 
PR 
(KTC 95%) Có (n= 88) (%) Không (n=186) (%) 
Thời gian mắc bệnh 
<5 năm 
5 -10 năm 
≥10 năm 
44 (43,6) 
18 (32,1) 
26 (22,2) 
57 (56,4) 
38 (67,9) 
91 (77,8) 
0,003 
1 
0,72 (0,59 - 0,87) 
0,51(0,34 – 0,76) 
Phương pháp điều trị 
Chỉ dùng thuốc viên 
Tiêm insulin/ thuốc viên 
46 (27,5) 
42 (39,3) 
121 (72,5) 
65 (60,7) 
0,043 
1 
1,43 (1,01 – 2,00) 
Tuân thủ điều trị thuốc 
Có 
Không 
58 (26,9) 
30 (51,7) 
158 (73,1) 
28 (48,3) 
<0,001 
1 
1,92 (1,38 – 2,69) 
Tuân thủ dinh dưỡng 
Có 
Không 
41 (24,3) 
47 (44,8) 
128 (75,7) 
58 (55,2) 
<0,001 
1 
1,85 (1,31 – 2,60) 
Kiểm soát đường huyết 
Đạt mục tiêu HbA1c <7% 
Không đạt mục tiêu HbA1c ≥7% 
19 (16,1) 
69 (44,2) 
99 (83,9) 
87 (55,8) 
<0,001 
1 
2,75 (1,76 – 4,30) 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu ghi nhận bệnh nhân ĐTĐ có 
tuổi từ 60 trở lên chiếm tỷ lệ cao. Kết quả này 
tương tự nghiên cứu của tác giả Ong Phúc Thịnh 
tại bệnh viện Trưng Vương năm 2018, Huỳnh 
Thị Hương năm 2019 và Phạm Đình Cường 2017 
tại bệnh viện Quận 2(8,9,10). Giới tính chênh lệch 
khá nhiều với tỷ lệ nữ cao gấp 4 lần nam và 
phần lớn nghề nghiệp nội trợ (>50%), do tỷ lệ nữ 
chiếm đa số là phù hợp. Thời gian mắc bệnh từ 
10 năm trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất. Điều này có 
thể giải thích do bệnh ĐTĐ là bệnh mạn tính 
phát triển chậm, có nguy cơ cao mắc bệnh từ 
năm 45 tuổi và cùng với nền y tế ngày càng phát 
triển, người dân quan tâm đến sức khỏe nên tầm 
soát phát hiện bệnh và được điều trị sớm(5). Về 
phương pháp điều trị, đa số đối tượng tham gia 
nghiên cứu chỉ sử dụng thuốc viên chiếm 61,0%. 
Điều này là phù hợp vì theo Bộ Y tế điều trị chủ 
yếu là thuốc viên kết hợp điều chỉnh lối sống, chỉ 
sử dụng thêm insulin đối với các bệnh nhân kém 
đáp ứng thuốc nhằm kiểm soát đường huyết tốt 
hơn và tránh biến chứng cũng như tử vong do 
ĐTĐ gây ra. Bên cạnh đó bác sĩ tư vấn cũng giải 
thích rất kỹ về lý do sử dụng, cách dùng thuốc 
tiêm insulin theo dõi sát tác dụng phụ của thuốc 
nhằm giúp bệnh nhân yên tâm sử dụng. Điều 
này lý giải cho kết quả mức độ stress ở lĩnh vực 
điều trị rất thấp(5). 
Kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh nhân có 
tỷ lệ biến chứng thấp chiếm 15,0%, trong đó 
biến chứng nhiều nhất là bệnh về võng mạc 
chiếm 51,2%, kế đến là bệnh mạch máu ngoại 
biên chiếm 31,7%. Điều này phù hợp với kết 
quả đa số đối tượng dùng thuốc viên và phần 
lớn đáp ứng thuốc tốt, tình trạng bệnh ổn 
định. Tỷ lệ biến chứng trong nghiên cứu của 
chúng tôi thấp hơn nghiên cứu tại bệnh viện 
Trưng Vương năm 2018 (22,7%)(8) vì phần lớn 
bệnh nhân trong nghiên cứu chúng tôi tuân 
thủ tốt về điều trị thuốc (78,8%) và tuân thủ tái 
khám (94,5%). Kết quả này tương đồng với 
nghiên cứu tại bệnh viện Thống Nhất (2017) 
với tỷ lệ tuân thủ thuốc (86,08%), tuân thủ tái 
khám (90,11%) và bệnh viện Thủ Đức (2018) 
với tuân thủ thuốc (77,7%), nhưng cao hơn 
nghiên cứu tại bệnh viện Quận 2 (2018)(11,12,13). 
Tỷ lệ stress ở bệnh nhân ĐTĐ mức độ từ 
trung bình trở lên là 32,1%, trong đó lĩnh vực 
stress do gánh nặng cảm xúc chiếm tỷ lệ cao 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 27
nhất là 63,5% và stress do điều trị chiếm 40,5%. 
Kết quả này cao hơn so với các nghiên cứu trước 
đây cũng đánh giá stress trên bệnh nhân đái 
tháo đường và sử dụng thang đo DDS là nghiên 
cứu của tác giả Huỳnh Thị Hương đánh giá trên 
bệnh nhân tại Bệnh viện Quận 2 năm 2019 ghi 
nhận chỉ 28% trong khi đó tác giả Ong Phúc 
Thịnh thực hiện tại bệnh viện Trưng Vương thì 
cho kết quả 36,3%. Kết quả nghiên cứu có thể do 
nghiên cứu của chúng tôi và tác giả Huỳnh Thị 
Hương được thực hiện ở bệnh viện tuyến cơ sở 
với tình trạng bệnh đa số là ổn định, cả hai 
nghiên cứu đều thấp hơn tác giả Ong Phúc 
Thịnh thực hiện tại bệnh viện tuyến đầu có tình 
trạng sức khỏe bệnh nhân phức tạp hơn. Nghiên 
cứu này cũng có kết quả tương đồng với tác giả 
Zhu Y tại Trung Quốc (2015) có tỷ lệ stress 33,8% 
có thể do tiêu chí chọn vào gần giống nghiên cứu 
của chúng tôi là người trên 18 tuổi mắc ĐTĐ 
type 2 trên 3 tháng, chọn điểm cắt cho thang đo 
là 2,0(14). 
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 
thời gian mắc bệnh, phương pháp điều trị và 
stress. Kết quả này tương tự nghiên cứu của tác 
giả Ong Phúc Thịnh(8), Kasteleyn MJ năm 
2015(15). Tỷ lệ bệnh nhân stress ở nhóm tiêm 
insulin hoặc có kèm thuốc viên bằng 1,43 lần 
nhóm chỉ dùng thuốc viên. Điều này có thể giải 
thích do sử dụng thuốc tiêm đau hơn, điều trị 
kết hợp sẽ phức tạp hơn và nhiều tác dụng phụ 
dẫn đến bệnh nhân stress nhiều hơn. Hơn nữa, 
một nghiên cứu về tâm lý kháng insulin ở bệnh 
nhân ĐTĐ type 2 cho thấy phần lớn đối tượng 
có phản ứng tiêu cực với tiêm insulin, chưa sẵn 
sàng khi được kê toa thuốc có insulin, sợ đau khi 
tiêm và sự thất bại trong điều trị của cá nhân họ, 
lo lắng về bệnh ĐTĐ tiến triển nặng(7). 
Kết quả nghiên cứu cho thấy mối liên quan 
có ý nghĩa thống kê giữa stress và tuân thủ điều 
trị thuốc, tuân thủ dinh dưỡng và kiểm soát 
đường huyết. Theo nghiên cứu tác giả Fisher L 
những cải thiện đáng kể của việc tự quản lý 
bệnh ở người trưởng thành như ăn uống lành 
mạnh, hoạt động thể chất và tuân thủ thuốc sẽ 
làm giảm stress do ĐTĐ(16). Nghiên cứu của tác 
giả Wardian J cho thấy stress có liên quan với 
tuân thủ dinh dưỡng tương tự với nghiên cứu 
của chúng tôi, bên cạnh đó còn có mối liên quan 
với tuân thủ tập thể dục, cụ thể điểm số DDS 
thấp hơn ở những người có chế độ ăn uống lành 
mạnh và tuân thủ tập thể dục(17). 
Tỷ lệ stress ở nhóm bệnh nhân chưa kiểm 
soát đường huyết tốt cao hơn 2,75 lần nhóm 
bệnh nhân có kiểm soát đường huyết đạt mục 
tiêu. Kết quả này phù hợp với hầu hết các 
nghiên cứu trong nước và nước ngoài(7,8,14). Điều 
này có thể giải thích do HbA1c là một chỉ số 
quan trọng, phản ánh tình trạng kiểm soát 
đường huyết của bệnh nhân liên tục trong 3 
tháng, từ kết quả đó bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ 
điều trị tiếp theo cho bệnh nhân. Sau khi biết 
được kết quả kiểm soát đường huyết không đạt, 
người bệnh cảm thấy lo lắng ảnh hưởng đến tâm 
lý người bệnh dẫn đến gánh nặng cảm xúc của 
bệnh nhân chiếm tỷ lệ cao nhất và kế đến là lĩnh 
vực liên quan đến điều trị. 
KẾT LUẬN 
Stress ở bệnh nhân đái tháo đường vẫn là 
vấn đề cần được quan tâm trong quá trình điều 
trị bệnh. Chương trình giáo dục bệnh nhân cần 
tập trung vào việc tăng cường kiểm soát đường 
huyết và tuân thủ điều trị. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. WHO (2016). Global report on diabetes. URL 
https://www.who.int/publications/i/item/9789241565257. 
2. Bộ Y tế (2018). Tình hình đái tháo đường 2018. URL: 
3. Ta MT, Nguyen KT, Nguyen ND, Campbell LV, Nguyen TV 
(2010). Identification of undiagnosed type 2 diabetes by systolic 
blood pressure and waist-to-hip ratio. Diabetologia, 53(10):2139-
2146. 
4. Ho-Pham LT, Do TT, Campbell LV, Nguyen TV (2016). 
HbA1c-based classification reveals epidemic of diabetes and 
prediabetes in Vietnam. Diabetes Care, 39(7):e93-e4. 
5. Bộ Y tế (2017). Hướng Dẫn Chẩn Đoán Và Điều Trị Đái Tháo 
Đường type 2. URL: daithaoduong.kcb.vn/huong-dan-chan-
doan-va-dieu-tri/. 
6. Aljuaid MO, Almutairi AM, Assiri MA, Almalki DM, Alswat 
K (2018). Diabetes-Related Distress Assessment among Type 2 
Diabetes Patients. Journal of Diabetes Research, 2018:7328128. 
7. Robinson DJ, Luthra M, Vallis M (2013). Diabetes and mental 
health. Can J Diabetes, 37(1):S87-S92. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 28
8. Ong Phúc Thịnh (2017). Tính tin cậy và giá trị của thang đo 
stress tiêu cực do đái tháo đường DDS. Khóa luận Tốt nghiệp Bác 
sỹ Y học Dự phòng, Đại học Y Dược TP. HCM. 
9. Huỳnh Thị Hương (2019). Stress và các yếu tố liên quan trên 
bệnh nhân đái tháo đường type 2 đang điều trị ngoại trú tại 
Bệnh viện Quận 2 thành phố Hồ Chí Minh. Khóa luận Tốt 
nghiệp Bác sỹ Y học Dự phòng, Đại học Y Dược TP. HCM. 
10. Phạm Đình Cường (2017). Chất lượng cuộc sống của bệnh 
nhân đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện 
quận 2 năm 2017. Khóa luận Tốt nghiệp Bác sỹ Y học Dự phòng, 
Đại học Y Dược TP. HCM. 
11. Phan Thị Diệu Ly (2017). Tỉ lệ tuân thủ điều trị và một số yếu 
tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị ngoại 
trú tại bệnh viện Thống Nhất năm 2017. Khóa luận Tốt nghiệp 
Cử nhân Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. HCM. 
12. Nguyễn Thanh Tâm, Trương Thị Thùy Dung, Trần Thiện 
Thuần (2018). Tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường type 2 đạt mục 
tiêu kiểm soát tốt đường huyết và các yếu tố liên quan tại bệnh 
viện quận Thủ Đức. Y Học Thành phố Hồ Chí Minh, 22(1):265-
271. 
13. Lê Ngọc Quỳnh, Phạm Phương Thảo, Lê Huỳnh Thị Cẩm 
Hồng (2019). Trầm cảm và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân 
đái tháo đường Típ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện quận 2 
thành phố Hồ Chí Minh năm 2018. Y Học Thành phố Hồ Chí 
Minh, 23(2):1-8. 
14. Zhu Y, Fish AF, Li F, Liu L, Lou Q (2016). Psychosocial factors 
not metabolic control impact the quality of life among patients 
with type 2 diabetes in China. Acta Diabetologica, 53(4):535-541. 
15. Kasteleyn MJ, Vane L, Puffelen AL, Schellevis FG, Rijken M, et 
al (2015). Diabetes-related distress over the course of illness: 
results from the Diacourse study. Diabetic medicine, 32(12):1617-
1624. 
16. Fisher L, Hessler D, Glasgow RE, Arean PA, Masharani U, et al 
(2013). REDEEM: a pragmatic trial to reduce diabetes distress. 
Diabetes Care, 36(9):2551-2558. 
17. Wardian J, Sun F (2014). Factors associated with diabetes-
related distress: implications for diabetes self-management. Soc 
Work Health Care, 53(4):364-381. 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfstress_va_cac_yeu_to_lien_quan_tren_benh_nhan_dai_thao_duong.pdf