Stress và các yếu tố liên quan ở những cặp vợ chồng vô sinh tại Bệnh viện Hùng Vương, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020

Đặt vấn đề: Stress là một rối loạn tâm lý ngày càng phổ biến, được ví như hội chứng của xã hội hiện đại.

Các cặp vợ chồng vô sinh phải đối mặt với nhiều yếu tố có thể dẫn tới stress như áp lực phải có con, chi phí điều

trị, các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội.

Mục tiêu: Xác định trung bình điểm số stress ở cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh tại Bệnh viện Hùng

Vương, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020 bằng thang đo Fertility Problem Inventory (FPI) và các yếu tố liên

quan.

Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 180 cặp vợ chồng vô sinh (180 nam và

180 nữ) đang điều trị tại Khoa hiếm muộn, Bệnh viện Hùng Vương. Điểm số stress được đo lường bằng thang

đo FPI đã được dịch sang tiếng Việt và đo lường tính tin cậy nội bộ bằng hệ số Cronbach’s alpha.

Kết quả: Thang đo FPI tiếng Việt có tính tin cậy nội bộ cao, phù hợp đo lường stress ở bệnh nhân vô sinh tại

Việt Nam. Trung bình điểm số stress toàn thang đo cho cả nam và nữ là 145,6 ± 19,5 điểm và nữ cao hơn nam.

Trình độ học vấn thấp, nghề nghiệp là nông dân, thời gian mong muốn có con kéo dài và chưa từng có tiền sử

thất bại điều trị làm gia tăng stress ở cả nam và nữ.

Kết luận: Stress là một vấn đề phổ biến ở những cặp vợ chồng vô sinh và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu

quả của quá trình điều trị nếu không được phát hiện và can thiệp sớm. Đơn vị khám hiếm muộn tại bệnh viện có

thể áp dụng thang đo FPI được dịch sang Tiếng Việt để sàng lọc hoặc khảo sát định kỳ tình trạng stress ở bệnh

nhân vô sinh.

pdf 7 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Stress và các yếu tố liên quan ở những cặp vợ chồng vô sinh tại Bệnh viện Hùng Vương, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Stress và các yếu tố liên quan ở những cặp vợ chồng vô sinh tại Bệnh viện Hùng Vương, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020

Stress và các yếu tố liên quan ở những cặp vợ chồng vô sinh tại Bệnh viện Hùng Vương, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020
STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NHỮNG CẶP VỢ CHỒNG VÔ SINH 
TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020 
Lê Thị Mỹ Hạnh1, Nguyễn Thị Thanh Trúc2 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Stress là một rối loạn tâm lý ngày càng phổ biến, được ví như hội chứng của xã hội hiện đại. 
Các cặp vợ chồng vô sinh phải đối mặt với nhiều yếu tố có thể dẫn tới stress như áp lực phải có con, chi phí điều 
trị, các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội. 
Mục tiêu: Xác định trung bình điểm số stress ở cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh tại Bệnh viện Hùng 
Vương, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020 bằng thang đo Fertility Problem Inventory (FPI) và các yếu tố liên 
quan. 
Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 180 cặp vợ chồng vô sinh (180 nam và 
180 nữ) đang điều trị tại Khoa hiếm muộn, Bệnh viện Hùng Vương. Điểm số stress được đo lường bằng thang 
đo FPI đã được dịch sang tiếng Việt và đo lường tính tin cậy nội bộ bằng hệ số Cronbach’s alpha. 
Kết quả: Thang đo FPI tiếng Việt có tính tin cậy nội bộ cao, phù hợp đo lường stress ở bệnh nhân vô sinh tại 
Việt Nam. Trung bình điểm số stress toàn thang đo cho cả nam và nữ là 145,6 ± 19,5 điểm và nữ cao hơn nam. 
Trình độ học vấn thấp, nghề nghiệp là nông dân, thời gian mong muốn có con kéo dài và chưa từng có tiền sử 
thất bại điều trị làm gia tăng stress ở cả nam và nữ. 
Kết luận: Stress là một vấn đề phổ biến ở những cặp vợ chồng vô sinh và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu 
quả của quá trình điều trị nếu không được phát hiện và can thiệp sớm. Đơn vị khám hiếm muộn tại bệnh viện có 
thể áp dụng thang đo FPI được dịch sang Tiếng Việt để sàng lọc hoặc khảo sát định kỳ tình trạng stress ở bệnh 
nhân vô sinh. 
Từ khóa: stress, vợ chồng vô sinh, thang đo vấn đề sinh sản 
ABSTRACT 
STRESS AND ASSOCIATED FACTORS AMONG INFERTILE COUPLES AT HUNG VUONG 
HOSPITAL, HO CHI MINH CITY, 2020 
Le Thi My Hanh, Nguyen Thi Thanh Truc 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 08 - 14 
Background: Stress is a common psychological disorder and a syndrome of the modern society. Infertile 
couples face with many factors that can lead to stress such as the pressure of having a baby, the cost of treatments, 
and the relationships in the family and the society. 
Objective: To determine the mean score of stress of infertile couples being treated at Hung Vuong Hospital, 
Ho Chi Minh City, 2020 using Fertility Problem Inventory (FPI) scale and associated factors. 
Methods: A cross-sectional study was conducted including 180 infertile couples (180 males and 180 
females) being treated at the Infertility Department, Hung Vuong Hospital. Stress score was measured by 
adopting FPI scale which was translated into Vietnamese and tested for the internal reliability by showing 
Cronbach's alpha coefficients. 
Results: The Vietnamese version of FPI scale has high internal confidence in measuring stress of infertile 
patients in Vietnam. The full-scale mean score of stress for both men and women was 145.6 ± 19.5 points and the 
mean score of women was higher than men. The low education level, the being farmers, the long waiting time of 
having no child, and none of treatment failure have increased stress score of both women and men. 
Conclusion: Stress is a popular problem among infertile couples and affects directly to the treatment 
effectiveness in case of not being identified and controlled early. The hospital infertility examination unit can 
apply the Vietnamese version of FPI scale for screening or routinely testing the stress status of the patients. 
Keywords: stress, infertile couples, fertility problem inventory 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo trung tâm hỗ trợ sinh sản của trường 
đại học Harvard, mỗi năm tại Hoa Kỳ có khoảng 
1,3 triệu bệnh nhân phải nhận tư vấn hoặc điều 
trị vô sinh hiếm muộn có các vấn đề về tâm lý(1). 
Vô sinh hiếm muộn gây ra nhiều trải nghiệm 
tiêu cực như lo âu, mặc cảm, đau khổ, tuyệt 
vọng. Những tình trạng căng thẳng, chán nản 
xuất hiện thường xuyên có thể dẫn tới nguy cơ 
bệnh trầm cảm. Ngoài ra, theo một số nghiên 
cứu, stress cũng ảnh hưởng tới khả năng thụ 
thai, kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản(2,2,4). Năm 
2018, nghiên cứu cắt ngang tại một quốc gia ở 
Châu Phi, đã phát hiện 50% phụ nữ và 40% nam 
giới vô sinh có vấn đề về stress. Một nghiên cứu 
khác tại Iran vào năm 2015 cũng thấy rằng hơn 
90% bệnh nhân vô sinh có mức độ stress từ cao 
trở lên(5). Tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu 
về stress trên các đối tượng khác nhau, tuy nhiên 
chúng tôi chưa tìm thấy nghiên cứu nào về stress 
trên bệnh nhân vô sinh được công bố. Thang đo 
Fertility Problem Inventory (FPI) được đưa ra 
lần đầu vào năm 1999 bởi Christopher R. 
Newton để đo lường stress với những câu hỏi cụ 
thể cho những cặp vợ chồng vô sinh, tuy nhiên 
chưa được dịch sang tiếng Việt và áp dụng tại 
Việt Nam(6). Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu “Stress và các yếu tố liên quan ở những cặp 
vợ chồng vô sinh tại bệnh viện Hùng Vương, TP. 
Hồ Chí Minh, năm 2020”, sử dụng thang đo FPI. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu gồm 180 cặp vợ chồng 
vô sinh (180 nam và 180 nữ) đang điều trị tại 
khoa Hiếm muộn, bệnh viện Hùng Vương từ 
tháng 4-6/2020. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang. 
Phương pháp chọn mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện các cặp vợ chồng đang 
điều trị vô sinh tại Khoa hiếm muộn, Bệnh viện 
Hùng Vương, TP. Hồ Chí Minh theo đúng tiêu 
chí chọn mẫu cho đến khi đủ cỡ mẫu từ tháng 4 
đến tháng 6 năm 2020. Nghiên cứu thực hiện thu 
thập số liệu rải đều cho tất cả các ngày trong 
tuần từ thứ 2 đến thứ 6, theo lịch làm việc của 
bệnh viện. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Sau khi được cung cấp thông tin về nghiên 
cứu, các cặp vợ chồng đồng ý ký tên vào biên 
bản đồng ý tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu 
viên tiến hành phỏng vấn mặt đối mặt riêng vợ 
và chồng bằng bộ câu hỏi soạn sẵn có cấu trúc 
trong khoảng 30 phút. Bộ câu hỏi sau khi phỏng 
vấn được kiểm tra tính đầy đủ thông tin, mã hóa 
theo số và hoàn toàn bảo mật thông tin. 
Công cụ thu thập số liệu 
Bộ câu hỏi bao gồm các đặc điểm về dân số - 
xã hội như giới, tuổi, tôn giáo, trình độ học vấn, 
nghề nghiệp, khả năng chi trả cho điều trị, thời 
gian kết hôn, người sống chung, và sự quan tâm 
của người thân. Đặc điểm về tình trạng vô sinh 
bao gồm phân loại vô sinh, thời gian mong 
muốn có con, nguyên nhân vô sinh, thời gian 
điều trị bệnh, kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, số lần điều 
trị thất bại, và tiền sử nạo phá thai. Stress được 
đánh giá bởi thang đo FPI bao gồm 46 câu, trong 
đó có 18 câu tính điểm ngược, đánh giá trên 5 
khía cạnh: các mối quan hệ xã hội (10 câu), quan 
hệ tình dục (8 câu), mối quan hệ vợ chồng (10 
câu), việc từ bỏ cuộc sống không có con (8 câu), 
sự cần thiết của việc được làm cha mẹ (10 câu). 
Mỗi câu được đánh giá tương ứng với thang 
điểm Likert 6 từ 1 – 6 gồm 6 - hoàn toàn không 
đồng ý, 5 - không đồng ý, 4 không đồng ý một 
phần, 3 - đồng ý một phần, 2 - đồng ý, 1 - hoàn 
toàn đồng ý. 
Thang đo FPI đã được chúng tôi dịch sang 
tiếng Việt và tiến hành nghiên cứu thử trên 30 
cặp vợ chồng vô sinh (30 nam và 30 nữ) đang 
điều trị vô sinh tại bệnh viện Hùng Vương tháng 
4 năm 2020. Kết quả thấy rằng thang đo FPI 
tiếng Việt có tính tin cậy nội bộ cao với hệ số 
Cronbach’s alpha toàn thang là 0,88 đối với nam, 
0,89 đối với nữ và 0,88 cho cả nam và nữ. Với 
tiêu chí Cronbach’s alpha ≥0,6 thì tất cả 5 khía 
cạnh trong thang đo FPI đều đạt yêu cầu ở cả 
nam và nữ. Như vậy, thang đo FPI phiên bản 
tiếng Việt có thể sử dụng để đo lường stress ở 
nam và nữ vô sinh ở nghiên cứu này. Tổng số 
điểm của thang đo dao động từ 46 đến 276 điểm, 
điểm số stress càng cao thì stress càng nặng(5). 
Phân tích dữ kiện 
Tần số và tỉ lệ phần trăm được dùng để mô 
tả cho biến số định tính. Trung bình và độ lệch 
chuẩn được dùng để mô tả cho biến số định 
lượng. Sử dụng phép kiểm T không bắt cặp với 
ngưỡng bác bỏ khi p <0,05 để so sánh trung bình 
điểm số stress với các biến số độc lập là biến số 
nhị giá. Nếu biến số phụ thuộc có phân phối 
không bình thường thì dùng phép kiểm Mann – 
Whitney bao gồm biến số phân loại vô sinh, thất 
bại điều trị và tiền sử nạo phá thai. Sử dụng 
phép kiểm ANOVA với ngưỡng bác bỏ khi 
p <0,05 để so sánh trung bình điểm số stress với 
các biến số độc lập là biến số danh định. Nếu 
biến số phụ thuộc có phân phối không bình 
thường dùng kiểm định Kruskal Wallis bao gồm 
biến số nghề nghiệp, thời gian mong muốn có 
con, nguyên nhân vô sinh và thời gian điều trị. 
Y đức 
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng 
Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh số: 35/ HĐĐĐ ngày 
06/01/2020. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc tính dân số - xã hội của các cặp vợ chồng 
vô sinh 
Đặc điểm 
Nam (n = 180) Nữ (n = 180) 
Tần số (%) Tần số (%) 
Nhóm tuổi 
21 – 25 7 (3,9) 16 (8,9) 
26 – 30 52 (28,9) 85 (47,2) 
31 – 35 67 (37,2) 57 (31,7) 
≥ 36 54 (30,0) 22 (12,2) 
Trình độ học vấn 
Dưới cấp I 5 (2,8) 1 (0,6) 
Cấp I 14 (7,8) 8 (4,5) 
Cấp II 31 (17,2) 31 (17,2) 
Cấp III 46 (25,5) 44 (24,4) 
Từ trung cấp trở lên 84 (46,7) 96 (53,3) 
Nghề nghiệp 
Nhân viên văn phòng/công 
chức 
58 (32,2) 75 (41,7) 
Công nhân 54 (30,0) 41 (22,8) 
Kinh doanh/buôn bán 38 (21,1) 35 (19,4) 
Nông dân 13 (7,3) 8 (4,4) 
Tự do 15 (8,3) 3 (1,7) 
Nội trợ 2 (1,1) 16 (8,9) 
Thất nghiệp 0 (0) 2 (1,1) 
Thời gian kết hôn* 
1 – 5 năm 121 (67,2) 
6 – 10 năm 43 (23,9) 
≥ 11 năm 16 (8,9) 
Khả năng chi trả* 
Hoàn toàn không đủ 1 (0,6) 
Không đủ 10 (5,5) 
Đủ 160 (88,9) 
Hoàn toàn đủ 9 (5,0) 
Người sống chung* 
Sống riêng hai vợ chồng 109 (60,5) 
Sống chung gia đình chồng 64 (35,6) 
Sống chung gia đình vợ 7 (3,9) 
*: Biến số chung cho cả vợ và chồng 
Nghiên cứu thấy rằng tuổi trung bình của 
nam giới là 33,0 ± 4,7 tuổi, nữ giới có độ tuổi 
trung bình trẻ hơn với 30,4 ± 4,3 tuổi. Đa số nam 
giới nằm trong nhóm tuổi 30 – 35 với 37,2% và 
nữ giới trong nhóm tuổi 26 – 30 (47,2%). Về trình 
độ học vấn, đa phần nam và nữ có trình độ học 
vấn từ trung cấp trở lên (46,7% ở nam và 53,3% ở 
nữ). Tương đồng với trình độ học vấn, nghề 
nghiệp chủ yếu của các cặp vợ chồng là nhân 
viên văn phòng/công chức (32,2% ở nam và 
41,7% ở nữ) (Bảng 1). 
Phần lớn các cặp vợ chồng tự đánh giá mình 
đủ khả năng chi trả cho quá trình điều trị với tỉ 
lệ 88,9%, chỉ một số ít nghĩ rằng mình không đủ 
khả năng chi trả (5,6%). Về thời gian kết hôn, đa 
phần các cặp vợ chồng kết hôn từ 1 – 5 năm 
(67,2%) và chỉ có 8,9% cặp vợ chồng kết hôn từ 
11 năm trở lên. Phần đông các cặp sống riêng hai 
vợ chồng chiếm 60,5% và sống chung gia đình 
chồng chiếm 35,6%, chỉ có một số ít sống chung 
gia đình vợ (3,9%) (Bảng 1). 
Hầu hết các cặp vợ chồng đều thuộc nhóm 
vô sinh nguyên phát với 91,7%, chỉ một số ít 
thuộc nhóm vô sinh thứ phát (8,3%). Các cặp vợ 
chồng có nguyên nhân vô sinh từ người vợ 
chiếm tỉ lệ cao nhất với 29,4% và nguyên nhân từ 
người chồng chiếm tỉ lệ thấp nhất (20,0%). Phần 
lớn các cặp vợ chồng chưa có tiền sử điều trị thất 
bại với tỉ lệ 62,8%. Trong 37,2% cặp vợ chồng 
từng thất bại điều trị, có hơn 60% cặp từng thất 
bại điều trị 1 lần. Hầu hết người vợ không có 
tiền sử nạo phá thai (93,3%). Đa số các cặp vợ 
chồng mong có con từ 1 – 3 năm (65,0%), số cặp 
vợ chồng mong muốn có con từ 4 – 6 năm chiếm 
tỉ lệ thấp nhất với 16,1%, phù hợp với độ tuổi trẻ 
và thời gian kết hôn chủ yếu dưới 5 năm. Phần 
lớn các cặp vợ chồng có thời gian điều trị từ 6 
tháng trở xuống với tỉ lệ 51,7%, chỉ có một số ít 
có thời gian điều trị từ 24 tháng trở lên (6,1%) 
(Bảng 2). 
Bảng 2: Tình trạng vô sinh của các cặp vợ chồng 
Đặc điểm 
Nam 
(n=180) 
Nữ 
(n = 180) 
Tần số (%) 
Phân loại vô sinh* 
Vô sinh nguyên phát 165 (91,7) 
Vô sinh thứ phát 15 (8,3) 
Thời gian mong muốn có con* 
1 – 3 năm 117 (65,0) 
4 – 6 năm 29 (16,1) 
≥ 7năm 34 (18,9) 
Nguyên nhân vô sinh* 
Nguyên nhân từ người vợ 53 (29,4) 
Không rõ nguyên nhân 48 (26,7) 
Nguyên nhân từ cả hai vợ chồng 43 (23,9) 
Nguyên nhân từ người chồng 36 (20,0) 
Thời gian điều trị* 
≤ 6 tháng 93 (51,7) 
> 6 tháng – 12 tháng 43 (23,9) 
>12 tháng – 24 tháng 33 (18,3) 
> 24 tháng 11 (6,1) 
Tiền sử nạo phá thai 
Chưa từng 168 (93,3) 
Có 12 (6,7) 
*: Biến số chung cho cả vợ và chồng 
Bảng 3: Trung bình điểm số stress ở từng khía cạnh và toàn thang đo của các cặp vợ và chồng vô sinh 
Khía cạnh 
Nam và nữ (n=360) 
Trung bình ± 
độ lệch chuẩn 
Nam (n=180) 
Trung bình ± độ 
lệch chuẩn 
Nữ (n=180) 
Trung bình ± 
độ lệch chuẩn 
Giá trị p 
Các mối quan hệ xã hội 26,6 ± 5,8 25,9 ± 5,6 27,3 ± 6,0 0,040
a
Quan hệ tình dục 21,2 ± 5,0 21,0 ± 4,7 21,4 ± 5,2 0,597a 
Mối quan hệ vợ chồng 24,8 ± 5,5 25,1 ± 5,9 24,6 ± 5,0 0,243a 
Việc từ bỏ cuộc sống không có con cái 29,9 ± 5,3 29,7 ± 5,4 30,1 ± 5,2 0,442 
Sự cần thiết của việc được làm cha mẹ 43,0 ± 7,1 42,6 ± 7,1 43,5 ± 7,1 0,094a 
Toàn thang đo 145,6 ± 19,5 144,3 ± 18,9 146,9 ± 20,1 0,489a 
a: Kiểm định Mann Whitney 
Hầu hết, trung bình điểm số stress ở từng 
khía cạnh có sự chênh lệch nhẹ giữa nam và nữ, 
tuy nhiên chỉ có khía cạnh các mối quan hệ xã 
hội thì sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê 
(p <0,05). Trung bình điểm số stress ở khía cạnh 
sự cần thiết của việc được làm cha mẹ là cao 
nhất với 42,6 ± 7,1 điểm ở nam, 43,5 ± 7,1 điểm ở 
nữ và thấp nhất ở khía cạnh quan hệ tình dục 
với trung bình điểm số stress là 21,0 ± 4,7 điểm ở 
nam và 21,4 ± 5,2 điểm ở nữ. Tính cho toàn thang 
đo, trung bình điểm số stress chung của nữ cao 
hơn nam lần lượt là 146,9 ± 20,1 và 144,3 ± 18,9 
điểm nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa 
thống kê (p >0,05) (Bảng 3). 
Trung bình điểm số stress chung có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê giữa những nhóm trình 
độ học vấn khác nhau ở cả nam lẫn nữ (p <0,05). 
Cụ thể: nữ giới hoặc nam giới có học vấn càng 
cao thì trung bình điểm số stress chung càng 
thấp. Điểm số stress chung có mối liên quan có ý 
nghĩa thống kê với nghề nghiệp (p <0,05). Nghề 
nghiệp là nông dân có trung bình điểm số stress 
chung cao nhất (168,9 ± 25,0 ở nam, 155,0 ± 12,3 ở 
nữ) và nghề nghiệp là nhân viên văn 
phòng/công chức có trung bình điểm số stress 
chung thấp nhất (142,7 ± 20,1 ở nam và 138,3 ± 
21,9), điều này đúng với cả nam và nữ (Bảng 4). 
Bảng 4: Mối liên quan giữa điểm số stress chung và 
các đặc điểm dân số - xã hội của nam/nữ 
Nội dung 
Nam (n=180) Nữ (n=180) 
Trung bình ± 
độ lệch chuẩn 
Trung bình ± 
độ lệch chuẩn 
Nhóm tuổi 
21 – 25 146,8 ± 9,2 147,4 ± 27,0 
26 – 30 146,0 ± 18,8 142,9 ± 19,6 
31 – 35 148,3 ± 21,0 146,2 ± 20,0 
≥ 36 146,8 ± 24,0 142,7 ± 15,7 
Giá trị p p = 0,926 p = 0,676 
Tôn giáo 
Không tôn giáo 147,8 ± 20,5 144,3 ± 19,0 
Phật giáo 145,9 ± 18,4 148,1 ± 21,6 
Thiên chúa giáo 143,5 ± 20,8 139,8 ± 15,9 
Khác 155,0 ± 17,0 139,0 ± 0,0 
Giá trị p p = 0,683 p = 0,534 
Trình độ học vấn 
≤ Cấp II 155,8 ± 21,1 150,4 ± 18,6 
Cấp III 144,9 ± 18,8 146,7 ± 17,6 
Từ trung cấp trở lên 144,1 ± 19,3 139,2 ± 18,7 
Giá trị p p = 0,010 p = 0,002 
Nghề nghiệp 
Nhân viên văn phòng/Công 
chức 
142,7 ± 20,1 138,3 ± 21,9 
Công nhân 151,3 ± 20,6 148,3 ± 19,1 
Kinh doanh/ Buôn bán 144,9 ± 17,2 142,6 ± 12,4 
Nội trợ 147,6 ± 15,5 141,5 ± 20,5 
Nông dân 168,9 ± 25,0 155,0 ± 12,3 
Tự do 148,7 ± 10,6 148,0 ± 18,2 
Thất nghiệp 152,0 ± 28,3 0 
Nội dung 
Nam (n=180) Nữ (n=180) 
Trung bình ± 
độ lệch chuẩn 
Trung bình ± 
độ lệch chuẩn 
Giá trị p p = 0,037 p = 0,026
b
Sự quan tâm của người thân trong gia đình 
Không quan tâm và bình 
thường 
149,8 ± 22,6 147,8 ± 19,8 
Quan tâm 146,2 ± 20,3 141,9 ± 16,9 
Rất quan tâm 146,1 ± 18,5 144,5 ± 20,3 
Giá trị p p = 0,914 p = 0,266 
Khả năng chi trả 
Hoàn toàn không đủ và 
không đủ 
151,5 ± 23,5 146,7 ± 16,5 
Đủ 146,9 ± 19,7 144,6 ± 18,7 
Hoàn toàn đủ 141,4 ± 24,2 135,2 ± 25,2 
Giá trị p p = 0,537 p = 0,312 
Thời gian kết hôn 
1 – 5 năm 146,5 ± 19,8 142,7 ± 19,2 
6 – 10 năm 146,8 ± 20,5 147,5 ± 19,1 
≥ 11 năm 150,4 ± 22,4 147,6 ± 15,8 
Giá trị p p = 0,812 p = 0,274 
Người sống chung 
Sống riêng hai vợ chồng 145,7 ± 19,8 144,0 ± 18,7 
Sống chung gia đình chồng 148,9 ± 20,9 144,8 ± 20,0 
Sống chung gia đình vợ 146,6 ± 19,0 144,0 ± 13,5 
Giá trị p p = 0,633 p = 0,964 
b: Kiểm định Kruskal Wallis 
Bảng 5: Mối liên quan giữa điểm số stress chung và 
đặc điểm tình trạng vô sinh ở nam và nữ 
Nội dung 
Nam (n=180) Nữ (n=180) 
Trung bình ± 
độ lệch chuẩn 
Trung bình ± 
độ lệch chuẩn 
Phân loại vô sinh 
Vô sinh nguyên phát 144,7 ± 18,9 147,4 ± 20,5 
Vô sinh thứ phát 139,5 ± 19,1 141,1 ± 13,8 
Giá trị p p = 0,315 p = 0,205
a
Thời gian mong muốn có con 
1 – 3 năm 141,6 ± 19,1 144,0 ± 17,8 
4 – 6 năm 148,2 ± 20,5 150,6 ± 24,5 
≥ 7 năm 150,0 ± 15,1 153,8 ± 21,8 
Giá trị p p = 0,036 p = 0,044
b
Nguyên nhân vô sinh 
Nguyên nhân từ người vợ 142,2 ± 20,6 143,1 ± 17,0 
Không rõ nguyên nhân 139,3 ± 19,8 145,1 ± 19,4 
Nguyên nhân từ cả hai vợ 
chồng 
148,0 ± 17,1 152,3 ± 23,0 
Nguyên nhân từ người 
chồng 
149,4 ± 15,3 148,3 ± 20,7 
Giá trị p p = 0,039 p = 0,284
b
Thời gian điều trị 
≤ 6 tháng 144,0 ± 18,4 146,3 ± 19,1 
> 6 tháng – 12 tháng 143,5 ± 18,8 145,0 ±22,5 
Nội dung 
Nam (n=180) Nữ (n=180) 
Trung bình ± 
độ lệch chuẩn 
Trung bình ± 
độ lệch chuẩn 
>12 tháng – 24 tháng 146,1 ± 19,4 152,4 ± 19,5 
>24 tháng 143,5 ± 24,5 142,6 ± 19,4 
Giá trị p p = 0,936 p = 0,214
b
Thất bại điều trị 
Chưa từng 145,9 ± 18,6 149,6 ± 20,6 
Có 141,4 ± 19,2 142,4 ± 18,4 
Giá trị p p = 0,123 p = 0,023
a
Tiền sử nạo phá thai 
Chưa từng 146,7 ± 20,0 
Có 150,0 ± 22,4 
Giá trị p p = 0,726
a
a: Kiểm định Mann Whitney b: Kiểm định Kruskal Wallis 
Thời gian mong muốn có con càng dài thì 
trung bình điểm số stress càng tăng, điều này thể 
hiện ở cả giới nam và nữ (p <0,05). Nguyên nhân 
vô sinh cũng có mối liên quan có ý nghĩa thống 
kê với điểm số stress chung ở nam (p <0,05) 
nhưng không có ở nữ. Nam giới có nguyên nhân 
vô sinh từ chính mình có trung bình điểm stress 
chung là 149,4 ± 15,3 điểm cao nhất. Trung bình 
điểm số stress chung có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa nữ chưa từng điều trị thất bại và 
nữ đã từng điều trị thất bại (p <0,05). Nữ giới 
chưa từng điều trị thất bại có trung bình điểm số 
stress chung cao hơn so với nữ đã từng điều trị 
thất bại (149,6 ± 20,6 điểm so với 142,4 ± 18,4 
điểm). Điều này không thấy ở nam giới (Bảng 5). 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu cho thấy trung bình điểm số 
stress chung của cả vợ và chồng là 145,6 ± 19,5 
điểm, trung bình điểm số stress của người vợ 
cao hơn so với người chồng nhưng sự khác biệt 
này không có ý nghĩa thống kê. Trung bình điểm 
số stress thấp hơn so với các nghiên cứu ở Trung 
Quốc, Iran, Ấn Độ, và Hàn Quốc(5,7,8). Có thể lí 
giải rằng vì phần lớn các cặp vợ chồng tham gia 
vào nghiên cứu có độ tuổi trẻ, trình độ học vấn 
từ cấp 3 trở lên, có công việc ổn định và thu 
nhập đủ khả năng chi trả cho điều trị. Khía cạnh 
sự cần thiết của việc được làm cha mẹ có trung 
bình điểm số stress cao nhất ở cả vợ và chồng, 
tương đồng với nghiên cứu tại Hàn Quốc (2013), 
Ấn Độ (2014) và Iran (2015)(5,8,9). Ngược lại, khía 
cạnh quan hệ tình dục có trung bình điểm số 
stress thấp nhất ở cả vợ và chồng tương đồng 
với hai nghiên cứu tại Hàn Quốc (2013) và Ấn 
Độ (2014)(8,9). 
Trình độ học vấn có ảnh hưởng đến điểm số 
điểm số stress chung ở nam và nữ. Trình độ học 
vấn càng cao thì trung bình điểm số stress chung 
càng giảm tương đồng với kết quả của hai 
nghiên cứu tại Trung Quốc (2011)(7) và Iran 
(2014)(5). Nghề nghiệp cũng ảnh hưởng đến 
điểm số stress chung ở cả vợ lẫn chồng. Vợ và 
chồng có nghề nghiệp là nhân viên văn 
phòng/công chức hầu như sẽ có trung bình điểm 
số stress thấp hơn so với những người thuộc 
nhóm nghề nghiệp lao động tay chân như nông 
dân, công nhân. Điều này có thể giải thích rằng 
những người có nghề nghiệp là lao động chân 
tay (nông dân, công nhân) thường có mức thu 
nhập thấp, kinh tế gia đình không ổn định nên 
sẽ khó khăn về chi phí cũng như việc lựa chọn 
phương pháp điều trị phù hợp. 
Vợ và chồng thuộc nhóm vô sinh nguyên 
phát sẽ có trung bình điểm số stress cao hơn so 
với nhóm vô sinh thứ phát. Điều này là phù hợp 
vì những cặp vợ chồng đã có một đứa trẻ sẽ có 
tâm lý thoải mái hơn so với những cặp vợ chồng 
chưa có con. Và họ không cảm thấy quá áp lực 
hay mặc cảm khi phải đối mặt với những câu hỏi 
về vấn đề con cái trong những cuộc họp mặt gia 
đình hoặc bạn bè, các mối quan hệ xã hội cũng 
không bị tác động nhiều như những cặp vợ 
chồng chưa có con. 
Thời gian mong muốn có con cũng ảnh 
hưởng nhiều điểm số stress chung ở cả vợ và 
chồng. Vợ và chồng có thời gian mong muốn có 
con càng lâu thì trung bình điểm số stress càng 
cao. Việc không có con sau một thời gian dài kết 
hôn cùng với quá trình điều trị kéo dài sẽ khiến 
cho các cặp vợ chồng cảm thấy giảm hứng thú 
tình dục và cảm xúc ham muốn với bạn đời 
không còn trọn vẹn như trước. 
Những người vợ có nguyên nhân vô sinh 
từ cả hai vợ chồng sẽ có trung bình điểm số 
stress cao hơn người vợ có nguyên nhân từ 
chính mình, từ chồng hay không rõ nguyên 
nhân, kết quả này tương đồng với nghiên cứu 
tại Trung Quốc (2011)(7). Về phía người chồng, 
nam giới có nguyên nhân vô sinh từ chính 
mình có trung bình điểm số stress chung cao 
nhất. Có thể thấy rằng dù nguyên nhân vô 
sinh đến từ vợ hay chồng hoặc từ cả hai thì 
nhiều cặp vợ chồng sau khi biết được mình 
mắc vô sinh đều có những suy nghĩ tiêu cực và 
tâm trạng căng thẳng, buồn bã. 
Hạn chế của nghiên cứu 
Đây là nghiên cứu đầu tiên áp dụng thang 
đo FPI tiếng Việt nên cũng hạn chế trong so 
sánh với các nghiên cứu khác trong nước và 
trên thế giới. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu chỉ ra rằng trung bình điểm số 
stress chung cho cả nam và nữ là 145,6 ± 19,5 
điểm. Do đó, các đơn vị khám hiếm muộn nên 
thực hiện khảo sát thực trạng stress ở bệnh nhân 
vô sinh đến khám định kỳ, có thể áp dụng thang 
đo FPI tiếng Việt, nhằm phát hiện sớm những 
bệnh nhân có vấn đề stress nhiều để hỗ trợ sớm 
và kịp thời, đặc biệt là nhóm có trình độ vấn 
thấp, công việc không ổn định, đã mong muốn 
có con nhiều năm và vô sinh nguyên phát. Trong 
quá trình tư vấn tâm lý cho bệnh nhân, nhân 
viên y tế cần chú ý các đối tượng mới bắt đầu 
điều trị, nữ giới, nam giới có nguyên nhân vô 
sinh từ phía họ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Harvard Health Publishing (2009). The psychological impact of 
infertility and its treatment. URL: 
https://www.health.harvard.edu/newsletter_article/The-
psychological-impact-of-infertility-and-its-treatment. 
2. Whirledge S, Cidlowski JA (2010). Glucocorticoids, stress, and 
fertility. Minerva Endocrinologica, 35(2):109. 
3. Nargund VH (2015). Effects of psychological stress on male 
fertility. Nature Reviews Urology, 12(7):373-382. 
4. Sanders KA, Bruce NW (1997). A prospective study of 
psychosocial stress and fertility in women. Human Reproduction, 
12(10):2324-2329. 
5. Sepidarkish M, Hashiani AA, Shokri F, et al (2016). Prevalence 
of infertility problems among Iranian infertile patients referred 
to Royan Institute. International Journal of Fertility & Sterility, 
10(3):278-282. 
6. Newton CR, Sherrard W, Glavac I (1999). The Fertility Problem 
Inventory: measuring perceived infertility-related stress. Fertility 
and Sterility, 72(1):54-62. 
7. Peng T, Coates R, Merriman G, et al (2011). Testing the 
psychometric properties of Mandarin version of the fertility 
problem inventory (M-FPI) in an infertile Chinese sample. 
Journal of Psychosomatic Obstetrics & Gynecology, 32(4):173-181. 
8. Kim JH, Shin HS (2014). Validation of a Korean version of 
fertility problem inventory. Asian Nursing Research, 8(3):207-212. 
9. Awtani M, Mathur K, Shah S et al (2017). Infertility stress in 
couples undergoing intrauterine insemination and in vitro 
fertilization treatments. Journal of Human Reproductive Sciences, 
10(3):221-225. 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020

File đính kèm:

  • pdfstress_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_nhung_cap_vo_chong_vo_sinh.pdf