So sánh tác dụng điều trị tụt huyết áp của hai liều bolus tĩnh mạch phenylephrin 50 mcg với 100 mcg sau gây tê tuỷ sống mổ lấy thai

Mục tiêu: So sánh tác dụng điều trị tụt huyết áp của hai liều bolus tĩnh mạch phenylephrin

50 mcg với 100 mcg sau gây tê tuỷ sống (GTTS) mổ lấy thai. Đối tượng và phương pháp:

Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 60 sản phụ, được phân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: Nhóm I

(n = 30): Tiêm bolus tĩnh mạch 50 mcg/lần phenylephrin; Nhóm II (n = 30): Tiêm bolus tĩnh

mạch 100 mcg/lần phenylephrin. Tất cả bệnh nhân (BN) được tiêm bolus ngay khi tụt huyết áp.

Kết quả: Huyết áp trung bình của nhóm II cao hơn nhóm I tại nhiều thời điểm nhưng cả hai liều

đều có hiệu quả tương đương. Tần số tim của nhóm II thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với

nhóm I từ T3 đến T10 sau GTTS (p < 0,05).="" tổng="" lượng="" phenylephrin="" được="" sử="" dụng="" ở="" nhóm="">

thấp hơn nhóm II có ý nghĩa thống kê (65 ± 47,4 mcg so với 180 ± 103,3 mcg; p < 0,05).="" kết="">

Phương pháp tiêm bolus tĩnh mạch phenylephrin liều 50 mcg/lần sau GTTS để mổ lấy thai trong

điều trị tụt huyết áp có hiệu quả tương đương so với liều 100 mcg/lần. Tuy nhiên, tỷ lệ làm chậm

nhịp tim phản xạ ở liều 100 mcg cao hơn liều 50 mcg.

pdf 6 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "So sánh tác dụng điều trị tụt huyết áp của hai liều bolus tĩnh mạch phenylephrin 50 mcg với 100 mcg sau gây tê tuỷ sống mổ lấy thai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh tác dụng điều trị tụt huyết áp của hai liều bolus tĩnh mạch phenylephrin 50 mcg với 100 mcg sau gây tê tuỷ sống mổ lấy thai

So sánh tác dụng điều trị tụt huyết áp của hai liều bolus tĩnh mạch phenylephrin 50 mcg với 100 mcg sau gây tê tuỷ sống mổ lấy thai
T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 61 
SO SÁNH TÁC DỤNG ĐIỀU TRỊ TỤT HUYẾT ÁP CỦA HAI LIỀU 
BOLUS TĨNH MẠCH PHENYLEPHRIN 50 MCG VÀ 100 MCG 
SAU GÂY TÊ TUỶ SỐNG MỔ LẤY THAI 
 Trần Thị Hồng Vân1, Đỗ Văn Lợi2 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: So sánh tác dụng điều trị tụt huyết áp của hai liều bolus tĩnh mạch phenylephrin 
50 mcg với 100 mcg sau gây tê tuỷ sống (GTTS) mổ lấy thai. Đối tượng và phương pháp: 
Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 60 sản phụ, được phân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: Nhóm I 
(n = 30): Tiêm bolus tĩnh mạch 50 mcg/lần phenylephrin; Nhóm II (n = 30): Tiêm bolus tĩnh 
mạch 100 mcg/lần phenylephrin. Tất cả bệnh nhân (BN) được tiêm bolus ngay khi tụt huyết áp. 
Kết quả: Huyết áp trung bình của nhóm II cao hơn nhóm I tại nhiều thời điểm nhưng cả hai liều 
đều có hiệu quả tương đương. Tần số tim của nhóm II thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm I từ T3 đến T10 sau GTTS (p < 0,05). Tổng lượng phenylephrin được sử dụng ở nhóm I 
thấp hơn nhóm II có ý nghĩa thống kê (65 ± 47,4 mcg so với 180 ± 103,3 mcg; p < 0,05). Kết luận: 
Phương pháp tiêm bolus tĩnh mạch phenylephrin liều 50 mcg/lần sau GTTS để mổ lấy thai trong 
điều trị tụt huyết áp có hiệu quả tương đương so với liều 100 mcg/lần. Tuy nhiên, tỷ lệ làm chậm 
nhịp tim phản xạ ở liều 100 mcg cao hơn liều 50 mcg. 
* Từ khoá: Phenylephrin; Tụt huyết áp; Gây tê tuỷ sống; Mổ lấy thai. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gây tê tuỷ sống hiện là phương pháp 
vô cảm chủ yếu trong mổ lấy thai do 
nhiều ưu điểm vượt trội. Tuy nhiên, tác 
dụng không mong muốn hay gặp nhất 
của phương pháp này là tụt huyết áp [1]. 
Có nhiều thuốc co mạch có thể sử dụng 
để nâng huyết áp như là phenylephrin, 
ephedrin, noradrenalin, adrenalin nhưng 
phenylephrin là thuốc mới được nhiều 
bác sỹ và cơ sở sản khoa khuyến cáo 
nên dùng để xử trí tụt huyết áp do GTTS 
trong mổ lấy thai. Phenylephrin có tác 
dụng chọn lọc trên thụ thể α1 - giao cảm 
gây co mạch làm tăng huyết áp, thuốc có 
thời gian khởi phát tác dụng ngắn khoảng 
20 phút, không gây toan máu thai, giảm 
nôn - buồn nôn, không gây giãn cơ tử 
cung nhưng làm chậm nhịp tim mẹ do 
phản xạ phụ thuộc liều [6]. Vì vậy, nghiên 
cứu này nhằm: Tạo sự cân bằng giữa 
hiệu quả điều trị tụt huyết áp và tác dụng 
phụ của phenylephrin đặc biệt là chậm 
nhịp tim để đưa ra liều tối ưu. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
- 60 sản phụ được tiêm bolus tĩnh 
mạch phenylephrin, được chia ngẫu 
nhiên thành 2 nhóm: Nhóm I (n = 30): 
Liều 50 mcg/lần; nhóm II (n = 30): 
Liều 100 mcg/lần. 
1Khoa Gây mê, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y 
2Khoa Gây mê Hồi sức, Bệnh viện Phụ sản Trung ương 
Người phản hồi: Trần Thị Hồng Vân ([email protected]) 
 Ngày nhận bài: 4/5/2020 
 Ngày bài báo được đăng: 1/6/2020 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 62 
- Sản phụ tuổi từ 18 - 40; ASA độ I - II, 
có một thai đủ tháng 38 - 41 tuần, thai 
phát triển bình thường, nhịp tim thai 120 - 
160 lần/phút, có chỉ định phẫu thuật mổ 
lấy thai và GTTS tại Khoa Gây mê Hồi 
sức, Bệnh viện Phụ sản Trung ương từ 
tháng 11/2019 - 3/2020. 
- Loại trừ BN có chống chỉ định GTTS 
(dị ứng thuốc tê, nhiễm trùng tại chỗ chọc 
kim, các bệnh về rối loạn đông máu hoặc 
đang điều trị chống đông, các bệnh về tim 
mạch), bất thường về sản khoa: mổ lấy 
thai khẩn cấp (sa dây rau, suy thai nặng), 
nguy cơ chảy máu, giảm khối lượng tuần 
hoàn (rau bong non, rau tiền đạo, rau cài 
răng lược, nghi vỡ tử cung hoặc vỡ tử cung), 
tiền sản giật nặng hoặc sản giật, hội 
chứng HELLP, nhịp tim nền < 60 lần/phút 
và sản phụ không đồng ý tham gia 
nghiên cứu. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
- Nghiên cứu mô tả tiến cứu. 
* Quy trình: 
- Khám BN trước mổ; theo dõi điện 
tim, huyết áp tâm thu (HATT), huyết áp 
tâm trương (HATTr), SpO2 trên monitor; 
thở oxy qua mũi, lưu lượng 3 - 5 lít/phút; 
đặt đường truyền ngoại vi kim 20G. 
- Tư thế BN: Sản phụ nằm nghiêng 
trái, cong lưng, hai đầu gối co sát, đầu cúi 
tối đa, bộc lộ rõ vùng gây tê. Sát trùng vị 
trí gây tê. 
- Lấy thuốc tê: Liều bupivacain theo 
chiều cao: < 150 cm: 7 mg; 150 - 160 cm: 
7,5 mg; > 160 cm: 8 mg và fentanyl: 30 
mcg. GTTS ở vị trí L2 - L3 đường giữa 
bằng kim Quincke số G27. Sau khi gây tê, 
để sản phụ nằm nghiêng trái 15° trên bàn 
mổ, đầu kê cao 10 - 15° bằng 1 gối nhỏ. 
- Theo dõi BN: Tất cả BN ở 2 nhóm 
sau GTTS đều được theo dõi sát và ghi 
chép mạch, huyết áp và SpO2 bằng 
monitoring 1 phút/lần. Khi huyết áp tối đa 
giảm ≥ 20% so với huyết áp nền tối đa 
của sản phụ trước gây tê hoặc HATT 
< 100 mmHg, tiến hành bolus phenylephrin 
theo từng nhóm. Sau 1 phút đánh giá lại 
huyết áp, nếu huyết áp chưa trở lại huyết 
áp nền, tiêm nhắc lại liều như trên đến khi 
đạt hiệu quả. Nếu huyết áp vẫn không lên 
sau 5 lần bolus, phối hợp truyền nhanh 
dung dịch HES 6%, đẩy tử cung sang trái 
và lấy thai nhanh. Nếu tình trạng tụt 
huyết áp không được cải thiện với các 
biện pháp trên, có thể dùng adrenalin 
0,05 mcg/kg/phút, dò liều theo huyết áp. 
Nhịp tim chậm < 60 nhịp/phút, chỉ định 
atropin 0,5 mg bolus tĩnh mạch, nhắc lại 
sau 2 phút nếu tần số tim không tăng. 
* Các chỉ tiêu nghiên cứu và phương 
pháp đánh giá: 
Đặc điểm chung của BN (tuổi, chiều 
cao, cân nặng, tuổi thai trung bình, thời 
gian phẫu thuật); đánh giá tác dụng điều 
trị tụt huyết áp (thay đổi HATT, HATTr, 
HATB ở các thời điểm nghiên cứu, lượng 
thuốc điều trị nâng huyết áp, mạch: 
phenylephrin, atropin, thay đổi tần số tim 
các thời điểm nghiên cứu), tỷ lệ nhịp tim 
chậm; các tác dụng không mong muốn. 
* Xử lý số liệu: 
Theo phương pháp thống kê y học 
bằng phần mềm SPSS 23.0. 
Nghiên cứu đã được thông qua Hội 
đồng Y đức của Bệnh viện Phụ sản Trung 
ương và được phép thực hiện tại Khoa 
Gây mê hồi sức, Bệnh viện Phụ sản 
Trung ương. 
T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 63 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1: Đặc điểm chung. 
Đặc điểm Nhóm I (n = 30) Nhóm II (n = 30) p 
Tuổi (năm) 31,1 ± 4,8 32,2 ± 4,5 0,91 
Chiều cao (cm) 157,8 ± 4,7 156,4 ± 3,9 0,86 
Cân nặng (kg) 66,0 ± 6,8 65,1 ± 7,3 0,96 
BMI (kg/m2) 26,5 ± 2,3 26,7 ± 2,6 0,99 
Tuổi thai (tuần) 38,9 ± 0,8 39,1 ± 0,6 0,26 
Thời gian phẫu thuật (phút) 35,5 ± 5,1 36,7 ± 6,2 0,42 
Thời gian lấy thai (phút) 3,2 ± 1,4 3,5 ± 1,1 0,36 
Cân nặng sơ sinh (g) 3296,7 ± 245,6 3233,3 ± 285,7 0,67 
Biểu đồ 1: Sự thay đổi nhịp tim. 
Bảng 2: Thay đổi tần số tim khi sử dụng thuốc co mạch. 
Chỉ tiêu Nhóm I (n = 30) Nhóm II (n = 30) p 
Tần số tim trước dùng phenylephrin (lần/phút) 107,8 ± 8,8 108,1 ± 11,8 0,29 
Tần số tim sau dùng phenylephrin (lần/phút) 96,9 ± 13,3 80,7 ± 11,7 0,03 
Sự thay đổi của tần số tim sau khi dùng 
phenylephrin (%) 10,11 ± 9,9 25,44 ± 13,67 0,04 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 64 
 Biểu đồ 2: Sự thay đổi huyết áp động mạch trung bình. 
Bảng 3: Điều trị tụt huyết áp. 
Chỉ tiêu Nhóm I (n, %) Nhóm II (n, %) p 
Liều gây tê tuỷ sống của bupivacain (mg) 7,6 ± 0,3 7,5 ± 0,2 0,67 
Tỷ lệ tụt huyết áp 25 (83,33) 26 (86,67) 0,52 
Số lần bolus 1,3 ± 0,9 1,8 ± 1,0 0,46 
Tỷ lệ nhịp tim chậm (< 60 lần/phút) 0 (0) 3 (10) 0,32 
Tổng lượng phenylephrin (mcg) 65 ± 47,4 180 ± 103,3 0,00 
Bảng 4: Tác dụng không mong muốn. 
Tác dụng không mong muốn Nhóm I (n, %) Nhóm II (n, %) p 
Buồn nôn, nôn 2 (6,67) 3 (10,0) 0,87 
Run 3 (10,0) 7 (23,33) 0,11 
Ngứa 5 (16,67) 6 (20,0) 0,44 
BÀN LUẬN 
Tuổi, chiều cao, cân nặng, tuổi thai, 
thời gian phẫu thuật phù hợp với tình 
trạng và đặc điểm nhân trắc của người 
Việt Nam. Không có sự khác biệt giữa 
2 nhóm [1, 2, 3]. 
Liều thuốc tê sử dụng trong nghiên cứu 
được tính theo chiều cao. Liều bupivacain 
của nhóm I là 7,6 ± 0,3 mg; nhóm II là 
7,5 ± 0,2 mg với p > 0,05. Như vậy, liều 
thuốc tê sử dụng ở 2 nhóm khác nhau 
không có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu 
của Phạm Lê Hoàn và CS (2017) sử dụng 
liều 8,38 ± 0,42 mg và 8,41 ± 0,39 mg cho 
cả 2 nhóm [2]. Liều này cao hơn nghiên 
cứu của chúng tôi vì đối tượng trong 
nghiên cứu của các tác giả này cao 150 - 
160 cm. Chúng tôi sử dụng liều thuốc tê như 
trên để đảm bảo mức ức chế cảm giác 
T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 65 
đến T6, do đó BN không cảm thấy khó chịu 
cũng như đau trong cuộc mổ. 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê về tần số tim giữa 2 nhóm ở 
2 phút đầu sau khi GTTS. Bắt đầu từ 
phút thứ 3 - phút thứ 10 có sự khác biệt 
(p < 0,05). Tần số tim của sản phụ chịu 
ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Trong 
nghiên cứu chúng tôi, tần số tim của các 
sản phụ được theo dõi ngay trước khi 
dùng thuốc (khi huyết áp đã tụt) và tần 
số tim thấp nhất sau khi dùng thuốc 
trong vòng 2 phút. Tần số tim trung bình 
của nhóm I sau dùng thuốc là 96,9 ± 
13,3 lần/phút; của nhóm II là 80,7 ± 
11,7 lần/phút. Tần số tim của nhóm I giảm 
10,11 ± 9,9% so với trước sử dụng thuốc; 
nhóm II giảm 25,44 ± 13,67% so với tần 
số tim trước sử dụng thuốc. Không có 
sản phụ nào ở nhóm I nhịp tim chậm 
< 60 nhịp/phút trong khi nhóm II có 3 BN 
(10%), phải dùng ngay atropin. Nhịp tim 
chậm là do GTTS ức chế thần kinh giao 
cảm gây nên. Phenylephrin không những 
không làm tăng tần số tim mà còn có tác 
dụng chậm tần số tim phản xạ, tác dụng 
này đối kháng với sự tăng tần số tim trên 
những BN GTTS để mổ lấy thai nên tần 
số tim của BN ở nhóm này ổn định hơn 
và sản phụ cảm thấy thoải mái hơn. Một 
số tác giả lo ngại rằng việc sử dụng 
phenylephrin gây giảm cung lượng tim 
của sản phụ nhưng đã có những nghiên 
cứu cho thấy phenylephrin không gây 
ảnh hưởng đến cung lượng tim [3, 7, 8]. 
Hơn nữa, đặc điểm sinh lý phụ nữ có thai 
là sức cản thành mạch hệ thống (SVR) 
giảm 20% và tăng cuối kỳ thai nghén 
(do phát triển tuần hoàn tử cung - rau, 
co mạch do hormon: estrogen, progesteron, 
prostaglandin). Cung lượng tim trong quá 
trình chuyển dạ (nhưng giữa các lần co 
của tử cung) tăng khoảng 10% so với 
trước khi chuyển dạ ở giai đoạn đầu, 25% 
ở giai đoạn đầu và 40% ở giai đoạn thứ 
hai của chuyển dạ. Trong giai đoạn ngay 
sau sinh, cung lượng tim có thể cao hơn 
75% so với trước khi sinh. Thay đổi này 
là do tăng thể tích nhát bóp do lượng máu 
tĩnh mạch trở về tăng lên và thay đổi hoạt 
động của hệ thần kinh giao cảm. Trong 
quá trình co tử cung, 300 - 500 ml máu 
được di chuyển từ khoảng gian nhung 
mao rau về tuần hoàn trung tâm (truyền 
máu tự thân). Áp lực trong tử cung tăng 
lên sẽ đẩy máu từ khoảng gian nhung 
mao rau qua hệ thống tĩnh mạch buồng 
trứng không bị cản trở. Sự gia tăng cung 
lượng tim sau sinh làm giảm chèn ép tĩnh 
mạch chủ, giảm tình trạng suy tĩnh mạch 
chi dưới và giảm trở kháng mạch máu 
của mẹ [4]. 
Tỷ lệ tụt huyết áp ở nhóm I là 83,33% 
và nhóm II là 86,67%, sự khác biệt không 
có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Theo 
nghiên cứu của Trần Minh Long và CS 
(2019), tỷ lệ tụt huyết áp lần lượt của 
2 nhóm là 80% và 90% [3]. Theo dõi 
huyết áp thường xuyên trong quá trình 
phẫu thuật cho thấy phenylephrin liều bolus 
100 mcg có huyết áp trung bình cao hơn, 
biến động nhiều hơn so với liều 50 mcg 
tại hầu hết các thời điểm sau khi dùng 
nhưng đều có hiệu quả tương đương. 
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu 
của M.Mohta và CS (2015) về hiệu quả 
điều trị tụt huyết áp của 3 liều phenylephrin 
bolus ban đầu 100 mcg, 125 mcg và 
150 mcg [5]. Số lần bolus ở mỗi nhóm 
như nhau, sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê (1,3 ± 0,9 và 1,8 ± 1,0; p > 0,05). 
Tổng lượng phenylephrin được sử dụng 
trong quá trình phẫu thuật ở nhóm I ít 
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm II 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 66 
(65 ± 47,4 mcg với 180 ± 103,3 mcg; p < 0,05) 
và thấp hơn lượng phenylephrin truyền 
liên tục để điều trị tụt huyết áp với liều 
ban đầu 25 mcg/phút trong nghiên cứu 
của Nguyễn Thị Thanh (2018) là 184,17 ± 
31,92 mcg [1]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tác 
dụng không mong muốn ở cả 2 nhóm là 
buồn nôn và nôn, rét run, ngứa, không có 
trường hợp nào bị đau đầu. Tỷ lệ nôn, 
buồn nôn trong mổ nhóm I: 2 BN (6,67%), 
nhóm II: 3 BN (10%), sự khác biệt không 
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Sản phụ 
nôn hoặc buồn nôn 1 - 2 lần, nôn ra dịch 
vị sau đó hết nôn khi đã xử trí được 
huyết áp tụt, không dùng thêm thuốc gì 
để chống nôn, không gặp BN nôn nặng, 
kéo dài. 
Một hạn chế của nghiên cứu là chưa 
đánh giá được khí máu động mạch rốn ở 
trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu của 
M.Mohta (2015), WD Ngan Kee (2004) và 
M.Veeser (2012) đã chứng minh phenylephrin 
không gây giảm pH máu động mạch rốn 
ở trẻ sơ sinh như ephedrin [5, 9, 10]. 
KẾT LUẬN 
Phương pháp tiêm bolus tĩnh mạch 
phenylephrin liều 50 mcg/lần sau GTTS 
để mổ lấy thai trong điều trị tụt huyết áp 
có hiệu quả tương đương so với liều 100 
mcg/lần nhưng tỷ lệ làm chậm nhịp tim 
phản xạ ở liều 100 mcg/lần cao hơn 50 
mcg/lần. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thị Thanh. Đánh giá hiệu quả 
dự phòng tụt huyết áp của phenylephrin 
truyền liên tục trong gây tê tuỷ sống để mổ 
lấy thai. Luận văn Thạc sĩ Y học. Đại học Y 
Hà Nội 2018. 
2. Phạm Lê Hoàn, Nguyễn Đức Lam. Đánh 
giá hiệu quả của phenylephrin điều trị tụt 
huyết áp trong gây tê tuỷ sống để mổ lấy thai 
Tạp chí Y học Việt Nam 2017; 457(2):20-24. 
3. Trần Minh Long, Nguyễn Quốc Kính. 
So sánh hiệu quả xử trí tụt huyết áp của 
phenylephrine và ephedrine ở sản phụ được 
gây tê tuỷ sống để mổ lấy thai. Tạp chí 
Nghiên cứu Y học 2019; 117(1):127-134. 
4. David H Chestnut, et al. Chestnut’s obstetric 
anesthesia: Principles and practice, fifth, 
Elsevier Saunders. Philadelphia 2014; 1304. 
5. M Mohta, et al. Effect of different 
phenylephrine bolus doses for treatment of 
hypotension during spinal anaesthesia in 
patients undergoing elective caesarean section. 
Anaesth Intensive Care 2015; 43(1):74-80. 
6. Simin Atashkhoie, et al. The effect of 
prophylactic infusion of combined ephedrin 
and phenylephrine on maternal hemodynamic 
after spinal anesthesia for cesarean section: 
A randomized clinical trial. Iran J Med Sci 2018; 
43(1):70-74. 
7. FRCA Adrienne Stewart, et al. The 
dose-dependent effects of phenylephrine for 
elective cesarean delivery under spinal 
anesthesia. Anesthesia & Analgesia 2010; 
111(5):1230-1237. 
8. A. Doherty, et al. Phenylephrine infusion 
versus bolus regimens during cesarean 
delivery under spinal anesthesia: A double-
blind randomized clinical trial to assess 
hemodynamic changes. Anesth Analg 2012; 
115(6):1343-1350. 
9. WD Ngan Kee, et al. Prophylactic 
phenylephrine infusion for preventing hypotension 
during spinal anesthesia for cesarean delivery. 
Anesth Analg 2004; 98(3):815-821. 
10. M Veeser, et al. Vasopressors for the 
management of hypotension after spinal 
anesthesia for elective caesarean section. 
Systematic review and cumulative meta-
analysis. Acta Anaesthesiol Scand 2012; 
56(7):810-816. 

File đính kèm:

  • pdfso_sanh_tac_dung_dieu_tri_tut_huyet_ap_cua_hai_lieu_bolus_ti.pdf