Stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2017

Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện Đại học Y Hà

Nội năm 2017. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang phỏng vấn trực tiếp 191 điều dưỡng lâm sàng đang

làm việc tại Bệnh viện Trường Đại học Y Hà Nội năm 2017 theo Bộ câu hỏi cấu trúc. Kết quả nghiên cứu cho

thấy tỷ lệ stress nghề nghiệp của điều dưỡng khối lâm sàng Bệnh viện Đại học Y Hà Nội là 35,1%. Theo mức

độ stress, tỷ lệ điều dưỡng mắc ở mức độ nhẹ là 22,1%, vừa là 10,5%, nặng là 2,1%, và không có ai mắc stress

ở mức độ rất nặng. Phân bố stress nghề nghiệp chủ yếu ở nhóm đối tượng dưới 30 tuổi (chiếm tỷ lệ 61,2%) và

nhóm có thời gian công tác từ 5 năm trở xuống (64,2%). Nghiên cứu này cho thấy stress ở điều dường lâm sàng

tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội là khá phổ biến. Cần có các biện pháp nhằm giảm thiểu tỷ lệ stress nghề nghiệp

trong nhóm điều dưỡng lâm sàng để đảm bảo sức khoẻ cho người lao động và nâng cao năng suất lao động

pdf 6 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2017

Stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2017
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 20208
STRESS NGHỀ NGHIỆP CỦA ĐIỀU DƯỠNG LÂM SÀNG TẠI 
BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM 2017 
Lê Thị Thanh Xuân , Đặng Kim Oanh, Nguyễn Thúy Hiền, Lê Thị Thanh Hà
Viện Đào tạo YHDP &YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội năm 2017. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang phỏng vấn trực tiếp 191 điều dưỡng lâm sàng đang 
làm việc tại Bệnh viện Trường Đại học Y Hà Nội năm 2017 theo Bộ câu hỏi cấu trúc. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy tỷ lệ stress nghề nghiệp của điều dưỡng khối lâm sàng Bệnh viện Đại học Y Hà Nội là 35,1%. Theo mức 
độ stress, tỷ lệ điều dưỡng mắc ở mức độ nhẹ là 22,1%, vừa là 10,5%, nặng là 2,1%, và không có ai mắc stress 
ở mức độ rất nặng. Phân bố stress nghề nghiệp chủ yếu ở nhóm đối tượng dưới 30 tuổi (chiếm tỷ lệ 61,2%) và 
nhóm có thời gian công tác từ 5 năm trở xuống (64,2%). Nghiên cứu này cho thấy stress ở điều dường lâm sàng 
tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội là khá phổ biến. Cần có các biện pháp nhằm giảm thiểu tỷ lệ stress nghề nghiệp 
trong nhóm điều dưỡng lâm sàng để đảm bảo sức khoẻ cho người lao động và nâng cao năng suất lao động. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Stress nghề nghiệp, điều dưỡng, bệnh viện
Stress nghề nghiệp có thể hiểu là “sự mất cân 
bằng giữa yêu cầu và khả năng lao động”, sự 
mất cân bằng này được gây ra bởi mối tương 
tác giữa các yếu tố hay điều kiện lao động làm 
thay đổi chức năng bình thường về tâm sinh lý 
của người lao động.¹ Hiện nay trên thế giới các 
nghiên cứu về stress nghề nghiệp chủ yếu tập 
trung ở nhóm đối tượng công nhân nhà máy, 
nhân viên văn phòng, giáo viên các nghiên 
cứu này báo cáo về tỉ lệ stress nghề nghiệp ở 
các nhóm tuổi, ảnh hưởng của stress nghề 
nghiệp lên sức khỏe, và các yếu tố liên quan đến 
stress nghề nghiệp.2-4 Trong bối cảnh ngày nay, 
đi cùng với sự phát triển của đất nước là nguy 
cơ xảy ra các tai nạn, bệnh tật khiến bệnh nhân 
phải đến viện ngày càng đông. Điều này vô tình 
làm tăng gánh nặng công việc cho nhân viên y 
tế, dẫn đến nguy cơ bị stress nghề nghiệp cao, 
đặc biệt là điều dưỡng viên khối lâm sàng. Nhân 
viên điều dưỡng (NVĐD) phải làm việc trong môi 
trường có khối lượng công việc lớn, trách nhiệm 
nặng nề, trực đêm, phải đối mặt với phản ứng 
tiêu cực từ bệnh nhân và người nhà, có nguy 
cơ cao mắc các bệnh truyền nhiễm do tiếp xúc 
trực tiếp với người bệnhCác nghiên cứu trên 
thế giới cho thấy điều dưỡng là một trong những 
nhân viên Y tế có nhiều stress nghề nghiệp. Theo 
Tayebe Mehrabi và cộng sự, năm 2010, tại một 
bệnh viện ở Iran có tới 73,5% điều dưỡng viên 
có trải nghiệm về stress. Có một mối liên quan 
có ý nghĩa giữa đặc điểm nhân khẩu học, tình 
trạng hôn nhân và giờ làm việc với stress nghề 
nghiệp.⁵ Tại Việt Nam, các nghiên cứu về stress 
còn hạn chế. Trong một nghiên cứu của Trần 
Tác giả liên hệ: Lê Thị Thanh Xuân, Viện Đào tạo 
YHDP & YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 01/02/2020
Ngày được chấp nhận: 03/04/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 9
Thị Thu Thủy tại Bệnh viện Việt Đức năm 2015 
cho thấy tỷ lệ căng thẳng nghề nghiệp của điều 
dưỡng là 18,5%, các yếu tố liên quan tới căng 
thẳng gồm tham gia công tác quản lý, mối quan 
hệ với đồng nghiệp và mâu thuẫn với cấp trên.⁶
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội được thành lập 
vào năm 2007 với đội ngũ bác sỹ và các nhân 
viên khác có trình độ và tay nghề vững vàng, tinh 
thần trách nhiệm cao, thái độ ân cần, hết lòng với 
bệnh nhân. Sau hơn 10 năm hoạt động, bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội đã trở thành một trong 
những bệnh viện uy tín của miền Bắc, được mọi 
người dân tin tưởng, tín nhiệm, số bệnh nhân 
đến khám bệnh ngày càng đông. Đi cùng với 
sự phát triển của bệnh viện là gánh nặng công 
việc cho nhân viên y tế phải làm việc với cường 
độ cao và trách nhiệm nặng nề, đặc biệt là nhân 
viên điều dưỡng. Tuy nhiên cho đến nay chưa có 
nghiên cứu nào về stress nghề nghiệp của các 
NVĐD, trong bối cảnh số lượng bệnh nhân đến 
bệnh viện ngày càng đông. Chính vì vậy chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định tỷ 
lệ căng thẳng nghề nghiệp của điều dưỡng lâm 
sàng tại Bệnh viện Đại học Y Hà nội năm 2017.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nhân viên điều dưỡng làm việc tại các khoa 
lâm sàng của Bệnh viện Đại học Y Hà Nội có ký 
hợp đồng với bệnh viện ít nhất từ 1 năm trở lên.
Chọn toàn bộ điều dưỡng lâm sàng tại bệnh 
viện Đại học Y Hà nội đồng ý tham gia nghiên 
cứu. Tổng cộng chúng tôi đã nghiên cứu được 
191/227 điều dưỡng lâm sàng của bệnh viện 
(chiếm tỷ lệ 84,1%). Số còn lại không tham gia 
nghiên cứu do không đủ tiêu chuẩn lựa chọn, từ 
chối tham gia, đi học, nghỉ thai sản tại thời điểm 
nghiên cứu.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Áp dụng thiết kế nghiên 
cứu mô tả cắt ngang, được tiến hành bằng cách 
phỏng vấn trực tiếp sử dụng bộ câu hỏi có cấu 
trúc, được thử nghiệm trước khi điều tra chính 
thức.
Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành từ tháng 10/2016 đến 5/2017. Thời gian thu 
thập số liệu được thực hiện vào 2 tuần cuối tháng 
12 năm 2016
Địa điểm nghiên cứu: Được tiến hành tại 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
Công cụ thu thập số liệu: Cho tới nay có một 
số bộ câu hỏi đo lường stress nghề nghiệp trong 
nhân viên y té như JCQ8 hay DASS21 Nghiên 
cứu này sử dụng bộ câu hỏi được thiết kế sẵn 
tham khảo thang đo DASS21 được áp dụng 
trong các nghiên cứu trước đó và được thử 
nghiệm trên 10 điều dưỡng tại một số khoa. Sau 
đó bộ câu hỏi được hiệu chỉnh lại cho rõ ràng và 
áp dụng thu thập thông tin chính thức. Các nội 
dung đã sửa bao gồm biến số về: thu nhập, thời 
gian công tác. 
3. Xử lý số liệu
Số liệu được làm sạch, nhập bằng phần mềm 
Epidata 3.1. Số liệu được phân tích bằng phần 
mềm STATA 12.0. Thống kê mô tả được áp dụng 
để tính tỷ lệ stress nghề nghiệp và phân bố nghề 
nghiệp, mức ý nghĩa thống kê được xác định là 
0,05.
Stress nghề nghiệp hay căng thẳng được 
tính bằng cách cộng tổng điểm của 7 câu hỏi về 
stress trong DASS 21, nhân hệ số 2, và chia theo 
các mức⁷:
Bảng 1. Bảng thang điểm đánh giá mức độ 
stress
Mức độ stress Thang điểm
Bình thường 0 – 14
Nhẹ 15 – 18
Vừa 19 – 25
Nặng 26 – 33
Rất nặng ≥ 34
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 202010
Biều đồ 1. Phân bố mức độ mắc stress nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đối tượng mắc stress nghề nghiệp là 35,1%. Trong đó, tỷ lệ 
đối tượng nghiên cứu có biểu hiện ở mức độ nhẹ chiếm 22,5%, mức độ vừa chiếm 10,5%, mức độ 
nặng chiếm 2,1 % và không có ai có biểu hiện ở mức độ rất nặng.
Biểu đồ 2. Phân bố tình trạng mắc stress nghề nghiệp của NVĐD theo nhóm tuổi
Kết quả từ biểu đồ cho thấy trong những đối tượng mắc stress nghề nghiệp, nhóm đối tượng 
dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ chủ yếu (61,2%).
4. Đạo đức nghiên cứu
Chỉ tiến hành nghiên cứu khi đối tượng 
đồng ý tham gia nghiên cứu và chỉ thực hiện 
sau khi có sự cho phép của lãnh đạo bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội. Mọi thông tin của đối 
tượng tham gia nghiên cứu đều được giữ kín 
và chỉ được sử dụng với mục đích nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Trong 191 đối tượng nghiên cứu, nữ chiếm 
tỷ lệ gần gấp 3 lần nam (74,3% so với 25,7%). 
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu có tuổi dưới 30 
chiếm (chiếm 63,9%). Tuổi trung bình của các 
đối tượng nghiên cứu là 28,5, thấp nhất là 21, 
cao nhất là 44. Về trình độ văn hoá, tỷ lệ nhóm 
có trình độ trung cấp cao nhất (37,2%), tiếp đến 
là nhóm trình độ cao đẳng (31,9%), đại học 
(28,8%), nhóm đối tượng có trình độ sau đại 
học chiếm tỷ lệ thấp nhất (2,1%). Về tuổi nghề, 
nhóm đối tượng có thâm niên công tác dưới 5 
năm trở lên là chủ yếu, chiếm tỷ lệ là 62,8%. 
Thời gian công tác trung bình của các đối 
tượng nghiên cứu là 3,68 năm, thấp nhất là 1 
năm, cao nhất là 8 năm. Về thu nhập, nhóm đối 
tượng có thu nhập dưới 10 triệu/tháng chiếm tỷ 
lệ cao nhất (58,1%), tiếp đến là nhóm đối tượng 
có thu nhập từ 10 đến 15 triệu/tháng (32,5%), 
và chiếm tỷ lệ thấp nhất là nhóm đối tượng có 
thu nhập trên 15 triệu/tháng (9,4 %).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 11
Biểu đồ 3. Phân bố tình trạng mắc stress nghề nghiệp của NVĐD 
theo thâm niên công tác
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ mắc stress nghề nghiệp ở nhóm có thời gian công tác từ 5 năm 
trở lên thấp hơn nhóm có thời gian công tác dưới 5 năm trở lên (35,8% so với 64,2%).
Hình 4. Phân bố tình trạng mắc stress nghề nghiệp ở NVĐD 
có hay không làm công tác quản lý
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ mắc stress nghề nghiệp phân bố chủ yếu ở nhóm điều dưỡng 
lâm sàng làm công tác quản lý (chiếm 82,1%).
IV. BÀN LUẬN
Câu hỏi mà chúng tôi quan tâm trong nghiên 
cứu này đó là “có nhiều điều dưỡng trong 
nghiên cứu bị stress nghề nghiệp hay không?” 
và “stress thường ở mức độ nào?”.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, 
có tới 35,1% NVĐD mắc stress nghề nghiệp. 
Trong đó có 22,5% điều dưỡng ở mức độ nhẹ, 
10,5% ở mức độ vừa và 2,1% ở mức độ nặng. 
Kết quả này cao hơn kết quả của một số nghiên 
cứu trước đó khi tỷ lệ stress nghề nghiệp trong 
nhóm điều dưỡng khoảng 8 - 18%.6,9,10 Mức độ 
stress trong nghiên cứu của chúng tôi tương 
đồng với các nghiên cứu trước đó là chủ yếu ở 
mức độ nhẹ, rồi đến vừa và thấp nhất ở mức 
độ nặng. Nghiên cứu về “Tình trạng căng thẳng 
và một số yếu tố nghề nghiệp liên quan đến 
căng thẳng ở điều dưỡng viên Bệnh viện Hữu 
nghị Việt Đức năm 2015”, tỷ lệ mắc stress nghề 
nghiệp là 18,5%, trong đó nhóm mắc ở mức độ 
nhẹ là 9%, mức vừa là 7%, và nặng là 2,5%.⁶ 
Trong nghiên cứu của Ngô Thị Kiều My, tỷ lệ 
mắc stress nghề nghiệp là 18,1%, trong đó, 
nhóm mắc stress nghề nghiệp ở mức độ nhẹ là 
9,7%, mức độ vừa là 5,7%, và mức độ nặng là 
2,7%.⁹ Và trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn 
Ngọc Anh và cộng sự, tỷ lệ điều dưỡng ở một 
bệnh viện da liễu bị stress nghề nghiệp là 8%.10 
Có sự khác biệt này có thể là do Bệnh viện Đại 
học Y là bệnh viện tư, phí dịch vụ đắt hơn nên 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 202012
bệnh nhân cũng có yêu cầu cao hơn về chất 
lượng. Hơn nữa, hiện nay Bệnh viện ngày càng 
phát triển, nhận được sự quan tâm và tín nhiệm 
của nhiều người nên số lượng bệnh nhân ngày 
càng đông, khiến cho điều dưỡng vừa làm 
nhiều việc lại vừa phải đảm bảo chất lượng 
đầu ra của công việc thật tốt. Cũng có thể do 
sự hài lòng trong công việc và chế độ đãi ngộ 
của Bệnh viện chưa thực sư phù hợp với khối 
lượng công việc Điều dưỡng phải làm. Điều 
này có thể là nguyên nhân khiến cho tỷ lệ stress 
của NVĐD tương đối cao hơn so với bệnh viện 
khác. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi lại thấp hơn so với trong một nghiên cứu cắt 
ngang tại Trung Quốc, trong nghiên cứu này, tỷ 
lệ điều dưỡng bị stress nghề nghiệp khá cao 
với 68,3%.11 Có sự khác biệt này là do ở Trung 
Quốc, tình trang thiếu điều dưỡng ở các bệnh 
viện cơ sở khá phổ biến. Hơn nữa, do chính 
sách làm giảm tải gánh nặng cho các tuyến y 
tế phía trên, người dân phải đi khám lần lượt từ 
các tuyến y tế cơ sở. Điều này làm cho các điều 
dưỡng ở đây luôn phải dành thêm thời gian để 
tự học, tiến hành nghiên cứu và dạy kèm thực 
tập sinh, làm tăng stress nghề nghiệp cho họ.11
Về phân bố tình trạng stress theo thâm niên 
công tác và nhóm tuổi, kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy tỷ lệ mắc stress nghề nghiệp 
chủ yếu ở nhóm có thâm niên công tác từ 5 năm 
trở xuống (64,2%) và ở nhóm dưới 30 tuổi trở 
xuống (61,2%). Theo chúng tôi, ở những người 
có thâm niên công tác trên 5 năm và trên 30 
tuổi, có thể họ đã có thời gian để thích nghi dần 
với tính chất áp lực cao của công việc, hoặc đã 
tìm ra những biện pháp để giải tỏa stress nghề 
nghiệp, còn ở nhóm có thời gian công tác dưới 
5 năm, là nhóm mới bắt đầu bước vào làm việc 
trong một môi trường bệnh viện đầy áp lực và 
nhiều nguy cơ, có thể họ còn bỡ ngỡ và chưa 
kịp có thời gian để thích ứng với tính chất môi 
trường công việc như vậy. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng 
cho thấy 82,1% các trường hợp stress nghề 
nghiệp là các điều dưỡng lâm sàng đang tham 
gia quản lý. Kết quả này cũng tương đồng với 
một số kết quả nghiên cứu trước đó như kết 
quả nghiên cứu của tác giả Trần Thị Thu Thủy 
năm 2015 tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức khi 
nguy cơ mắc stress nghề nghiệp ở những điều 
dưỡng làm công tác quản lý gấp 1,64 lần so với 
những điều dưỡng khác.⁶ Theo chúng tôi, kết 
quả này có thể được giải thích là do những điều 
dưỡng làm công tác quản lý, ngoài việc thực 
hành chuyên môn, họ còn phải thực hiện việc 
tổ chức, sắp xếp công việc trong khoa, giám sát 
các điều dưỡng khác, do vậy gánh nặng đặt lên 
vai họ là không hề nhỏ. Đây có thể là nguyên 
nhân dẫn đến tình trạng stress của điều dưỡng 
làm quản lý cao hơn những điều dưỡng khác.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ stress nghề nghiệp của điều dưỡng 
khối lâm sàng Bệnh viện Đại học Y Hà Nội là 
35,1%. Theo mức độ stress, tỷ lệ điều dưỡng 
mắc ở mức độ nhẹ là 22,1%, vừa là 10,5%, 
nặng là 2,1%, và không có ai mắc stress nghề 
nghiệp ở mức độ rất nặng. Phân bố stress nghề 
nghiệp chủ yếu ở nhóm đối tượng dưới 30 tuổi 
(chiếm tỷ lệ 61,2%), nhóm có thời gian công tác 
từ 5 năm trở xuống (64,2%) và tham gia công 
tác quản lý (82,1%). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Iqbal M. Impact of Job Stress on Job 
satisfaction among Air Trafic Controllers of 
Civil Avition Authority: An Empirical Study from 
Pakistan. Int J Hum Resour Stud. 2012;2:53 - 70.
2. Chen WQ. WT-W, Yu TS. Influence of 
occupational stress on mental health among 
Chinese off-shore oil workers. Scand J Soc Med. 
2009;37(7): 766 – 773.
3. Sun W., Wu H. Occupational stress and 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 13
its related factors among University teachers in 
China. J Occup Health. 2011(53):280–286.
4. Deschamps F. P-BI, Marchand A. Sources 
and accessment of occupational stress in police. 
J Occup Health. 2003(45):358 - 364.
5. Mehrabi T., Parvin N., Yazdani M., et al. 
Investigation of some occupational stressors 
among nurses. Iran J Nurs Midwifery Res. 
2010;10(2).
6. Trần Thị Thu Thủy, Nguyễn Thị Liên 
Hương. Tình trạng căng thẳng và một số yếu 
tố nghề nghiệp liên quan đến căng thẳng ở điều 
dưỡng viên tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức năm 
2015. Tạp Chí Y Tế Công Cộng. 2016;13(40):20 
- 25.
7. Lovibond P. Depression anxiety stress 
scale. 
htm. Accessed 12/12/2016.
8. Sasaki N, Imamura K, Thuy TTT, et al. 
Validation of the Job Content Questionnaire 
among hospital nurses in Vietnam. J Occup 
Health. 2019.
9. Ngô Thị Kiều My, Trần Đình Vinh, Đỗ 
Mai Hoa. Tình trạng stress của điều dưỡng và 
hộ sinh Bệnh viện phụ sản Nhi Đà Nẵng. Tạp 
Chí Y Tế Công Cộng. 2015(34):57 - 62.
10. Anh Ngoc Nguyen, Xuan Le Thi Thanh, 
Hue Le Thi et al. Occupational Stress Among 
Health Worker in a National Dermatology 
Hospital in Vietnam, 2018. Frontiers in Psychiatry. 
2020;10(950).
11. Gu B., Tan Q., Zhao S. The association 
between occupational stress and psychosomatic 
wellbeing among Chinese nurses: A cross-
sectional survey. Medicine (Baltimore). 
2019;98(22):e15836
Summary
OCCUPATIONAL STRESS AMONG CLINICAL NURSES 
IN HANOI MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL IN 2017
This study is to identify the prevalence of occupational stress among clinical nurses at the 
Hanoi Medical University Hospital in 2017. A cross-sectional design was applied, using face-to-face 
interviews with 191 clinical nurses at the Hanoi Medical University hospital in 2017 according to the 
structured questionnaire. The results show that the occupational stress rate of clinical nurses at 
Hanoi Medical University Hospital was 35.1%; of which 22.1% was rated as mild, 10.5% as medium, 
2.1% as high, and no one had very severe stress. The distribution of occupational stress was mainly 
in group of nurses under 30 years old (accounting for 61.2%), in group with 5 years of service or less 
(64.2%) and nurses with leading position (82.1%). In conclusion, occupational stress was common 
among clinical nurses at Hanoi Medical University Hospital. Therefore, it is necessary to reduce 
occupational stress for clinical nurses in order to ensure employee’s health and improve productivity.
Key words: Occupational stress, clinical nurses, hospital

File đính kèm:

  • pdfstress_nghe_nghiep_cua_dieu_duong_lam_sang_tai_benh_vien_dai.pdf