Stress và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh
Đặt vấn đề: Stress tiêu cực (Distress) ở người bệnh đái tháo đường là cảm xúc do tác động bởi việc sống
chung với bệnh đái tháo đường gây ra. Do đó, đánh giá thường xuyên về stress ở người bệnh đái tháo đường là
cần thiết và đã được khuyến nghị trong hướng dẫn của Hiệp hội đái tháo đường Hoa kỳ và Canada.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường type 2 tại bệnh viện
Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 290 người bệnh đái tháo đường
type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh từ 27/08/2019 đến 14/09/2019. Tỷ lệ và
mức độ stress được đánh giá bằng thang đo stress ở người bệnh tiểu đường (Diabetes Distress Scale: DDS) phiên
bản tiếng việt đã được chuẩn hóa
Tóm tắt nội dung tài liệu: Stress và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 41 STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Đoàn Nguyễn Kim Đạt*, Đỗ Thị Hoài Thương*, Phan Thị Hoài Yến*, Huỳnh Giao* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Stress tiêu cực (Distress) ở người bệnh đái tháo đường là cảm xúc do tác động bởi việc sống chung với bệnh đái tháo đường gây ra. Do đó, đánh giá thường xuyên về stress ở người bệnh đái tháo đường là cần thiết và đã được khuyến nghị trong hướng dẫn của Hiệp hội đái tháo đường Hoa kỳ và Canada. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường type 2 tại bệnh viện Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 290 người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh từ 27/08/2019 đến 14/09/2019. Tỷ lệ và mức độ stress được đánh giá bằng thang đo stress ở người bệnh tiểu đường (Diabetes Distress Scale: DDS) phiên bản tiếng việt đã được chuẩn hóa. Kết quả: Tỷ lệ stress ở người bệnh đái tháo đường là 30%. Trong đó, 24.1% stress mức độ trung bình và 5.9% mức độ nặng. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường với tình trạng kinh tế (PR=2,3; KTC 95%: 1,3 – 4,1; p<0,01), mức độ bệnh (PR=2,7; KTC 95%: 1,8 – 4,1; p<0,001) và phương pháp điều trị bệnh (PR=1,7; KTC 95%: 1,2 – 2,3; p<0,01). Kết luận: Người bệnh đái tháo đường cần được đánh giá toàn diện để nâng cao hiệu quả điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống. Từ khóa: stress, đái tháo đường type 2, diabetes distress scale (DDS) ABSTRACT DISTRESS AND ASSOCIATED FACTORS AMONG TYPE 2 DIABETES PATIENTS AT DISTRICT 10 HOSPITAL, HO CHI MINH CITY Doan Nguyen Kim Dat, Do Thi Hoai Thuong, Phan Thi Hoai Yen, Huynh Giao * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 41 - 47 Backgrounds: Distress is the negative emotional impact of living with diabetes. Therefore, regular assessments of stress in people with diabetes are necessary and have been recommended in the guidelines of the American and Canadian Diabetes Association. Objectives: To estimate the prevalence of diabetes distress and associated factors among patients with type 2 diabetes at District 10 Hospital, Ho Chi Minh city. Methods: A cross-sectional study was done of 290 out-patients with type 2 diabetes mellitus at District 10 Hospital, Ho Chi Minh city from August 27th to September 14th, 2019. The prevalence and levels of diabetes distress were measured by the Vietnamese version of the Diabetes Distress Scale (DDS). Results: The overall prevalence of diabetes distress was 30%. Of them, 24.1% were moderately distress and 5.9% were severely distress. There was a relationship between diabetes distress and economic status (PR=2.3; 95% CI: 1.3 – 4.1; p <0.01), the severity of diabetes (PR=2.7; 95% CI: 1.8 – 4.1; p <0.001), and treatment method (PR=1.7; 95% CI: 1.2 – 2.3; p <0.01). *Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS. Đoàn Nguyễn Kim Đạt ĐT: 0385663405 Email: [email protected] Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 42 Conclusions: Diabetes should be evaluated well-rounded in order to enhance the effective treatment and improve their quality of life. Keywords: diabetes distress, type 2 diabetes, diabetes distress scale (DDS) ĐẶT VẤN ĐỀ Đái tháo đường là một trong những bệnh mạn tính không lây phổ biến hàng đầu trên thế giới, được xem là nỗi ám ảnh đối với nhiều người và là một gánh nặng cho hệ thống chăm sóc sức khỏe các nước(1). Stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường (Diabetes Distress) là một khái niệm đã xuất hiện trên thế giới từ năm 1995, nhằm dùng để mô tả khía cạnh tâm lý cần được quan tâm của các người bệnh đái tháo đường(2). Hiện nay, đo lường stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường đã trở thành một phương pháp tiếp cận mang tính toàn cầu, được dùng để đánh giá và sàng lọc các vấn đề tâm lý ở người bệnh đái tháo đường(3). Hiệp hội Đái Tháo Đường Canada (CA) và Hoa Kỳ (ADA) khuyến cáo nên sàng lọc stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường thường xuyên bằng một thang đo được chuẩn hóa(4,5). Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cung cấp cái nhìn tổng quát về thực trạng vấn đề tâm lý ở người bệnh đái tháo đường type 2. Từ đó giúp bác sĩ điều trị và nhân viên y tế có cơ sở để thực hiện các biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả điều trị, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 290 người bệnh đái tháo đường type 2 từ 18 tuổi trở lên đến khám và điều trị ngoại trú tại bệnh viện Quận 10, TP. Hồ Chí Minh từ ngày 27/08/2019 – 14/09/2019. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Phương pháp chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện những người bệnh từ 18 tuổi trở lên đã được chẩn đoán đái tháo đường type 2 ít nhất 6 tháng tính đến thời điểm nghiên cứu đến khám và điều trị ngoại trú tại bệnh viện Quận 10, TP. Hồ Chí Minh. Phương pháp thu thập số liệu Phỏng vấn trực tiếp với bộ câu hỏi soạn sẵn và đối chiếu với hồ sơ khám bệnh của các người bệnh một số thông tin như: chỉ số HbA1c gần nhất, các bệnh kèm theo, biến chứng, phương pháp điều trị. Công cụ thu thập số liệu Bộ câu hỏi cấu trúc gồm 3 phần bao gồm đặc điểm dân số – xã hội của bệnh nhân, thang đo DDS đã được chuẩn hóa cho đối tượng người bệnh đái tháo đường type 2 tại Việt Nam với 3 ngưỡng điểm để xác định và phân loại mức độ stress“ <2,0 điểm: Không có hoặc ít stress tiêu cực; 2,0 – 2,9 điểm: stress tiêu cực mức độ trung bình; ≥3,0 điểm: stress tiêu cực mức độ nặng”(6,7), và đặc điểm tình trạng bệnh lý và quá trình điều trị đái tháo đường. Xử lí số liệu Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 13. Dùng tần số và tỷ lệ phần trăm để mô tả các đặc điểm dân số – xã hội, đặc điểm bệnh lý và điều trị, tỷ lệ và mức độ stress tiêu cực của mẫu nghiên cứu. Sử dụng phép kiểm Chi bình phương hoặc phép kiểm chính xác Fisher để xác định mối liên quan giữa stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường với đặc điểm dân số – xã hội, đặc điểm bệnh lý và điều trị. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 43 Độ lớn mối liên quan được tính bằng tỷ số tỷ lệ hiện mắc PR (prevalence ratio) với khoảng tin cậy 95% (KTC 95%) có ý nghĩa thống kê ở mức p <0,05. Y đức Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số: 427/ĐHYD-HĐĐĐ ngày 27/8/2019. KẾT QUẢ Bảng 1: Đặc điểm dân số - xã hội mẫu nghiên cứu (n=290) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Giới Nam 104 35,9 Nữ 186 64,1 Tuổi (Trung bình ± độ lệch chuẩn) 59,3 ± 9,4 Nhóm tuổi < 50 tuổi 43 14,8 50 – 59 tuồi 93 32,1 ≥ 60 tuổi 154 53 Nghề nghiệp Lao động phổ thông 32 11 Nhân viên văn phòng 19 6,6 Lao động tự do / Buôn bán 40 13,8 Nội trợ 89 30,7 Hưu trí 110 37,9 Trình độ học vấn ≤ Cấp1 114 39,3 Cấp 2 71 24,5 ≥ Cấp 3 105 36,2 Tình trạng chung sống Sống một mình 12 4,1 Sống chung với gia đình 278 95,9 Tình trạng kinh tế Khá giả 8 2,8 Đủ sống 234 80,7 Khó khăn 48 16,5 Tham gia BHYT (Có) 287 99 Đa số các người bệnh đái tháo đường type 2 tham gia nghiên cứu là giới tính nữ (64,1%), độ tuổi trung bình của các người bệnh là 59,3 ± 9,4 tuổi, với người bệnh trẻ nhất là 34 tuổi và lớn nhất là 87 tuổi. Số lượng người bệnh tham gia nghiên cứu phân bố không đồng đều vào các nhóm tuổi, có xu hướng tăng dần theo từng nhóm tuổi, với nhóm tuổi là trên 60 tuổi chiếm đa số (53%) (Bảng 1). Phần lớn các người bệnh đều không còn đi làm, hoặc chỉ ở nhà phụ giúp việc nhà, với tổng tỷ lệ nhóm hưu trí và nội trợ là 68,6%. Trình độ học vấn của các người bệnh đa số từ cấp 2 trở xuống, với tổng tỷ lệ nhóm từ cấp 1 trở xuống và cấp 2 là 63,8%. Hầu hết các người bệnh đều sống chung người thân (95,9%), có mức thu nhập đủ sống (80,7%) và tham gia BHYT (99%). Bảng 2: Đặc điểm tình trạng bệnh lý và điều trị ĐTĐ type 2 mẫu nghiên cứu (n=290) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Thời gian phát hiện bệnh (Trung bình ± độ lệch chuẩn) 7,4 ± 6,1 Dưới 1 năm 22 7,6 Từ 1 đến 5 năm 121 41,7 Từ 5 đến 10 năm 72 24,8 Trên 10 năm 75 25,9 Tình trạng bệnh Không biết 78 26,9 Nhẹ 46 15,9 Bình thường 130 44,8 Nặng 36 12,4 Phương pháp điều trị Không dùng thuốc 2 0,7 Chỉ dùng thuốc viên 210 72,4 Có tiêm Insulin 78 26,9 Đạt mục tiêu điều trị HbA1c < 7.0% 75 25,9 Biến chứng của ĐTĐ type 2 31 10,7 Phân loại biến chứng (n=31) Bệnh võng mạc 20 64,5 Bệnh thận 7 22,6 Bệnh mạch máu ngoại biên 3 9,7 Bệnh tim mạch 3 9,7 Bệnh thần kinh ngoại biên 5 16,1 Bệnh kèm theo (n=232) Tim mạch 102 43 Tăng huyết áp 145 62,5 Rối loạn lipit máu 72 31 Hô hấp 21 9 Cơ – Xương – Khớp 41 17,7 Tiêu hóa – Gan 30 12,9 Thận 10 4,3 Ung thư 4 1,7 Khác (Da liễu, Mắt, Nội tiết,Tai – Mũi – Họng, Thần kinh) 13 5,6 Thời gian mắc bệnh đái tháo đường type 2 của các người bệnh tham gia nghiên cứu trung bình là 7,4 ± 6,1 năm, với thời gian mắc bệnh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 44 ngắn nhất là dưới 1 năm, còn dài nhất là 24 năm. Trong đó thời gian mắc bệnh từ 1 đến 5 năm chiếm tỷ lệ cao nhất, với 41,7%, và dưới 1 năm chiếm ít nhất, với 7,6%. Tỷ lệ người bệnh tự đánh giá tình trạng đái tháo đường type 2 của bản thân là “Bình thường” chiếm tỷ lệ cao nhất với 44,8%. Tiếp đó có 26,9% người bệnh không tự đánh giá được tình trạng đái tháo đường type 2 của bản thân, 15,9% người bệnh tự đánh giá là “Nhẹ”, 12,4% người bệnh tự đánh giá là “Nặng”, và không có người bệnh nào tự đánh giá mình “Rất nặng”. Hầu hết các người bệnh đều sử dụng thuốc theo đường uống, chiếm 72,4%. Có 26,9% người bệnh được chỉ định tiêm Insulin, và có 2 người bệnh không điều trị thuốc. Dựa trên chỉ số xét nghiệm HbA1c gần nhất, nghiên cứu cho thấy đa số người bệnh vẫn chưa đạt được mục tiêu điều trị là chỉ số HbA1c <7,0%, chiếm 74,1% (Bảng 2). Đa số người bệnh đái tháo đường type 2 tham gia nghiên cứu đều chưa được chẩn đoán có biến chứng, với tỷ lệ có biến chứng chỉ chiếm 10,7%. Trong các biến chứng, nhóm biến chứng về võng mạc được ghi nhận nhiều nhất. Hầu hết các người bệnh đều có và điều trị các bệnh khác kèm theo, chiếm 80% tổng số người bệnh tham gia nghiên cứu. Trong đó, tăng huyết áp là bệnh đi kèm phổ biến nhất. Tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường mức độ trung bình trở lên theo thang đo DDS là 30%. Trong đó, tỷ lệ stress ở mức độ trung bình chiếm 24,1%, và tỷ lệ stress ở mức độ nặng là 5,9% (Bảng 3). Bảng 3: Tỷ lệ và mức độ Stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường (n=290) Tỷ lệ và mức độ stress Tần số Tỷ lệ (%) Tỷ lệ 87 30,0 Mức độ Không hoặc ít Stress (<2 điểm) 203 70,0 Stress mức độ Trung bình (2 – 3 điểm) 70 24,1 Stress mức độ Nặng (>3 điểm) 17 5,9 Bảng 4: Phân loại Stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường theo thang đo DDS (n=290) Đặc tính Tần số Tỉ lệ (%) Gánh nặng cảm xúc Không hoặc ít Stress 144 49,7 Stress mức độ Trung bình 62 21,4 Stress mức độ Nặng 84 29 Stress liên quan đến bác sĩ Không hoặc ít Stress 246 84,8 Stress mức độ Trung bình 29 10 Stress mức độ Nặng 15 5,2 Stress liên quan đến điều trị Không hoặc ít Stress 181 62,4 Stress mức độ Trung bình 77 26,6 Stress mức độ Nặng 32 11 Stess trong các mối quan hệ Không hoặc ít Stress 254 87,6 Stress mức độ Trung bình 19 6,6 Stress mức độ Nặng 17 5,9 Xét theo từng lĩnh vực được phân loại trong thang đo DDS, gánh nặng cảm xúc là lĩnh vực có stress phổ biến nhất, với chỉ 49,7% người bệnh đái tháo đường type 2 tham gia nghiên cứu được ghi nhận là không có stress ở lĩnh vực này. Lĩnh vực gây stress ít nhất là stress trong các mối quan hệ, với 87,6% người bệnh ghi nhận là không có stress (Bảng 4). Bảng 5: Mối liên quan giữa Stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường với các đặc tính mẫu nghiên cứu (n=290) Đặc tính Stress tiêu cực p PR (KTC 95%) Có n (%) Không n (%) Tình trạng kinh tế Khá giả 5 (62,5) 3 (37,5) 0,005 2,3 (1,3-4,1) Đủ sống 64 (27,4) 170 (72,7) - 1 Khó khăn 18 (37,5) 30 (62,5) 0,142 1,4 (0,9-2,1) Tình trạng bệnh Không biết 26 (33,3) 52 (66,7) 0,060 1,6 (1-2,4) Nhẹ 12 (26,1) 34 (73,9) 0,523 1,2 (0,7-2,2) Bình thường 28 (21,5) 102 (78,5) - 1 Nặng 21 (58,3) 15 (41,7) <0,001 2,7 (1,8-4,2) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 45 Đặc tính Stress tiêu cực p PR (KTC 95%) Có n (%) Không n (%) Thuốc điều trị Chỉ dùng thuốc viên 54 (25,71) 156 (74,29) - 1 Có tiêm Insulin 33 (42,31) 45 (57,69) 0,006 1,7 (1,2-2,3) Nghiên cứu ghi nhận được mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường với các đặc tính gồm tình trạng kinh tế, tình trạng bệnh đái tháo đường và thuốc điều trị (Bảng 5). Cụ thể sau: - Người bệnh tự đánh giá tình trạng kinh tế khá giả có tỷ lệ stress tiêu cực cao gấp 2,3 lần so với người bệnh tự đánh giá tình trạng kinh tế đủ sống (p=0,005; KTC 95%: 1,3 – 4,1). - Người bệnh tự đánh giá tình trạng bệnh là nặng có tỷ lệ stress tiêu cực cao gấp 2,7 lần so với người bệnh tự đánh giá tình trạng bệnh là bình thường (p <0,001, KTC 95%: 1,8 – 4,2). - Người bệnh đái tháo đường có tiêm Insulin có tỷ lệ stress tiêu cực cao gấp 1,7 lần so với những người bệnh chỉ sử dụng thuốc viên (p=0,006; KTC 95%: 1,2 – 2,3). Nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên quan giữa tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường với các đặc tính khác như giới, nhóm tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng chung sống, sự tham gia bảo hiểm y tế, thời gian phát hiện bệnh, đạt mục tiêu điều trị (HbA1c <7,0%), biến chứng và bệnh kèm theo. BÀN LUẬN Đặc điểm dân số – xã hội mẫu nghiên cứu Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, những những đặc điểm nổi bật ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện quận 10: phần lớn là nữ, thuộc nhóm tuổi từ 60 tuổi trở lên, công việc hiện tại là hưu trí và nội trợ là chủ yếu, học vấn đa số là tốt nghiệp cấp 2 trở xuống, đa phần tự đánh giá kinh tế ở mức đủ sống, hầu hết đều sống chung với gia đình và có tham gia bảo hiểm y tế. Những đặc điểm này tương đồng với các đặc điểm về dân số – xã hội đã được ghi nhận trong các nghiên cứu khác trên người bệnh đái tháo đường type 2 tại thành phố Hồ Chí Minh như nghiên cứu của tác giả Ong Phúc Thịnh năm 2018 tại bệnh viện Trưng Vương(6), nghiên cứu của Võ Thị Xuân Hạnh và cộng sự tại Quận 10 năm 2016(8). Kết quả nghiên cứu cũng phù hợp với báo cáo của liên đoàn đái tháo đường thế giới năm 2017 ghi nhận nhóm tuổi mắc bệnh đái tháo đường type 2 chủ yếu hiện nay vẫn là nhóm trên 60 tuổi(1). Đặc điểm tình trạng bệnh lý và điều trị đái tháo đường type 2 của mẫu nghiên cứu Theo liên đoàn Đái thào đường thế giới ghi nhận, tỷ lệ hiện mắc đái tháo đường type 2 đang có xu hướng gia tăng ngày càng cao trong những năm gần đây, nhất là khu vực châu Á nói chung hay Việt Nam nói riêng(1). Vì vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng người bệnh đái tháo đường type 2 phát hiện bệnh đái tháo đường từ 1 – 5 năm chiếm tỷ lệ nhiều nhất (41,7%) là phù hợp với sự gia tăng về bệnh đái tháo đường tại Việt Nam những năm gần đây. Bên cạnh đó, vì đái tháo đường là một bệnh mãn tính, người bệnh phải thường xuyên tái khám định kỳ nên hầu hết người bệnh đái tháo đường type 2 tham gia nghiên cứu tự đánh giá tình trạng bệnh đái tháo đường của bản thân là bình thường (44,8%) là phù hợp. Theo hướng dẫn của Bộ Y tế năm 2017 về điều trị bệnh đái tháo đường type 2, việc sử dụng chủ yếu thuốc viên kết hợp với điều chỉnh lối sống bằng dinh dưỡng, luyện tập để kiểm soát bệnh đái tháo đường được khuyến nghị nên đa số các người bệnh đái tháo đường type 2 tại bệnh viện Quận 10 đều được điều trị chủ yếu bằng thuốc viên (72,4%) là phù hợp. Tuy nhiên, dựa trên chỉ số xét nghiệm HbA1c gần nhất, hầu hết người bệnh đái tháo đường type 2 tham gia nghiên cứu lại chưa đạt được mục tiêu điều trị là giữ chỉ số HbA1c <7,0% như khuyến cáo (74,1%). Do vậy, cần thực hiện thêm nghiên cứu về tuân thủ điều trị để đánh giá mức độ tuân thủ điều trị của người bệnh. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 46 Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hầu hết người bệnh đái tháo đường type 2 tham gia nghiên cứu đều chưa phát hiện biến chứng (89,3%) và phần lớn có đồng mắc kèm thêm các bệnh khác (80%), nổi bật nhất là bệnh tăng huyết áp (62,5%). Nguyên nhân có thể là vì hầu hết các người bệnh đều trên 60 tuổi (53,01%), cũng như giữa tăng huyết áp với bệnh đái tháo đường type 2 có mối liên hệ chặt chẽ và tỷ lệ song hành cao như ghi nhận của nhiều tài liệu về đái tháo đường type 2 tại Việt Nam và trên thế giới. Tỷ lệ và mức độ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 30% người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện quận 10 có stress tiêu cực. Trong đó, 24,1% là stress ở mức độ trung bình và 5,9% là stress ở mức độ nặng. Còn trong từng lĩnh vực được phân chia theo thang đo DDS, lĩnh vực có stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường được ghi nhận nhiều nhất là “Gánh nặng cảm xúc” (50,4%). Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với nghiên cứu cùng sử dụng thang đo DDS để đánh giá stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường được thực hiện tại Saudi Arabia năm 2018 trên 509 người bệnh đái tháo đường type 2 ghi nhận tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường chỉ là 25% với lĩnh vực stress nhiều nhất cũng là gánh nặng cảm xúc từ bệnh đái tháo đường (54%)(9). Kết quả nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu tổng quan về stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường từ 55 nghiên cứu trên toàn thế giới với tổng cỡ mẫu là 36998 người bệnh đái tháo đường type 2 ghi nhận tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường trung bình là 36%(10). Kết quả nghiên cứu này cũng thấp hơn so với nghiên cứu của Ong Phúc Thịnh năm 2018 tại bệnh viện Trưng Vương trên cùng đối tượng ghi nhận tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường là 36,3%(6). Sự chênh lệch có thể là do sự khác biệt về đặc điểm dân số – xã hội, sự khác nhau giữa các hệ thống chăm sóc sức khỏe cũng như phương pháp nghiên cứu. Nhưng nhìn chung, tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường thường mức cao, xấp xỉ 1/3 số tổng số người bệnh. Dựa trên các lĩnh vực được phân chia trong thang đo DDS, kết quả nghiên cứu cũng ghi nhận có sự khác biệt lớn về tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường trong từng lĩnh vực. Cụ thể là có hơn phân nửa tổng số người bệnh đái tháo đường type 2 tham gia nghiên cứu bị stress do gánh nặng cảm xúc từ bệnh đái tháo đường (50,4%), hơn 1/3 người bệnh bị stress liên quan đến điều trị (37,6%), trong khi các lĩnh vực khác như stress liên quan đến bác sĩ, stress trong các mối quan hệ chỉ chiếm các tỷ lệ thấp lần lượt là 15,2% và 12,4%. Điều này cho thấy phần lớn stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường là vì những cảm xúc tiêu cực do sống chung với bệnh đái tháo đường mang lại và vì những yêu cầu về điều trị cần phải tuân theo gây ra. Do đó, cần quan tâm hơn đến những lo ngại của người bệnh khi khám bệnh để có thể giải thích kịp thời, động viên tạo tâm lý lạc quan cho người bệnh, cũng như tăng cường giáo dục sức khỏe về kiến thức bệnh đái tháo đường, giúp người bệnh hiểu rõ hơn về bệnh và các sống chung với bệnh đái tháo đường. Các yếu tố liên quan đến stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường Nghiên cứu ghi nhận người có kinh tế khá giả thì có tỷ lệ stress tiêu cực cao gấp 2,3 lần so với người có tình trạng kinh tế đủ sống (p <0,01; KTC 95%: 1,3 – 4,1). Sự khác biệt này có thể là do số lượng mẫu ở nhóm tình trạng kinh tế khá giả tương đối nhỏ, chỉ 8 người bệnh nên có thể dẫn đến kết quả phân tích bị sai lệch. Do vậy cần có nghiên cứu với thiết kế nghiên cứu phù hợp và cỡ mẫu đủ lớn để đánh giá lại mối liên quan này. Nghiên cứu ghi nhận người đánh giá tình trạng bệnh đái tháo đường là nặng thì có tỷ lệ stress tiêu cực cao gấp 2,7 lần so với người đánh giá tình trạng bệnh là bình thường (p<0,001, KTC 95%: 1,8 – 4,2). Kết quả này phù hợp với kết quả đã ghi nhận ở trên rằng phần Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 47 lớn stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường là do gánh nặng cảm xúc nên khi người bệnh nghĩ tình trạng bệnh là nặng thì người bệnh đã và đang có tâm lý bi quan, khiến cho tăng nguy cơ bị stress tiêu cực. Nghiên cứu ghi nhận người có sử dụng thuốc tiêm Insulin thì có tỷ lệ stress tiêu cực cao gấp 1,7 lần so với những người bệnh chỉ sử dụng thuốc viên (p <0,01; KTC 95%: 1,2 – 2,3). Người bệnh đái tháo đường type 2 phải tiêm Insulin là do tình trạng sức khỏe của người bệnh trở nặng hoặc điều trị không còn đáp ứng với thuốc viên nên có thể vì thế mà tăng nguy cơ stress tiêu cực. Cũng có một số tài liệu cho rằng khi điều trị bằng thuốc tiêm thì có thể kèm theo nỗi sợ kim tiêm và dẫn đến sự phức tạp hóa trong điều trị hơn khi dùng thuốc uống(11) nên tăng nguy cơ cao hơn về stress tiêu cực. KẾT LUẬN Tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường type 2 mức độ trung bình trở lên tại bệnh viện Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh là 30%, với 24,1% ở mức độ trung bình, 5,9% ở mức độ nặng. Trong đó, theo phân loại lĩnh vực stress, tỷ lệ người bệnh có stress cảm xúc là 50,4%, stress liên quan đến điều trị là 37,6%, stress liên quan đến bác sĩ là 15,2%, stress trong các mối quan hệ là 12,4%. Nghiên cứu tìm thấy các yếu tố có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tỷ lệ stress tiêu cực ở người bệnh đái tháo đường là: Tình trạng kinh tế, tình trạng bệnh và thuốc điều trị đái tháo đường. KIẾN NGHỊ Người bệnh đái tháo đường type 2 cần được quan tâm toàn diện cả về sức khỏe thể chất lẫn sức khỏe tâm thần. Bác sĩ điều trị và nhân viên y tế nên thường xuyên đánh giá về stress ở người bệnh đái tháo đường nhằm góp phần nâng cao hiệu quả điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Trong đó cần chú ý hỗ trợ người bệnh đối với việc kiểm soát cảm xúc, đặc biệt là những người bệnh có tình trạng bệnh nghiêm trọng hay phải sử dụng thuốc tiêm insulin. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. International Diabetes Federation (2017). Diabetes Atlas 8th Edition. International Diabetes Federation, pp.40-46. 2. Dennick K, Sturt J, Speight J (2017). What is diabetes distress and how can we measure it? A narrative review and conceptual model. Journal of Diabetes and Its Complications, 31(5):898-911. 3. Egede LE, Dismuke CE (2012). Serious psychological distress and diabetes: a review of the literature. Current Psychiatry Reports, 14(1):15-22. 4. American Diabetes Association (2019). Standards of Medical Care in Diabetes 2019. Diabetes Care, 42, S81. 5. Diabetes Canada Clinical Practice Guidelines Expert Committee (2018). Diabetes Canada 2018 clinical practice guidelines for the prevention and management of diabetes in Canada. Can J Diabetes, 42(1):S130. 6. Ong Phúc Thịnh (2018). Tính tin cậy và giá trị của thang đo stress tiêu cực do Đái tháo đường DDS. Khóa luận Tốt nghiệp Bác sĩ Y học Dự phòng, ĐH Y Dược TP. HCM. 7. Polonsky WH, Fisher L, Earles J, Dudl RJ, Lees J, Mullan J, et al (2005). Assessing psychosocial distress in diabetes: development of the diabetes distress scale. Diabetes Care, 28(3):626-631. 8. Võ Thị Xuân Hạnh, Cao Nguyễn Hoài Thương, Phan Thị Kim Hoàng, Nguyễn Thị Thanh Mai, Trần Vĩnh Tài, Tô Hoàng Linh, et al (2017). Tỷ lệ tăng huyết áp và đái tháo đường qua khảo sát trên mẫu đại diện cộng đồng dân cư tại quận nội thành Tp.Hồ Chí Minh. Tạp chí Y học dự phòng, 27(8):79-87. 9. Aljuaid MO, Almutairi AM, Assiri MA, Almalki DA, Alswat K (2018). Diabetes-Related Distress Assessment among Type 2 Diabetes Patients. Journal of Diabetes Research, 2018:7328128. 10. Perrin NE, Davies MJ, Robertson N, Snoek FJ, Khunti K (2017). The prevalence of diabetes-specific emotional distress in people with Type 2 diabetes: a systematic review and meta-analysis. Diabetic Medicine, 34(11):1508-1520. 11. Wild D, Maltzahn RV, Brohan E, Christensen T, Clauson P, Gonder-Frederick L (2007). A critical review of the literature on fear of hypoglycemia in diabetes: Implications for diabetes management and patient education. Patient Education and Counseling, 68(1):10-15. Ngày nhận bài báo: 15/11/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/11/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020
File đính kèm:
stress_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_benh_dai_thao_duong_t.pdf

