Stress nghề nghiệp ở điều dưỡng viên trong quá trình chăm sóc bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi Trung Ương, năm 2017

I. TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

Mục tiêu: Mô tả yếu tố stress nghề nghiệp ở điều

dưỡng viên trong quá trình chăm sóc bệnh nhi tại Bệnh

viện Nhi Trung ương năm 2017. Phương pháp: Nghiên

cứu cắt ngang, nghiên cứu định lượng kết hợp định tính,

sử dụng thang đo NSS (Nursing Stress Scale) trên 287

điều dưỡng viên tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Kết quả:

Stress do thực hiện chăm sóc bệnh nhân đau đớn mức

điểm 2,29±0,76, mức thường xuyên 32,7%; Stress do

chứng kiến kiến bệnh nhân trải qua những cơn đau mức

điểm 2,36±0,7, mức thường xuyên 40,8%; stress do cảm

thấy bất lực khi thấy bệnh nhân không cải thiện được mức

điểm 2,17±0,65, mức thường xuyên 32,7%. Kết luận:

Stress nghề nghiệp trong tiếp xúc với bệnh nhi có mức độ

cao ở chỉ số chứng kiến bệnh nhân trải qua cơn đau, chăm

sóc bệnh nhân đau đớn, cảm thấy bất lực khi bệnh nhân

không cải thiện được

pdf 4 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Stress nghề nghiệp ở điều dưỡng viên trong quá trình chăm sóc bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi Trung Ương, năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Stress nghề nghiệp ở điều dưỡng viên trong quá trình chăm sóc bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi Trung Ương, năm 2017

Stress nghề nghiệp ở điều dưỡng viên trong quá trình chăm sóc bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi Trung Ương, năm 2017
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 21
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Mục tiêu: Mô tả yếu tố stress nghề nghiệp ở điều 
dưỡng viên trong quá trình chăm sóc bệnh nhi tại Bệnh 
viện Nhi Trung ương năm 2017. Phương pháp: Nghiên 
cứu cắt ngang, nghiên cứu định lượng kết hợp định tính, 
sử dụng thang đo NSS (Nursing Stress Scale) trên 287 
điều dưỡng viên tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Kết quả: 
Stress do thực hiện chăm sóc bệnh nhân đau đớn mức 
điểm 2,29±0,76, mức thường xuyên 32,7%; Stress do 
chứng kiến kiến bệnh nhân trải qua những cơn đau mức 
điểm 2,36±0,7, mức thường xuyên 40,8%; stress do cảm 
thấy bất lực khi thấy bệnh nhân không cải thiện được mức 
điểm 2,17±0,65, mức thường xuyên 32,7%. Kết luận: 
Stress nghề nghiệp trong tiếp xúc với bệnh nhi có mức độ 
cao ở chỉ số chứng kiến bệnh nhân trải qua cơn đau, chăm 
sóc bệnh nhân đau đớn, cảm thấy bất lực khi bệnh nhân 
không cải thiện được.
Từ khóa: Stress nghề nghiệp; điều dưỡng viên; bệnh nhi.
ABSTRACT: WORK STRESS IN NURSING 
PROFESSION AT VIETNAM NATIONAL 
CHILDREN’S HOSPITAL IN 2017
Objectives: To describe stressful factors in nursing 
profession in patient care at Vietnam National Children’s 
Hospital (VNCH) in 2017. Methodology: A cross-
sectional study combined with qualitative and quantitative 
method was conducted on 287 nurses at VNCH, using 
Nursing Stress Scale (NSS). Result: Stress score due 
to giving care for patients with pain was 2,29±0,76, 
frequency level was 32,7%; Stress due to see patients 
suffering from pains was 2,36±0,7, frequency level was 
40,8%; stress due to be unable to get patients improved 
was 2,17±0,65, frequency level was 32,7%. Conclusion: 
Stressful factors in nursing profession include seeing 
patients suffering from pains, giving care for patients who 
suffer lots of pain and the helpless feeling when patients 
cannot get better.
Keywords: Work stress in nursing profession; nurses; 
patients
II. ĐẶT VẤN ĐỀ
Stress nghề nghiệp là “phản ứng lại, con người có 
thể có khi có yêu cầu và áp lực công việc mà nó không 
đồng hành với kiến thức, khả năng và điều đó thay đổi 
khả năng đương đầu. Theo WHO(1948): stress hiện diện 
trong tất cả các môi trường làm việc, tuy nhiên, nó sẽ trở 
thành tiêu cực khi người lao động không nhận được sự 
khích lệ đầy đủ từ cấp trên, đồng nghiệp hoặc khi người 
lao động không được tự chủ trong quá trình làm việc [1]. 
Theo Zuccolo (2013), các tác nhân gây stress được phân 
loại thành nguyên nhân thể chất hoặc nguyên nhân tâm 
lý. Những tác nhân này cũng có thể được phân loại trên 
phương diện môi trường, xã hội tâm sinh lý hoặc nhận 
thức và cảm xúc [1].
Điều dưỡng là một môn nghệ thuật và khoa học 
nghiên cứu cách chăm sóc bệnh nhân [2]–[4]. Quá trình 
chăm sóc bệnh nhân có thể sinh ra các vấn đề stress có 
thể do thiếu sự chuẩn bị hoặc mắc stress do các nhận 
thức và cảm xúc khi chứng kiến cơn đau, cái chết ở 
người bệnh.
Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu đánh giá stress nghề 
nghiệp, tuy vậy các nghiên cứu stress nghề nghiệp ở điều 
dưỡng viên sử dụng thang đo NSS còn hạn chế. Nhằm 
đánh giá thực trạng qua đó tìm ra giải pháp can thiệp 
stress nghề nghiệp ở điều dưỡng viên, do vậy chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu: “Stress nghề nghiệp ở điều dưỡng 
viên trong quá trình chăm sóc bệnh nhi, tại Bệnh viện 
Nhi Trung ương năm 2017”.
Ngày nhận bài: 03/08/2017 Ngày phản biện: 10/08/2017 Ngày duyệt đăng: 09/08/2017
1. Bệnh viện Nhi Trung ương;
2. Trường Đại học Y tế Công cộng Hà Nội
3. Bộ Y tế
STRESS NGHỀ NGHIỆP Ở ĐIỀU DƯỠNG VIÊN TRONG QUÁ 
TRÌNH CHĂM SÓC BỆNH NHI TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG 
ƯƠNG, NĂM 2017
Trần Văn Thơ1, Phạm Thu Hiền1, Lã Ngọc Quang2, Nguyễn Thanh Hà3
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn22
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: Điều dưỡng viên làm việc 
tại Bệnh viện Nhi trung ương, đồng ý tham gia nghiên 
cứu, có thời gian làm việc tại Bệnh viện Nhi Trung ương 
tối thiểu là 6 tháng tính đến thời điểm nghiên cứu
2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng phương 
pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Nghiên cứu định lượng, 
sau khi có kết quả sơ bộ sẽ tiến hành kết hợp định tính để 
bổ sung những thông tin chưa được làm rõ.
3. Cỡ mẫu: Sử dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên 
cứu cắt ngang xác định một tỷ lệ:
n: là số ĐDV cần lựa chọn tham gia nghiên cứu.
p = 0,408 (là tỷ lệ giả định ĐDV Bệnh viện Nhi Trung 
ương mắc stress nghề nghiệp, ước tính theo kết quả nghiên 
cứu của Mai Hòa Nhung tại Bệnh viện GTVT năm 2014)[1]
Z = 1,96
d = 0,09 là sai số tuyệt đối
k=2 là hệ số tác động của phương pháp chọn mẫu dự 
kiến (chọn mẫu cụm)
Thay các giá trị trên vào công thức ta được n = 230, 
cộng 10% mẫu dự phòng. Tổng số ĐDV dự kiến cần 
chọn là 260 người. Thực tế chọn được 287 mẫu tham gia 
nghiên cứu 
4. Thang đo đánh giá stress nghề nghiệp ở điều 
dưỡng:
Nghiên cứu sử dụng thang đo NSS (Nursing Stress 
Scale) là thang đo được sử dụng phổ biến trong việc đo 
lường stress liên quan đến nghề nghiệp ở ĐDV [5]. 
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Các yếu tố SNN có mặt ở ĐDV cao nhất là chứng kiến 
bệnh nhân trải qua cơn đau với điểm trung bình là 2,36 ± 
0,70 và mức độ chịu đựng do chứng kiến thường xuyên 
là 40,8%. Trong khi đó thấp nhất là ĐDV chứng kiến 
BN chết khi bác sỹ không có mặt với điểm trung bình là 
1,53±0,69, mức độ thường xuyên là 7,6%..
Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy tất cả 
các ĐDV đều phải chứng kiến cơn đau của người bệnh, 
đặc biệt là ở những khoa cấp cứu. “Ở khoa này [Khoa 
cấp cứu chống độc] ngày nào chúng tôi trực cũng phải 
chứng kiến những cơn đau của bệnh nhi trong suốt ca 
trực” (ĐDV khoa Cấp cứu - Chống độc). Nhiều ĐDV 
cho biết họ không nén nổi cảm xúc khi thấy bệnh nhân 
vật vã trước cơn đau, có những ĐDV đã khóc khi chăm 
sóc người bệnh: “Bệnh nhân đau đớn vật vã, khi chăm 
sóc, nhiều người đã khóc vì cảm thấy bất lực trước cơn 
Bảng 1. SNN do chứng kiến cơn đau, cái chết của bệnh nhi theo thang đo NSS
Chỉ số stress nghề nghiệp
Điểm 
(n=287)
Mức thường 
xuyên (n=287)
Trung bình SD SL Tỷ lệ %
Thực hiện chăm sóc 
bệnh nhân đau đớn
2,29 0,76 94 32,7
Chứng kiến kiến bệnh nhân 
trải qua những cơn đau
2,36 0,7 117 40,8
Cảm thấy bất lực khi thấy 
bệnh nhân không cải thiện được
2,17 0,65 94 32,7
Nghe hoặc nói với bệnh nhân/người nhà bệnh 
nhân về khả năng người bệnh sẽ chết
1,96 0,7 49 17,1
Chứng kiến cái chết của bệnh nhân 2,03 0,69 46 16,0
Thấy cái chết của bệnh nhân có mối quan hệ quen 
biết/thân thuộc
1,7 0,71 27 9,4
Bác sỹ không có mặt khi 
bệnh nhân tử vong
1,53 0,69 23 7,6
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 23
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Như vậy, trong các chỉ số SNN do thiếu sự chuẩn bị ở 
ĐDV, chỉ số do bệnh nhân hỏi những điều mà không thỏa 
mái trả lời được có điểm cao nhất với 2,1±0,68, trong đó 
mức thường xuyên chiếm 19,9%. Thấp nhất là ĐDV cảm 
giác thiếu sự chuẩn bị để giúp đỡ với những cảm xúc của 
gia đình người bệnh.
Nghiên cứu định tính cho thấy nguyên nhân thiếu sự 
chuẩn bị thường là do ĐDV quá tải bệnh nhân. “Một ca 
trực chị phải chăm sóc gần 20 bệnh nhân thì làm sao mà 
có thể chăm sóc, giúp đỡ bệnh nhân đầy đủ hết về mặt 
cảm xúc hay trả lời câu hỏi người nhà bệnh nhân” (ĐDV 
khu vực cấp cứu).“Em đón tiếp một ngày hàng trăm bệnh 
nhân, nên cố gắng trả lời hết câu hỏi người nhà, nhưng 
chắc là cũng không trả lời được hết” (ĐDV khu vực 
phòng khám).
Nghiên cứu định tính cho thấy các giải pháp đưa ra là 
cần chủ động trong công tác kế hoạch qua đó phân bổ khối 
lượng công việc hợp lý, và đa phần ĐDV thừa nhận vai trò 
quan trọng việc đào tạo, tập huấn thường xuyên kỹ năng 
ứng xử với BN. “Cần có kế hoạch phân công bố trí người 
hợp lý, đặc biệt là những hôm đông bệnh nhân, như vậy 
mới đảm bảo được ĐD thực hiện được tốt công việc của 
mình” (Một ĐDV khu vực cấp cứu).
V. BÀN LUẬN
* SNN do chứng kiến cơn đau, cái chết của BN theo 
thang đo NSS
ĐDV là một nghề không chỉ đòi hỏi trình độ chuyên 
môn, kỹ năng mà nó còn đòi hỏi đạo đức, tình thương đối 
với mỗi bệnh nhân [4]. Phải chứng kiến cơn đau đớn, cái 
chết bệnh nhân thường làm cho ĐDV ám ảnh, làm thay 
đổi suy nghĩ, cảm xúc của bản thân mỗi ĐDV và điều đó 
gây ra stress nghề nghiệp ở ĐDV.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ĐDV phải thực hiện 
chăm sóc bệnh nhân đau đớn có mức điểm là 2,29±0,76, 
mức thường xuyên và rất thường xuyên chiếm 32,7%. 
Nghiên cứu của chúng tôi cao hơn của Trần Thị Ngọc Mai 
ở nhóm ĐDV vừa học vừa làm có mức điểm chăm sóc 
bệnh nhân đau đớn là 1,99±1,28 [6]. Tại Bệnh viện Nhi 
Trung ương, chăm sóc bệnh nhân đau đớn thường ở các 
khoa hồi sức cấp cứu, Cấp cứu - chống độc nhiều hơn ở 
các khoa nội trú khác. 
Nghiên cứu định tính của chúng tôi cũng cho thấy 
nhiều ĐDV không nén nổi cảm xúc khi thấy bệnh nhân 
vật vã trước cơn đau, có những ĐDV đã khóc khi chăm 
sóc người bệnh. Sự thay đổi cảm xúc, sự ám ảnh với cơn 
đau của ĐDV gây stress nghề nghiệp của ĐDV và có thể 
ảnh hưởng đến chất lượng công việc mỗi ĐDV, ảnh hưởng 
đến các rối loạn cảm xúc và sức khỏe của điều dưỡng sau 
khi thực hiện công việc, Do vậy, bố trí công việc trong đó 
tiếp xúc với bệnh nhân đau đớn ở mức thời gian hợp lý là 
cần thiết.
Nghiên cứu cho thấy ĐDV cảm thấy bất lực khi thấy 
bệnh nhân không cải thiện được có mức điểm 2,17±0,65, 
đau” (ĐDV khoa Hồi sức cấp cứu). Nghiên cứu định 
tính cũng cho thấy các ĐD khi chứng kiến cái chết của 
bệnh nhi, nhiều người cảm thấy rất buồn bã và chia sẻ 
cùng nỗi đau của gia đình người bệnh. “Mỗi ca tử vong, 
dù là nguyên nhân gì đi nữa, chúng tôi vẫn cảm thấy 
chưa hoàn thành trách nhiệm với công việc” (ĐD khoa 
hồi sức cấp cứu).
Về đề xuất giảm SNN do chứng kiến cái chết, đa phần 
ĐDV đều mong muốn bệnh viện đầu tư TTB đầy đủ, các 
NVYT được đào tạo tốt và cần giảm bớt giờ làm cho cán 
bộ ĐDV làm công tác cấp cứu. “Ngày nào chúng tôi cũng 
phải chịu đựng những cảnh đau đớn, những cái chết, nên 
khi làm việc liên tục như vậy chúng tôi sẽ dễ mắc [bệnh] 
tâm thần mất” (Một ĐD khoa cấp cứu).
Bảng 2. Stress nghề nghiệp do ĐDV thiếu sự chuẩn bị trước khi tiếp xúc với BN
Chỉ số stress nghề nghiệp
Điểm
(n=287)
Mức thường xuyên 
(n=287)
Trung bình SD SL Tỷ lệ %
Cảm giác thiếu sự chuẩn bị để giúp đỡ với những cảm xúc 
của gia đình NB
1,84 0,61 25 8,7
Được bệnh nhân hỏi những điều mà không thỏa mái trả lời 2,10 0,68 57 19,9
Cảm giác thiếu sự chuẩn bị để giúp đỡ nhu cầu cảm xúc 
của người bệnh
1,97 0,57 39 13,6
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn24
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
mức thường xuyên phải chứng kiến chiếm đến 32,7%. 
Kết quả của chúng tôi cao hơn so với của Trần Thị 
Ngọc Mai với mức điểm ở chỉ số này là 1,85±1,0, tần 
suất stress 0,99 [6]. Cảm thấy bất lực chính là cảm nhận 
không đáp ứng được nhu cầu chuyên môn trong sự kỳ 
vọng của người bệnh và gia đình người bệnh, điều đó 
có thể gây ra sự dằn vặt lương tâm, sự thất vọng bản 
thân trong việc chăm sóc người bệnh.
Ở chỉ số ĐDV nghe hoặc nói với bệnh nhân/người nhà 
bệnh nhân về khả năng người bệnh sẽ chết trong nghiên 
cứu có mức điểm 1,96±0,7, mức thường xuyên ở ĐDV 
chiếm 17,1%. Nghiên cứu của chúng tôi cao hơn của 
Trần Thị Ngọc Mai trong đó mức điểm là 0,69±1,15, tần 
suât gây stress là 0,36 [6]. Nghe nói hoặc nói về người 
bệnh khả năng sẽ chết là việc phải truyền tải các thông 
tin không mong muốn. Điều đó gây ra những căng thẳng 
và sự ám ảnh cho mỗi ĐDV. Theo Đỗ Mạnh Hùng điều 
dưỡng là nghề mà đòi hỏi tình thương, sự cảm thông chia 
sẻ với những nỗi đau, mất mát của người bệnh và gia đình 
người bệnh [4].
Trong nghiên cứu việc ĐDV chứng kiến cái chết của 
bệnh nhân có mức điểm 2,03 ±0,7, mức độ thường xuyên 
và rất thường xuyên chiếm 16,0%. Nghiên cứu của chúng 
tôi thấp hơn nhiều so với Trần Thị Ngọc Mai với mức 
điểm trung bình là 2,37±1,69 [6], Nghiên cứu định tính 
cũng cho thấy việc chứng kiến cái chết thường gây ra sự 
ám ảnh, nỗi buồn vì sự bất lực, điều đó có thể gây ra tâm 
trạng tự trách bản thân, tâm trạng buồn. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi việc ĐDV thấy cái 
chết của bệnh nhân có mối quan hệ quen biết/thân thuộc 
có mức điểm 1,70±0,71, mức thường xuyên chứng kiến là 
9,41%. Nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với Trần Thị 
Ngọc Mai với mức điểm trung bình là 1,13±1,29, tần suất 
stress 0,53 [6]. Bệnh nhân, nhất là người quen thuộc đối 
với ĐDV, gây ra tâm trạng buồn hơn, và có thể làm suy 
sụp tinh thần cũng như sư tự tin vào bản thân trong việc 
điều trị người bệnh.
Trong nghiên cứu việc bác sỹ không có mặt khi bệnh 
nhân chết có mức điểm 1,53±0,69, mức thường xuyên và 
rất thường xuyên chiếm 7,67%. Nghiên cứu của chúng tôi 
cao hơn nhiều so với Trần Thị Ngọc Mai trong đó mức 
điểm là 1,39±1,66, tần suất stress ở chỉ số này là 0,40 
[6]. Công việc chăm sóc và điều trị người bệnh thường 
có sự tham gia của đội ngũ e kíp bác sỹ, điều dưỡng và 
kỹ thuật viên. Đôi khi vì một lý do nào đó bệnh nhân suy 
giảm chức năng sống, sự vắng mặt của bác sỹ, thường gây 
ra những lo lắng, đôi khu là sự tuyệt vọng trong những 
trường hợp bệnh nhân tử vong.
SNN do ĐDV thiếu sự chuẩn bị trong tiếp xúc với 
BN
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ĐDV cảm giác 
thiếu sự chuẩn bị để giúp đỡ với những cảm xúc của gia 
đình bệnh nhi có mức điểm 1,84±0,6, mức thường xuyên 
là 8,7%. Theo Đỗ Mạnh Hùng hỗ trợ cảm xúc cho gia 
đình bệnh nhi bằng những lời động viên, an ủi là cần thiết 
giúp quá trình chăm sóc bệnh nhi được tốt hơn [4]. Do 
vậy, sự thiếu thời gian hỗ trợ cảm xúc cho gia đình tạo 
nên sự khó khăn hơn và căng thẳng hơn trong việc chăm 
sóc người bệnh.
Việc ĐDV được bệnh nhân hỏi những điều mà không 
thỏa mái trả lời có mức điểm 2,10±0,68, mức thường 
xuyên và rất thường xuyên chiếm tỷ lệ 19,9%. Không 
thỏa mái trả lời chính là không đáp ứng được với nhu cầu 
người bệnh, điều đó tạo ra sự căng thẳng trong công việc 
của ĐDV. Theo Đỗ Mạnh Hùng trả lời đầy đủ các câu hỏi 
của người bệnh chính là nghĩa vụ công việc hàng ngày của 
mỗi ĐDV [4]
Việc ĐDV cảm giác thiếu sự chuẩn bị để giúp đỡ nhu 
cầu cảm xúc của người bệnh có mức điểm trung bình là 
1,98±0,6, mức thường xuyên và rất thường xuyên chiếm 
13,6%. Nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Mai cho thấy ĐDV 
không đủ thời gian để hỗ trợ tâm lý người bệnh có mức 
điểm 1,36±0,98, tần suất stress là 1,07 (059) [6].
Thực tế tại Bệnh viện Nhi Trung ương, với nguồn 
nhân lực còn mỏng, trong khi công tác chăm sóc bệnh nhi 
thường thiếu chủ động, tình trạng quá tải tại bệnh viện là 
phổ biến thì việc chuẩn bị tốt là việc rất khó khăn. Mặc 
dù vậy, bệnh viện cũng cần đảm bảo thực hiện tốt công 
tác tập huấn kỹ năng cho cán bộ, để hạn chế việc mất chủ 
động trong việc chăm sóc người bệnh.
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu trên 287 điều dưỡng viên tại Bệnh viện 
Nhi Trung ương cho thấy trong quá trình chăm sóc bệnh 
nhi stress do chứng kiến cơn đau, cái chết bệnh nhi cao 
nhất là các chỉ số chứng kiến bệnh nhân trải qua cơn đau, 
chăm sóc bệnh nhân đau đớn, cảm thấy bất lực khi bệnh 
nhân không cải thiện được. Stress do thiếu sự chuẩn bị 
cao nhất là do được bệnh nhân hỏi những điều mà không 
thỏa mái trả lời.
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh viện cần có thời 
gian làm việc hợp lý cho các điều dưỡng viên chăm sóc 
các bệnh nhi nặng, đặc biệt ở các khoa cấp cứu. Bệnh viện 
cũng cần tập huấn trang bị các kỹ năng và sự chuẩn bị tâm 
lý khi tiếp xúc với bệnh nhi nặng.

File đính kèm:

  • pdfstress_nghe_nghiep_o_dieu_duong_vien_trong_qua_trinh_cham_so.pdf