Stress và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: Stress tiêu cực (Distress) ở người bệnh đái tháo đường là cảm xúc do tác động bởi việc sống

chung với bệnh đái tháo đường gây ra. Do đó, đánh giá thường xuyên về stress ở người bệnh đái tháo đường là

cần thiết và đã được khuyến nghị trong hướng dẫn của Hiệp hội đái tháo đường Hoa kỳ và Canada.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường type 2 tại bệnh viện

Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 290 người bệnh đái tháo đường

type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh từ 27/08/2019 đến 14/09/2019. Tỷ lệ và

mức độ stress được đánh giá bằng thang đo stress ở người bệnh tiểu đường (Diabetes Distress Scale: DDS) phiên

bản tiếng việt đã được chuẩn hóa

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Stress và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Stress và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

Stress và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 41
STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Ở NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 
TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Đoàn Nguyễn Kim Đạt*, Đỗ Thị Hoài Thương*, Phan Thị Hoài Yến*, Huỳnh Giao* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Stress tiêu cực (Distress) ở người bệnh đái tháo đường là cảm xúc do tác động bởi việc sống 
chung với bệnh đái tháo đường gây ra. Do đó, đánh giá thường xuyên về stress ở người bệnh đái tháo đường là 
cần thiết và đã được khuyến nghị trong hướng dẫn của Hiệp hội đái tháo đường Hoa kỳ và Canada. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường type 2 tại bệnh viện 
Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 290 người bệnh đái tháo đường 
type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh từ 27/08/2019 đến 14/09/2019. Tỷ lệ và 
mức độ stress được đánh giá bằng thang đo stress ở người bệnh tiểu đường (Diabetes Distress Scale: DDS) phiên 
bản tiếng việt đã được chuẩn hóa. 
Kết quả: Tỷ lệ stress ở người bệnh đái tháo đường là 30%. Trong đó, 24.1% stress mức độ trung bình và 
5.9% mức độ nặng. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường với 
tình trạng kinh tế (PR=2,3; KTC 95%: 1,3 – 4,1; p<0,01), mức độ bệnh (PR=2,7; KTC 95%: 1,8 – 4,1; p<0,001) 
và phương pháp điều trị bệnh (PR=1,7; KTC 95%: 1,2 – 2,3; p<0,01). 
Kết luận: Người bệnh đái tháo đường cần được đánh giá toàn diện để nâng cao hiệu quả điều trị và cải thiện 
chất lượng cuộc sống. 
Từ khóa: stress, đái tháo đường type 2, diabetes distress scale (DDS) 
ABSTRACT 
DISTRESS AND ASSOCIATED FACTORS AMONG TYPE 2 DIABETES PATIENTS 
 AT DISTRICT 10 HOSPITAL, HO CHI MINH CITY 
Doan Nguyen Kim Dat, Do Thi Hoai Thuong, Phan Thi Hoai Yen, Huynh Giao 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 41 - 47 
Backgrounds: Distress is the negative emotional impact of living with diabetes. Therefore, regular 
assessments of stress in people with diabetes are necessary and have been recommended in the guidelines of the 
American and Canadian Diabetes Association. 
Objectives: To estimate the prevalence of diabetes distress and associated factors among patients with type 2 
diabetes at District 10 Hospital, Ho Chi Minh city. 
Methods: A cross-sectional study was done of 290 out-patients with type 2 diabetes mellitus at District 10 
Hospital, Ho Chi Minh city from August 27th to September 14th, 2019. The prevalence and levels of diabetes 
distress were measured by the Vietnamese version of the Diabetes Distress Scale (DDS). 
Results: The overall prevalence of diabetes distress was 30%. Of them, 24.1% were moderately distress and 
5.9% were severely distress. There was a relationship between diabetes distress and economic status (PR=2.3; 
95% CI: 1.3 – 4.1; p <0.01), the severity of diabetes (PR=2.7; 95% CI: 1.8 – 4.1; p <0.001), and treatment method 
(PR=1.7; 95% CI: 1.2 – 2.3; p <0.01). 
*Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Đoàn Nguyễn Kim Đạt ĐT: 0385663405 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 42
Conclusions: Diabetes should be evaluated well-rounded in order to enhance the effective treatment and 
improve their quality of life. 
Keywords: diabetes distress, type 2 diabetes, diabetes distress scale (DDS) 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đái tháo đường là một trong những bệnh 
mạn tính không lây phổ biến hàng đầu trên thế 
giới, được xem là nỗi ám ảnh đối với nhiều 
người và là một gánh nặng cho hệ thống chăm 
sóc sức khỏe các nước(1). 
Stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo 
đường (Diabetes Distress) là một khái niệm đã 
xuất hiện trên thế giới từ năm 1995, nhằm 
dùng để mô tả khía cạnh tâm lý cần được quan 
tâm của các người bệnh đái tháo đường(2). 
Hiện nay, đo lường stress tiêu cực ở người 
bệnh đái tháo đường đã trở thành một phương 
pháp tiếp cận mang tính toàn cầu, được dùng 
để đánh giá và sàng lọc các vấn đề tâm lý ở 
người bệnh đái tháo đường(3). Hiệp hội Đái 
Tháo Đường Canada (CA) và Hoa Kỳ (ADA) 
khuyến cáo nên sàng lọc stress tiêu cực ở 
người bệnh đái tháo đường thường xuyên 
bằng một thang đo được chuẩn hóa(4,5). 
Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm 
xác định tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan ở 
người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại 
trú tại bệnh viện Quận 10, thành phố Hồ Chí 
Minh. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cung cấp cái 
nhìn tổng quát về thực trạng vấn đề tâm lý ở 
người bệnh đái tháo đường type 2. Từ đó giúp 
bác sĩ điều trị và nhân viên y tế có cơ sở để thực 
hiện các biện pháp nhằm góp phần nâng cao 
hiệu quả điều trị, cải thiện chất lượng cuộc sống 
cho người bệnh. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
290 người bệnh đái tháo đường type 2 từ 18 
tuổi trở lên đến khám và điều trị ngoại trú tại 
bệnh viện Quận 10, TP. Hồ Chí Minh từ ngày 
27/08/2019 – 14/09/2019. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Phương pháp chọn mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện những người bệnh từ 
18 tuổi trở lên đã được chẩn đoán đái tháo 
đường type 2 ít nhất 6 tháng tính đến thời điểm 
nghiên cứu đến khám và điều trị ngoại trú tại 
bệnh viện Quận 10, TP. Hồ Chí Minh. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Phỏng vấn trực tiếp với bộ câu hỏi soạn sẵn 
và đối chiếu với hồ sơ khám bệnh của các người 
bệnh một số thông tin như: chỉ số HbA1c gần 
nhất, các bệnh kèm theo, biến chứng, phương 
pháp điều trị. 
Công cụ thu thập số liệu 
Bộ câu hỏi cấu trúc gồm 3 phần bao gồm đặc 
điểm dân số – xã hội của bệnh nhân, thang đo 
DDS đã được chuẩn hóa cho đối tượng người 
bệnh đái tháo đường type 2 tại Việt Nam với 3 
ngưỡng điểm để xác định và phân loại mức độ 
stress“ <2,0 điểm: Không có hoặc ít stress tiêu 
cực; 2,0 – 2,9 điểm: stress tiêu cực mức độ trung 
bình; ≥3,0 điểm: stress tiêu cực mức độ nặng”(6,7), 
và đặc điểm tình trạng bệnh lý và quá trình điều 
trị đái tháo đường. 
Xử lí số liệu 
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, phân 
tích số liệu bằng phần mềm Stata 13. 
Dùng tần số và tỷ lệ phần trăm để mô tả các 
đặc điểm dân số – xã hội, đặc điểm bệnh lý và 
điều trị, tỷ lệ và mức độ stress tiêu cực của mẫu 
nghiên cứu. 
Sử dụng phép kiểm Chi bình phương hoặc 
phép kiểm chính xác Fisher để xác định mối liên 
quan giữa stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo 
đường với đặc điểm dân số – xã hội, đặc điểm 
bệnh lý và điều trị. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 43
Độ lớn mối liên quan được tính bằng tỷ số 
tỷ lệ hiện mắc PR (prevalence ratio) với 
khoảng tin cậy 95% (KTC 95%) có ý nghĩa 
thống kê ở mức p <0,05. 
Y đức 
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng 
Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh số: 427/ĐHYD-HĐĐĐ 
ngày 27/8/2019. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc điểm dân số - xã hội mẫu nghiên cứu 
(n=290) 
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) 
Giới 
Nam 104 35,9 
Nữ 186 64,1 
Tuổi (Trung bình ± độ lệch chuẩn) 59,3 ± 9,4 
Nhóm tuổi 
< 50 tuổi 43 14,8 
50 – 59 tuồi 93 32,1 
≥ 60 tuổi 154 53 
Nghề nghiệp 
Lao động phổ thông 32 11 
Nhân viên văn phòng 19 6,6 
Lao động tự do / Buôn bán 40 13,8 
Nội trợ 89 30,7 
Hưu trí 110 37,9 
Trình độ học vấn 
≤ Cấp1 114 39,3 
Cấp 2 71 24,5 
≥ Cấp 3 105 36,2 
Tình trạng chung sống 
Sống một mình 12 4,1 
Sống chung với gia đình 278 95,9 
Tình trạng kinh tế 
Khá giả 8 2,8 
Đủ sống 234 80,7 
Khó khăn 48 16,5 
Tham gia BHYT (Có) 287 99 
Đa số các người bệnh đái tháo đường type 2 
tham gia nghiên cứu là giới tính nữ (64,1%), độ 
tuổi trung bình của các người bệnh là 59,3 ± 9,4 
tuổi, với người bệnh trẻ nhất là 34 tuổi và lớn 
nhất là 87 tuổi. Số lượng người bệnh tham gia 
nghiên cứu phân bố không đồng đều vào các 
nhóm tuổi, có xu hướng tăng dần theo từng 
nhóm tuổi, với nhóm tuổi là trên 60 tuổi chiếm 
đa số (53%) (Bảng 1). 
Phần lớn các người bệnh đều không còn đi 
làm, hoặc chỉ ở nhà phụ giúp việc nhà, với tổng 
tỷ lệ nhóm hưu trí và nội trợ là 68,6%. Trình độ 
học vấn của các người bệnh đa số từ cấp 2 trở 
xuống, với tổng tỷ lệ nhóm từ cấp 1 trở xuống và 
cấp 2 là 63,8%. Hầu hết các người bệnh đều sống 
chung người thân (95,9%), có mức thu nhập đủ 
sống (80,7%) và tham gia BHYT (99%). 
Bảng 2: Đặc điểm tình trạng bệnh lý và điều trị ĐTĐ 
type 2 mẫu nghiên cứu (n=290) 
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) 
Thời gian phát hiện bệnh 
(Trung bình ± độ lệch chuẩn) 
7,4 ± 6,1 
Dưới 1 năm 22 7,6 
Từ 1 đến 5 năm 121 41,7 
Từ 5 đến 10 năm 72 24,8 
Trên 10 năm 75 25,9 
Tình trạng bệnh 
Không biết 78 26,9 
Nhẹ 46 15,9 
Bình thường 130 44,8 
Nặng 36 12,4 
Phương pháp điều trị 
Không dùng thuốc 2 0,7 
Chỉ dùng thuốc viên 210 72,4 
Có tiêm Insulin 78 26,9 
Đạt mục tiêu điều trị HbA1c < 7.0% 75 25,9 
Biến chứng của ĐTĐ type 2 31 10,7 
Phân loại biến chứng (n=31) 
Bệnh võng mạc 20 64,5 
Bệnh thận 7 22,6 
Bệnh mạch máu ngoại biên 3 9,7 
Bệnh tim mạch 3 9,7 
Bệnh thần kinh ngoại biên 5 16,1 
Bệnh kèm theo (n=232) 
Tim mạch 102 43 
Tăng huyết áp 145 62,5 
Rối loạn lipit máu 72 31 
Hô hấp 21 9 
Cơ – Xương – Khớp 41 17,7 
Tiêu hóa – Gan 30 12,9 
Thận 10 4,3 
Ung thư 4 1,7 
Khác (Da liễu, Mắt, Nội tiết,Tai – Mũi – 
Họng, Thần kinh) 
13 5,6 
Thời gian mắc bệnh đái tháo đường type 2 
của các người bệnh tham gia nghiên cứu trung 
bình là 7,4 ± 6,1 năm, với thời gian mắc bệnh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 44
ngắn nhất là dưới 1 năm, còn dài nhất là 24 
năm. Trong đó thời gian mắc bệnh từ 1 đến 5 
năm chiếm tỷ lệ cao nhất, với 41,7%, và dưới 1 
năm chiếm ít nhất, với 7,6%. Tỷ lệ người bệnh 
tự đánh giá tình trạng đái tháo đường type 2 
của bản thân là “Bình thường” chiếm tỷ lệ cao 
nhất với 44,8%. Tiếp đó có 26,9% người bệnh 
không tự đánh giá được tình trạng đái tháo 
đường type 2 của bản thân, 15,9% người bệnh 
tự đánh giá là “Nhẹ”, 12,4% người bệnh tự 
đánh giá là “Nặng”, và không có người bệnh 
nào tự đánh giá mình “Rất nặng”. Hầu hết các 
người bệnh đều sử dụng thuốc theo đường 
uống, chiếm 72,4%. Có 26,9% người bệnh được 
chỉ định tiêm Insulin, và có 2 người bệnh 
không điều trị thuốc. Dựa trên chỉ số xét 
nghiệm HbA1c gần nhất, nghiên cứu cho thấy 
đa số người bệnh vẫn chưa đạt được mục tiêu 
điều trị là chỉ số HbA1c <7,0%, chiếm 74,1% 
(Bảng 2). 
Đa số người bệnh đái tháo đường type 2 
tham gia nghiên cứu đều chưa được chẩn đoán 
có biến chứng, với tỷ lệ có biến chứng chỉ chiếm 
10,7%. Trong các biến chứng, nhóm biến chứng 
về võng mạc được ghi nhận nhiều nhất. Hầu hết 
các người bệnh đều có và điều trị các bệnh khác 
kèm theo, chiếm 80% tổng số người bệnh tham 
gia nghiên cứu. Trong đó, tăng huyết áp là bệnh 
đi kèm phổ biến nhất. 
Tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo 
đường mức độ trung bình trở lên theo thang đo 
DDS là 30%. Trong đó, tỷ lệ stress ở mức độ 
trung bình chiếm 24,1%, và tỷ lệ stress ở mức độ 
nặng là 5,9% (Bảng 3). 
Bảng 3: Tỷ lệ và mức độ Stress tiêu cực ở người bệnh 
đái tháo đường (n=290) 
Tỷ lệ và mức độ stress Tần số Tỷ lệ (%) 
Tỷ lệ 87 30,0 
Mức độ 
Không hoặc ít Stress (<2 điểm) 203 70,0 
Stress mức độ Trung bình (2 – 3 điểm) 70 24,1 
Stress mức độ Nặng (>3 điểm) 17 5,9 
Bảng 4: Phân loại Stress tiêu cực ở người bệnh đái 
tháo đường theo thang đo DDS (n=290) 
Đặc tính Tần số Tỉ lệ (%) 
Gánh nặng cảm xúc 
Không hoặc ít Stress 144 49,7 
Stress mức độ Trung bình 62 21,4 
Stress mức độ Nặng 84 29 
Stress liên quan đến bác sĩ 
Không hoặc ít Stress 246 84,8 
Stress mức độ Trung bình 29 10 
Stress mức độ Nặng 15 5,2 
Stress liên quan đến điều trị 
Không hoặc ít Stress 181 62,4 
Stress mức độ Trung bình 77 26,6 
Stress mức độ Nặng 32 11 
Stess trong các mối quan hệ 
Không hoặc ít Stress 254 87,6 
Stress mức độ Trung bình 19 6,6 
Stress mức độ Nặng 17 5,9 
Xét theo từng lĩnh vực được phân loại trong 
thang đo DDS, gánh nặng cảm xúc là lĩnh vực có 
stress phổ biến nhất, với chỉ 49,7% người bệnh 
đái tháo đường type 2 tham gia nghiên cứu được 
ghi nhận là không có stress ở lĩnh vực này. Lĩnh 
vực gây stress ít nhất là stress trong các mối 
quan hệ, với 87,6% người bệnh ghi nhận là 
không có stress (Bảng 4). 
Bảng 5: Mối liên quan giữa Stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường với các đặc tính mẫu nghiên cứu (n=290) 
Đặc tính 
Stress tiêu cực 
p 
PR 
(KTC 95%) Có n (%) Không n (%) 
Tình trạng kinh tế 
Khá giả 5 (62,5) 3 (37,5) 0,005 2,3 (1,3-4,1) 
Đủ sống 64 (27,4) 170 (72,7) - 1 
Khó khăn 18 (37,5) 30 (62,5) 0,142 1,4 (0,9-2,1) 
Tình trạng bệnh 
Không biết 26 (33,3) 52 (66,7) 0,060 1,6 (1-2,4) 
Nhẹ 12 (26,1) 34 (73,9) 0,523 1,2 (0,7-2,2) 
Bình thường 28 (21,5) 102 (78,5) - 1 
Nặng 21 (58,3) 15 (41,7) <0,001 2,7 (1,8-4,2) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 45
Đặc tính 
Stress tiêu cực 
p 
PR 
(KTC 95%) Có n (%) Không n (%) 
Thuốc điều trị 
Chỉ dùng thuốc viên 54 (25,71) 156 (74,29) - 1 
Có tiêm Insulin 33 (42,31) 45 (57,69) 0,006 1,7 (1,2-2,3) 
Nghiên cứu ghi nhận được mối liên quan có 
ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ stress tiêu cực ở 
người bệnh đái tháo đường với các đặc tính gồm 
tình trạng kinh tế, tình trạng bệnh đái tháo 
đường và thuốc điều trị (Bảng 5). Cụ thể sau: 
- Người bệnh tự đánh giá tình trạng kinh tế 
khá giả có tỷ lệ stress tiêu cực cao gấp 2,3 lần so 
với người bệnh tự đánh giá tình trạng kinh tế đủ 
sống (p=0,005; KTC 95%: 1,3 – 4,1). 
- Người bệnh tự đánh giá tình trạng bệnh là 
nặng có tỷ lệ stress tiêu cực cao gấp 2,7 lần so với 
người bệnh tự đánh giá tình trạng bệnh là bình 
thường (p <0,001, KTC 95%: 1,8 – 4,2). 
- Người bệnh đái tháo đường có tiêm Insulin 
có tỷ lệ stress tiêu cực cao gấp 1,7 lần so với 
những người bệnh chỉ sử dụng thuốc viên 
(p=0,006; KTC 95%: 1,2 – 2,3). 
Nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên quan 
giữa tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo 
đường với các đặc tính khác như giới, nhóm 
tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng 
chung sống, sự tham gia bảo hiểm y tế, thời gian 
phát hiện bệnh, đạt mục tiêu điều trị (HbA1c 
<7,0%), biến chứng và bệnh kèm theo. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm dân số – xã hội mẫu nghiên cứu 
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, những 
những đặc điểm nổi bật ở bệnh nhân đái tháo 
đường type 2 đang điều trị ngoại trú tại bệnh 
viện quận 10: phần lớn là nữ, thuộc nhóm tuổi từ 
60 tuổi trở lên, công việc hiện tại là hưu trí và nội 
trợ là chủ yếu, học vấn đa số là tốt nghiệp cấp 2 
trở xuống, đa phần tự đánh giá kinh tế ở mức đủ 
sống, hầu hết đều sống chung với gia đình và có 
tham gia bảo hiểm y tế. Những đặc điểm này 
tương đồng với các đặc điểm về dân số – xã hội 
đã được ghi nhận trong các nghiên cứu khác trên 
người bệnh đái tháo đường type 2 tại thành phố 
Hồ Chí Minh như nghiên cứu của tác giả Ong 
Phúc Thịnh năm 2018 tại bệnh viện Trưng 
Vương(6), nghiên cứu của Võ Thị Xuân Hạnh và 
cộng sự tại Quận 10 năm 2016(8). Kết quả nghiên 
cứu cũng phù hợp với báo cáo của liên đoàn đái 
tháo đường thế giới năm 2017 ghi nhận nhóm 
tuổi mắc bệnh đái tháo đường type 2 chủ yếu 
hiện nay vẫn là nhóm trên 60 tuổi(1). 
Đặc điểm tình trạng bệnh lý và điều trị đái 
tháo đường type 2 của mẫu nghiên cứu 
Theo liên đoàn Đái thào đường thế giới ghi 
nhận, tỷ lệ hiện mắc đái tháo đường type 2 đang 
có xu hướng gia tăng ngày càng cao trong 
những năm gần đây, nhất là khu vực châu Á nói 
chung hay Việt Nam nói riêng(1). Vì vậy, kết quả 
nghiên cứu cho thấy số lượng người bệnh đái 
tháo đường type 2 phát hiện bệnh đái tháo 
đường từ 1 – 5 năm chiếm tỷ lệ nhiều nhất 
(41,7%) là phù hợp với sự gia tăng về bệnh đái 
tháo đường tại Việt Nam những năm gần đây. 
Bên cạnh đó, vì đái tháo đường là một bệnh mãn 
tính, người bệnh phải thường xuyên tái khám 
định kỳ nên hầu hết người bệnh đái tháo đường 
type 2 tham gia nghiên cứu tự đánh giá tình 
trạng bệnh đái tháo đường của bản thân là bình 
thường (44,8%) là phù hợp. Theo hướng dẫn của 
Bộ Y tế năm 2017 về điều trị bệnh đái tháo 
đường type 2, việc sử dụng chủ yếu thuốc viên 
kết hợp với điều chỉnh lối sống bằng dinh 
dưỡng, luyện tập để kiểm soát bệnh đái tháo 
đường được khuyến nghị nên đa số các người 
bệnh đái tháo đường type 2 tại bệnh viện Quận 
10 đều được điều trị chủ yếu bằng thuốc viên 
(72,4%) là phù hợp. Tuy nhiên, dựa trên chỉ số 
xét nghiệm HbA1c gần nhất, hầu hết người bệnh 
đái tháo đường type 2 tham gia nghiên cứu lại 
chưa đạt được mục tiêu điều trị là giữ chỉ số 
HbA1c <7,0% như khuyến cáo (74,1%). Do vậy, 
cần thực hiện thêm nghiên cứu về tuân thủ điều 
trị để đánh giá mức độ tuân thủ điều trị của 
người bệnh. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 46
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hầu hết 
người bệnh đái tháo đường type 2 tham gia 
nghiên cứu đều chưa phát hiện biến chứng 
(89,3%) và phần lớn có đồng mắc kèm thêm các 
bệnh khác (80%), nổi bật nhất là bệnh tăng huyết 
áp (62,5%). Nguyên nhân có thể là vì hầu hết các 
người bệnh đều trên 60 tuổi (53,01%), cũng như 
giữa tăng huyết áp với bệnh đái tháo đường 
type 2 có mối liên hệ chặt chẽ và tỷ lệ song hành 
cao như ghi nhận của nhiều tài liệu về đái tháo 
đường type 2 tại Việt Nam và trên thế giới. 
Tỷ lệ và mức độ stress tiêu cực ở người bệnh 
đái tháo đường 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
có 30% người bệnh đái tháo đường type 2 điều 
trị ngoại trú tại bệnh viện quận 10 có stress tiêu 
cực. Trong đó, 24,1% là stress ở mức độ trung 
bình và 5,9% là stress ở mức độ nặng. Còn trong 
từng lĩnh vực được phân chia theo thang đo 
DDS, lĩnh vực có stress tiêu cực ở người bệnh đái 
tháo đường được ghi nhận nhiều nhất là “Gánh 
nặng cảm xúc” (50,4%). 
Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với 
nghiên cứu cùng sử dụng thang đo DDS để 
đánh giá stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo 
đường được thực hiện tại Saudi Arabia năm 
2018 trên 509 người bệnh đái tháo đường type 2 
ghi nhận tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái 
tháo đường chỉ là 25% với lĩnh vực stress nhiều 
nhất cũng là gánh nặng cảm xúc từ bệnh đái 
tháo đường (54%)(9). 
Kết quả nghiên cứu này thấp hơn so với 
nghiên cứu tổng quan về stress tiêu cực ở người 
bệnh đái tháo đường từ 55 nghiên cứu trên toàn 
thế giới với tổng cỡ mẫu là 36998 người bệnh đái 
tháo đường type 2 ghi nhận tỷ lệ stress tiêu cực ở 
người bệnh đái tháo đường trung bình là 36%(10). 
Kết quả nghiên cứu này cũng thấp hơn so với 
nghiên cứu của Ong Phúc Thịnh năm 2018 tại 
bệnh viện Trưng Vương trên cùng đối tượng ghi 
nhận tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo 
đường là 36,3%(6). Sự chênh lệch có thể là do sự 
khác biệt về đặc điểm dân số – xã hội, sự khác 
nhau giữa các hệ thống chăm sóc sức khỏe cũng 
như phương pháp nghiên cứu. Nhưng nhìn 
chung, tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo 
đường thường mức cao, xấp xỉ 1/3 số tổng số 
người bệnh. 
Dựa trên các lĩnh vực được phân chia trong 
thang đo DDS, kết quả nghiên cứu cũng ghi 
nhận có sự khác biệt lớn về tỷ lệ stress tiêu cực ở 
người bệnh đái tháo đường trong từng lĩnh vực. 
Cụ thể là có hơn phân nửa tổng số người bệnh 
đái tháo đường type 2 tham gia nghiên cứu bị 
stress do gánh nặng cảm xúc từ bệnh đái tháo 
đường (50,4%), hơn 1/3 người bệnh bị stress liên 
quan đến điều trị (37,6%), trong khi các lĩnh vực 
khác như stress liên quan đến bác sĩ, stress trong 
các mối quan hệ chỉ chiếm các tỷ lệ thấp lần lượt 
là 15,2% và 12,4%. Điều này cho thấy phần lớn 
stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường là vì 
những cảm xúc tiêu cực do sống chung với bệnh 
đái tháo đường mang lại và vì những yêu cầu về 
điều trị cần phải tuân theo gây ra. Do đó, cần 
quan tâm hơn đến những lo ngại của người 
bệnh khi khám bệnh để có thể giải thích kịp thời, 
động viên tạo tâm lý lạc quan cho người bệnh, 
cũng như tăng cường giáo dục sức khỏe về kiến 
thức bệnh đái tháo đường, giúp người bệnh hiểu 
rõ hơn về bệnh và các sống chung với bệnh đái 
tháo đường. 
Các yếu tố liên quan đến stress tiêu cực ở 
người bệnh đái tháo đường 
Nghiên cứu ghi nhận người có kinh tế khá 
giả thì có tỷ lệ stress tiêu cực cao gấp 2,3 lần so 
với người có tình trạng kinh tế đủ sống (p <0,01; 
KTC 95%: 1,3 – 4,1). Sự khác biệt này có thể là do 
số lượng mẫu ở nhóm tình trạng kinh tế khá giả 
tương đối nhỏ, chỉ 8 người bệnh nên có thể dẫn 
đến kết quả phân tích bị sai lệch. Do vậy cần có 
nghiên cứu với thiết kế nghiên cứu phù hợp và 
cỡ mẫu đủ lớn để đánh giá lại mối liên quan này. 
Nghiên cứu ghi nhận người đánh giá tình 
trạng bệnh đái tháo đường là nặng thì có tỷ lệ 
stress tiêu cực cao gấp 2,7 lần so với người 
đánh giá tình trạng bệnh là bình thường 
(p<0,001, KTC 95%: 1,8 – 4,2). Kết quả này phù 
hợp với kết quả đã ghi nhận ở trên rằng phần 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 47
lớn stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo 
đường là do gánh nặng cảm xúc nên khi người 
bệnh nghĩ tình trạng bệnh là nặng thì người 
bệnh đã và đang có tâm lý bi quan, khiến cho 
tăng nguy cơ bị stress tiêu cực. 
Nghiên cứu ghi nhận người có sử dụng 
thuốc tiêm Insulin thì có tỷ lệ stress tiêu cực cao 
gấp 1,7 lần so với những người bệnh chỉ sử dụng 
thuốc viên (p <0,01; KTC 95%: 1,2 – 2,3). Người 
bệnh đái tháo đường type 2 phải tiêm Insulin là 
do tình trạng sức khỏe của người bệnh trở nặng 
hoặc điều trị không còn đáp ứng với thuốc viên 
nên có thể vì thế mà tăng nguy cơ stress tiêu cực. 
Cũng có một số tài liệu cho rằng khi điều trị 
bằng thuốc tiêm thì có thể kèm theo nỗi sợ kim 
tiêm và dẫn đến sự phức tạp hóa trong điều trị 
hơn khi dùng thuốc uống(11) nên tăng nguy cơ 
cao hơn về stress tiêu cực. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo 
đường type 2 mức độ trung bình trở lên tại bệnh 
viện Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh là 30%, 
với 24,1% ở mức độ trung bình, 5,9% ở mức độ 
nặng. Trong đó, theo phân loại lĩnh vực stress, tỷ 
lệ người bệnh có stress cảm xúc là 50,4%, stress 
liên quan đến điều trị là 37,6%, stress liên quan 
đến bác sĩ là 15,2%, stress trong các mối quan hệ 
là 12,4%. 
Nghiên cứu tìm thấy các yếu tố có mối liên 
quan có ý nghĩa thống kê với tỷ lệ stress tiêu 
cực ở người bệnh đái tháo đường là: Tình 
trạng kinh tế, tình trạng bệnh và thuốc điều trị 
đái tháo đường. 
KIẾN NGHỊ 
Người bệnh đái tháo đường type 2 cần 
được quan tâm toàn diện cả về sức khỏe thể 
chất lẫn sức khỏe tâm thần. Bác sĩ điều trị và 
nhân viên y tế nên thường xuyên đánh giá về 
stress ở người bệnh đái tháo đường nhằm góp 
phần nâng cao hiệu quả điều trị và cải thiện 
chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Trong 
đó cần chú ý hỗ trợ người bệnh đối với việc 
kiểm soát cảm xúc, đặc biệt là những người 
bệnh có tình trạng bệnh nghiêm trọng hay 
phải sử dụng thuốc tiêm insulin. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. International Diabetes Federation (2017). Diabetes Atlas 8th 
Edition. International Diabetes Federation, pp.40-46. 
2. Dennick K, Sturt J, Speight J (2017). What is diabetes distress 
and how can we measure it? A narrative review and conceptual 
model. Journal of Diabetes and Its Complications, 31(5):898-911. 
3. Egede LE, Dismuke CE (2012). Serious psychological distress 
and diabetes: a review of the literature. Current Psychiatry 
Reports, 14(1):15-22. 
4. American Diabetes Association (2019). Standards of Medical 
Care in Diabetes 2019. Diabetes Care, 42, S81. 
5. Diabetes Canada Clinical Practice Guidelines Expert Committee 
(2018). Diabetes Canada 2018 clinical practice guidelines for the 
prevention and management of diabetes in Canada. Can J 
Diabetes, 42(1):S130. 
6. Ong Phúc Thịnh (2018). Tính tin cậy và giá trị của thang đo 
stress tiêu cực do Đái tháo đường DDS. Khóa luận Tốt nghiệp Bác 
sĩ Y học Dự phòng, ĐH Y Dược TP. HCM. 
7. Polonsky WH, Fisher L, Earles J, Dudl RJ, Lees J, Mullan J, et al 
(2005). Assessing psychosocial distress in diabetes: development 
of the diabetes distress scale. Diabetes Care, 28(3):626-631. 
8. Võ Thị Xuân Hạnh, Cao Nguyễn Hoài Thương, Phan Thị Kim 
Hoàng, Nguyễn Thị Thanh Mai, Trần Vĩnh Tài, Tô Hoàng Linh, 
et al (2017). Tỷ lệ tăng huyết áp và đái tháo đường qua khảo sát 
trên mẫu đại diện cộng đồng dân cư tại quận nội thành Tp.Hồ 
Chí Minh. Tạp chí Y học dự phòng, 27(8):79-87. 
9. Aljuaid MO, Almutairi AM, Assiri MA, Almalki DA, Alswat K 
(2018). Diabetes-Related Distress Assessment among Type 2 
Diabetes Patients. Journal of Diabetes Research, 2018:7328128. 
10. Perrin NE, Davies MJ, Robertson N, Snoek FJ, Khunti K (2017). 
The prevalence of diabetes-specific emotional distress in people 
with Type 2 diabetes: a systematic review and meta-analysis. 
Diabetic Medicine, 34(11):1508-1520. 
11. Wild D, Maltzahn RV, Brohan E, Christensen T, Clauson P, 
Gonder-Frederick L (2007). A critical review of the literature on 
fear of hypoglycemia in diabetes: Implications for diabetes 
management and patient education. Patient Education and 
Counseling, 68(1):10-15. 
Ngày nhận bài báo: 15/11/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/11/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020

File đính kèm:

  • pdfstress_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_benh_dai_thao_duong_t.pdf