So sánh mức độ tổn thương thần kinh tự chủ giữa bệnh Parkinson và teo đa hệ thống

Đặt vấn đề: Test đánh giá chức năng thần kinh tự chủ có thể giúp phân biệt bệnh Parkinson với teo đa hệ

thống (MSA).

Mục tiêu: So sánh mức độ tổn thương thần kinh tự chủ giữa Parkinson và MSA.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, trên 82 bệnh nhân Parkinson và 45

bệnh nhân MSA tại bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế từ tháng 4/2017 đến tháng 10/2019. Có

6 test đánh giá chức năng thần kinh tự chủ được khảo sát, bao gồm: test biến thiên nhịp tim theo tư thế, theo hít

thở sâu, và theo nghiệm pháp Valsalva, test biến thiên huyết áp theo tư thế, sau vận động thể lực đẳng trường và

test ghi đáp ứng giao cảm da.

pdf 7 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "So sánh mức độ tổn thương thần kinh tự chủ giữa bệnh Parkinson và teo đa hệ thống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh mức độ tổn thương thần kinh tự chủ giữa bệnh Parkinson và teo đa hệ thống

So sánh mức độ tổn thương thần kinh tự chủ giữa bệnh Parkinson và teo đa hệ thống
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 75
SO SÁNH MỨC ĐỘ TỔN THƯƠNG THẦN KINH TỰ CHỦ 
GIỮA BỆNH PARKINSON VÀ TEO ĐA HỆ THỐNG 
Võ Nguyễn Ngọc Trang1, Nguyễn Hữu Công1 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Test đánh giá chức năng thần kinh tự chủ có thể giúp phân biệt bệnh Parkinson với teo đa hệ 
thống (MSA). 
Mục tiêu: So sánh mức độ tổn thương thần kinh tự chủ giữa Parkinson và MSA. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, trên 82 bệnh nhân Parkinson và 45 
bệnh nhân MSA tại bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế từ tháng 4/2017 đến tháng 10/2019. Có 
6 test đánh giá chức năng thần kinh tự chủ được khảo sát, bao gồm: test biến thiên nhịp tim theo tư thế, theo hít 
thở sâu, và theo nghiệm pháp Valsalva, test biến thiên huyết áp theo tư thế, sau vận động thể lực đẳng trường và 
test ghi đáp ứng giao cảm da. 
Kết quả: Nhóm MSA có bất thường thần kinh tự chủ nặng hơn nhóm Parkinson (điểm Ewing = 3,22 so với 
2,02, p <0,001). Không có khác biệt về tỷ lệ bất thường khi khảo sát trên test biến thiên nhịp tim theo tư thế và với 
nghiệm pháp Valsalva (p >0,05). Trong khi đó, bất thường giao cảm da ở nhóm MSA (51,1%) cao hơn Parkinson 
(30,5%) (p=0,022). Nhóm MSA có tỷ lệ hạ huyết áp tư thế (33,3%) cao hơn Parkinson (6,1%) (p <0,001). Tỷ lệ bất 
thường test hít thở sâu và vận động thể lực đẳng trường ở nhóm MSA cũng cao hơn nhóm Parkinson (p <0,05). 
Kết luận: Tổn thương thần kinh tự chủ trong bệnh teo đa hệ thống nặng hơn so với bệnh Parkinson 
Từ khoá: bệnh Parkinson, teo đa hệ thống, test thần kinh tự chủ 
ABSTRACT 
AUTONOMIC NERVOUS SYSTEM EVALUATION 
IN PARKINSON’S DISEASE AND MULTIPLE SYSTEM ATROPHY 
Vo Nguyen Ngoc Trang, Nguyen Huu Cong 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 75 - 81 
Background: Autonomic testing may play an important role in the differentiation of multiple system 
atrophy (MSA) from Parkinson’s disease (PD). 
Objective: To compare the severity of autonomic dysfunction between Parkinson’s disease and multiple 
system atrophy patients. 
Methods: This was a cross-sectional study, including 82 patients with Parkinson’s disease and 45 
patients with multiple system atrophy in International Neurosurgery Hospital. In this study, 
parasympathetic autonomic function was evaluated by the heart rate response to standing (30:15 ratio), 
heart rate variability with deep breathing, and with Valsalva manuever. Sympathetic autonomic function 
was evaluated by the sympathetic skin response, blood pressure response to standing, and blood pressure 
response to isometric exercise (sustained handgrip). 
Results: The patients were clinically classified into two groups: PD (82) and MSA (45). PD and MSA 
patients showed similar patterns of autonomic dysfunction on heart rate response to standing and Valsalva 
manuever. In contrast, abnormal sympathetic skin response in PD and MSA patients was found in 30.3% 
1Bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế 
Tác giả liên lạc: ThS. Võ Nguyễn Ngọc Trang ĐT: 0909550573 Email: [email protected] 
Tác giả liên lạc: S. Lâm Minh Quang ĐT: 0908297705 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 76
and 51.1%, respectively (p=0.022). Orthostatic hypotension was more frequent in MSA (33.3%) than in PD 
(6.1%) (p <0.001). Abnormality was more frequent in MSA than PD in realated to deep breathing test and 
isometric test (p <0.05). 
Conclusions: Autonomic function was more severe in patients with MSA than PD. 
Key words: Parkinson’s disease, multiple system atrophy, autonomic function test 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội chứng Parkinson là một nhóm lớn các 
bệnh thoái hóa thần kinh, thường gặp ở người 
lớn tuổi. Hội chứng Parkinson bao gồm nhiều 
bệnh: bệnh Parkinson tự phát, hội chứng 
Parkinson thứ phát do các nguyên nhân không 
phải thoái hóa, hội chứng Parkinson không 
điển hình do thoái hóa, và hội chứng 
Parkinson thoái hóa di truyền. Trong đó, hội 
chứng Parkinson không điển hình bao gồm 
bệnh teo đa hệ thống (MSA), liệt trên nhân tiến 
triển, thoái hóa vỏ não hạch nền, và sa sút trí 
tuệ thể Lewy(1). 
Trong giai đoạn sớm, rối loạn thần kinh tự 
chủ thường không có triệu chứng và có thể 
phát hiện được bằng các test khảo sát. Khảo 
sát chức năng thần kinh tự chủ là một phương 
pháp không xâm lấn, có thể đánh giá độ nặng 
và đặc điểm rối loạn thần kinh tự chủ. Hơn 
nữa, các test thần kinh tự chủ có đủ độ nhạy 
trong việc phát hiện các bất thường trước khi 
triệu chứng lâm sàng xuất hiện(2). 
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu khảo 
sát các test đánh giá chức năng thần kinh tự chủ 
trên bệnh Parkinson và hội chứng Parkinson do 
thoái hóa, đặc biệt là bệnh teo đa hệ thống. Tuy 
nhiên, cho tới nay tại Việt Nam, rất ít nghiên cứu 
đi sâu vào nhóm bệnh Parkinson và chưa có 
công trình nghiên cứu nào so sánh mức độ tổn 
thương thần kinh tự chủ giữa bệnh Parkinson và 
teo đa hệ thống một cách đầy đủ. Ngoài ra, sử 
dụng các test thần kinh tự chủ để phân biệt bệnh 
Parkinson với teo đa hệ thống vẫn còn là vấn đề 
gây tranh luận(3). Do vậy, chúng tôi đã tiến hành 
nghiên cứu này. 
Mục tiêu 
So sánh mức độ tổn thương thần kinh tự chủ 
giữa bệnh Parkinson và teo đa hệ thống. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân Parkinson và teo đa hệ thống 
điều trị nội trú và ngoại trú tại bệnh viện 
Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế từ 
tháng 4/2017 đến tháng 10/2019. Chẩn đoán bệnh 
Parkinson trên lâm sàng bằng tiêu chuẩn chẩn 
đoán của Hội Bệnh Parkinson và Rối Loạn Vận 
Động Thế Giới (MDS) năm 2015, chẩn đoán 
bệnh teo đa hệ thống trên lâm sàng theo tiêu 
thuẩn đồng thuận của Hội Thần Kinh Hoa Kỳ và 
Hội Thần Kinh Tự Chủ Hoa Kỳ năm 2008. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Hội chứng Parkinson thứ phát (do thuốc, 
độc chất, bệnh nhiễm, bệnh chuyển hóa, bệnh 
mạch máu não), hội chứng Parkinson trong các 
bệnh thoái hóa khác (liệt trên nhân tiến triển, 
sa sút trí tuệ thể Lewy, thoái hóa vỏ não – hạch 
nền), có bệnh lý tim mạch kèm theo (suy tim, 
loạn nhịp tim, đặt máy tạo nhịp tim), đang sử 
dụng các thuốc có thể ảnh hưởng đến tần số 
tim (nhóm Digitalis, các thuốc chống loạn nhịp 
tim, thuốc kháng cholinergic, thuốc ức chế thụ 
thể beta). 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả, có phân tích và 
so sánh hai nhóm. 
Các bước tiến hành và cách đo lường 
Có 6 test đánh giá chức năng thần kinh tự 
chủ được khảo sát, bao gồm: 3 test đánh giá chức 
năng đối giao cảm (test biến thiên nhịp tim theo 
tư thế, theo hít thở sâu, và theo nghiệm pháp 
Valsalva), 3 test đánh giá chức năng giao cảm 
(test biến thiên huyết áp theo tư thế, sau vận 
động thể lực đẳng trường và test ghi đáp ứng 
giao cảm da). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 77
Test thay đổi nhịp tim khi hít thở sâu: đặt hai 
điện cực để ghi điện tim trên ngực, một ở giữa 
xương đòn trái, và một ở trên xương ức. Bệnh 
nhân nằm nghỉ trong 5 phút, sau đó hít thở thật 
sâu với nhịp độ 6 lần/phút trong khoảng 1 phút. 
Đánh giá chênh lệch nhịp tim giữa hít vào 
(khoảng R – R ngắn nhất) và thở ra (khoảng R – 
R dài nhất). 
Test biến thiên nhịp tim và huyết áp khi 
thay đổi tư thế: Cho bệnh nhân nằm ngửa trên 
giường, đặt hai điện cực để ghi điện tim trên 
ngực. Đo huyết áp ở tư thế nằm, sau đó bắt 
đầu cho bệnh nhân đứng dậy. Đo huyết áp ở 
phút thứ 2 và thứ 5 sau khi đứng dậy. Đánh 
giá chênh lệch huyết áp khi nằm so với khi 
đứng. Đánh giá chênh lệch nhịp tim bằng tỷ số 
30:15. Tỷ số 30:15 = khoảng R-R của nhịp tim 
thứ 30 sau khi đứng/khoảng R-R của nhịp tim 
thứ 15 sau khi đứng. 
Test biến thiên nhịp tim với nghiệm pháp 
Valsalva: Cho bệnh nhân hít sâu vào và thổi 
mạnh vào một cái ống có lực cản (nối với máy 
đo huyết áp), sao cho tạo được và duy trì áp lực 
40mmHg trong 15 giây. Sau đó cho bệnh nhân 
nghỉ 3 phút là lặp lại nghiệm pháp này thêm 2 
lần nữa. Chọn tỷ số Valsalva cao nhất trong 3 lần 
làm kết quả cuối cùng. Tỷ số Valsalva = nhịp tim 
nhanh nhất của pha 2/ nhịp tim chậm nhất của 
pha 4 (khoảng cách R-R dài nhất của pha 
4/khoảng R-R ngắn nhất của pha 2) 
Test thay đổi huyết áp khi vận động thể lực 
đẳng trường: Cho bệnh nhân nắm giữ máy đo 
huyết áp trong 3 phút sao cho duy trì áp lực 
bằng 1/3 áp lực bóp tay tối đa của chính bệnh 
nhân. Đánh giá chênh lệch huyết áp khi gắng 
sức đẳng trường so với khi nghỉ ngơi. 
Test ghi đáp ứng giao cảm da: Đặt các cặp 
điện cực ghi ở bàn tay và bàn chân, trong đó 
điện cực hoạt động ở gan bàn tay hay gan bàn 
chân, và điện cực đối chiếu đặt ở mu bàn tay. 
Kích thích được thực hiện bằng đá lạnh và kích 
thích điện vào dây thần kinh. Quan sát điện thế 
đáp ứng trên màn hình. 
Các biến số chính 
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: giới tính, 
tuổi khởi bệnh, tuổi tại thời điểm nghiên cứu: 
dựa vào hỏi người bệnh. 
Đặc điểm bệnh Parkinson: thang điểm thống 
nhất đánh giá bệnh Parkinson (UPDRS): dựa vào 
hỏi bệnh & khám lâm sàng. 
Đặc điểm bệnh teo đa hệ thống: thang 
điểm UPDRS, thang điểm thống nhất đánh giá 
bệnh MSA (UMSARS): dựa vào hỏi bệnh và 
khám lâm sàng. 
Đánh giá mức độ nặng tổn thương thần kinh 
tự chủ dựa theo phân độ Ewing(4). Cách phân độ 
1: biến định tính, chia làm 2 nhóm: bất thường 
và bình thường (nhóm bình thường là bao gồm 
phân độ bình thường và ranh giới theo Ewing). 
Cách phân độ 2: biến định lượng, theo thang 
điểm Ewing. Điểm Ewing là tổng điểm của 5 test 
đánh giá chức năng thần kinh tự chủ tim mạch 
(Bảng 1). 
Bảng 1: Phân độ Ewing trong đánh giá mức độ tổn thương thần kinh tự chủ 
Test Chỉ số Bình thường Ranh giới Bất thường 
Valsalva Chỉ số Valsalva ≥1,21 1,11 – 1,20 ≤1,10 
Nhịp tim theo tư thế Chỉ số 30:15 ≥1,04 1,01 – 1,03 ≤1,00 
Hít thở sâu Biến thiên nhịp tim giữa hít vào và thở ra ≥15 11 – 14 ≤10 
Huyết áp theo tư thế Mức độ giảm huyết áp tâm thu ≤10 11 – 29 ≥30 
Vận động đẳng trường Mức độ tăng huyết áp tâm trương ≥16 11 – 15 ≤10 
Bảng 2: Điểm số theo phân độ Ewing 
Phân độ Điểm số 
Bình thường 0 
Ranh giới 0,5 
Bất thường 1 
Phương pháp thống kê 
Thu thập và xử lý số liệu nghiên cứu bằng 
phần mềm SPSS 20.0. Sự tương quan giữa các 
biến số nếu có được khảo sát bằng phép kiểm chi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 78
bình phương và phép kiểm chính xác Fisher cho 
các biến định tính; phép kiểm t-student cho các 
biến định lượng. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP. HCM, số 150/HĐĐĐ, ngày 
5/5/2017. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu 
Tổng số có 82 bệnh nhân Parkinson và 45 
bệnh nhân teo đa hệ thống (MSA) thỏa tiêu 
chuẩn chọn bệnh được đưa vào nghiên cứu từ 
4/2017 đến 10/2019. 
Bảng 3: Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu 
Đặc điểm Parkinson(N=82) MSA (N=45) p 
Tỷ lệ nữ:nam 1,48:1 1,04:1 0,347 
Tuổi khởi bệnh 55,82 ± 9,83 56,11 ± 7,79 0,863 
Tuổi tại thời điểm NC 58,62 ± 1,11 58,67 ± 1,12 0,078 
UPDRS trung bình 31 ± 19,2 34,9 ± 17,5 0,016 
So sánh mức độ tổn thương thần kinh tự chủ 
giữa bệnh Parkinson và teo đa hệ thống 
Không có sự khác biệt về chỉ số 30:15 và chỉ 
số Valsalva giữa nhóm Parkinson và teo đa hệ 
thống (p >0,05). Có sự khác biệt về mức độ tổn 
thương thần kinh tự chủ giữa bệnh Parkinson và 
teo đa hệ thống khi khảo sát trên test biến thiên 
nhịp tim với hít thở sâu, test biến thiên huyết áp 
với vận động thể lực đẳng trường, và biến thiên 
huyết áp theo tư thế (p <0,05) (Bảng 4). 
Bảng 4: So sánh giá trị các test khảo sát chức năng thần kinh tự chủ giữa bệnh Parkinson và teo đa hệ thống 
Test khảo sát Parkinson (N=82) MSA (N=45) p 
Hít thở sâu – biến thiên nhịp tim 11,04 ± 5,91 5,05 ± 3,27 <0,001 
Thay đổi tư thế - Chỉ số 30:15 1,10 ± 0,11 1,06 ± 0,08 0,061 
Nghiệm pháp Valsalva – Chỉ số Valsalva 1,24 ± 0,15 1,19 ± 0,15 0,078 
Vận động thể lực đẳng trường – BTHA tâm trương 7,37 ± 6,87 4,36 ± 6,19 0,016 
Huyết áp tư thế - BTHA tâm thu 0,05 ± 14,99 -18,64 ± 19,54 <0,001 
Bảng 5: So sánh điểm Ewing giữa bệnh Parkinson và 
teo đa hệ thống 
Nhóm Parkinson MSA p 
Điểm Ewing 2,02 ± 1,12 3,22 ± 0,96 < 0,001 
Có sự khác biệt về mức độ nặng tổn thương 
chức năng thần kinh tự chủ tính bằng thang 
điểm Ewing giữa bệnh Parkinson và teo đa hệ 
thống (p <0,001) (Bảng 5). 
Bảng 6: So sánh tỷ lệ tổn thương thần kinh tự chủ 
giữa bệnh Parkinson và teo đa hệ thống 
Test khảo sát/Tỷ lệ bất thường 
Parkinson 
(N=82) 
MSA 
(N=45) 
p 
Biến thiên nhịp tim với hít thở sâu 50% 88,9% <0,001 
Biến thiên nhịp tim theo tư thế 19,5% 26,7% 0,352 
Nghiệm pháp Valsalva 29,3% 44,4% 0,086 
Vận động thể lực đẳng trường 59,8% 77,8% 0,04 
Biến thiên huyết áp theo tư thế 6,1% 33,3% <0,001 
Ghi đáp ứng giao cảm da 30,5% 51,1% 0,022 
Tỷ lệ bất thường trên tất cả 6 test đánh giá 
chức năng thần kinh tự chủ ở nhóm teo đa hệ 
thống đều cao hơn nhóm Parkinson. Có sự khác 
biệt có ý nghĩa về tỷ lệ tổn thương thần kinh tự 
chủ giữa bệnh Parkinson và MSA khi khảo sát 
trên test biến thiên nhịp tim với hít thở sâu, test 
biến thiên huyết áp với vận động thể lực đẳng 
trường, biến thiên huyết áp theo tư thế, và test 
ghi đáp ứng giao cảm da (p <0,05) (Bảng 6). 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu 
Chúng tôi nghiên cứu 82 trường hợp 
Parkinson và 45 trường hợp teo đa hệ thống, sự 
khác biệt về số người mắc bệnh giữa giới nam và 
giới nữ của cả hai nhóm đều không có ý nghĩa 
thống kê (p >0,05). 
Tuổi khởi bệnh trung bình ở nhóm 
Parkinson và MSA là 55,82 ± 9,83 và 56,11 ± 7,79 
(p=0,863). Tuổi tại thời điểm nghiên cứu trung 
bình ở nhóm Parkinson và MSA là 58,62 ± 1,11 
và 58,62 ± 1,12 (p=0,977). 
Chúng tôi ghi nhận không có sự khác biệt về 
tuổi tại thời điểm nghiên cứu cũng như tuổi khởi 
bệnh giữa 2 nhóm Parkinson và MSA. Ngoài ra, 
khi so sánh, chúng tôi ghi nhận không có sự 
khác biệt về mức độ nặng của bệnh dựa vào 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 79
thang điểm UPDRS giữa 2 nhóm bệnh 
Parkinson và MSA (p=0,254). 
So sánh mức độ tổn thương thần kinh tự chủ 
giữa bệnh Parkinson và teo đa hệ thống 
Ở điều kiện bình thường, có biến thiên nhịp 
tim theo nhịp thở: khi hít vào sâu thì nhịp tim 
tăng lên do giảm hoạt động của dây X, ngược lại 
khi thở ra thì nhịp tim giảm. Biến thiên nhịp tim 
trung bình trong nhóm MSA của chúng tôi là 
5,05 nhịp/phút, thấp hơn so với nhóm Parkinson 
là 11,04 nhịp/phút, khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p <0,001). Năm 2018, tác giả Pavy-LeTraon A 
vừa công bố nghiên cứu kết quả trên 96 bệnh 
nhân Parkinson và 46 bệnh nhân MSA tại Pháp, 
kết quả hoàn toàn giống với nghiên cứu của 
chúng tôi, biến thiên nhịp tim trung bình khi hít 
thở sâu ở nhóm MSA là 5,16 nhịp/phút, thấp hơn 
có ý nghĩa so với nhóm Parkinson(5). Năm 2015, 
tác giả Baschieri F cũng ghi nhận biến thiên nhịp 
trung bình với test hít thở sâu ở 34 bệnh nhân 
MSA là 5 nhịp/phút, tương đương trong nghiên 
cứu của chúng tôi, và thấp hơn so với nhóm 65 
người bệnh Parkinson (12 nhịp/phút) (p <0,001)(6). 
Khi khảo sát dựa vào tỷ lệ bất thường, chúng tôi 
ghi nhận tỷ lệ bất thường của test biến thiên 
nhịp tim với hít thở sâu ở 45 bệnh nhân MSA 
trong nghiên cứu là 88,9%. Tỷ lệ này hoàn toàn 
phù hợp với các nghiên cứu đã thực hiện của tác 
giả Bordet R (tỷ lệ bất thường hít thở sâu ở MSA 
là 89%), Kim WC (90,9%) và Tandon R (79%)(7,8,9). 
Như vậy qua các nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận 
bệnh MSA gây bất thường chức năng thần kinh 
đối giao cảm khá nặng, với tỷ lệ bất thường test 
biến thiên nhịp tim với hít thở sâu khoảng 80-
90%, và tỷ lệ này đều cao hơn có ý nghĩa so với 
nhóm bệnh Parkinson. 
Khi thực hiện test đáp ứng nhịp tim khi thay 
đổi tư thế từ nằm sang đứng, chúng tôi ghi nhận 
chỉ số 30:15 trung bình ở nhóm MSA là 1,06 ± 
0,08, thấp hơn so với nhóm Parkinson là 1,1 ± 
0,11. Kết quả này hoàn toàn giống với nghiên 
cứu năm 2018 của tác giả Pavy-LeTraon A (chỉ 
số 30:15 ở nhóm MSA là 1,06; Parkinson 1,1; 
p=0,003)(5). Tuy nhiên, có thể do cỡ mẫu thấp hơn 
tác giả Pavy-LeTraon A, nên trong nghiên cứu 
của chúng tôi, sự khác biệt về chỉ số 30:15 giữa 2 
nhóm không có ý nghĩa thống kê (p=0,061). 
Khi khảo sát huyết áp theo tư thế, chúng tôi 
thấy có rối loạn chức năng giao cảm ở nhóm 
bệnh nhân Parkinson và đặc biệt là nhóm teo đa 
hệ thống, biểu hiện bằng hiện tượng giảm huyết 
áp tâm thu ở thời điểm 2 phút sau khi đứng, rõ 
nhất sau 3 phút và sau 5 phút, huyết áp vẫn còn 
giảm, cụ thể sau 3 phút, biến thiên huyết áp tâm 
thu trung bình ở nhóm MSA là -18,64 ± 19,54 
mmHg, so với nhóm Parkinson là 0,05 ± 14,99 
mmHg, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,001). 
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của tác giả 
Pavy-LeTraon A năm 2018 và Baschieri F năm 
2015, với chênh lệch huyết áp tâm thu trung bình 
ở nhóm MSA lần lượt là -22,1 và -26 mmHg, 
nhiều hơn so với nhóm Parkinson (p <0,001)(5,6). 
Khi tổng kết về tỷ lệ, tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở 
nhóm MSA trong nghiên cứu của chúng tôi là 
33,3%, cao hơn có ý nghĩa so với nhóm 
Parkinson là 6,1% (p <0,001). Tỷ lệ này gần 
tương đương với tỷ lệ hạ huyết áp tư thế trong 
nghiên cứu năm 2015 của tác giả Tandon R 
(41,5% trên nhóm MSA), tuy nhiên lại thấp hơn 
hẳn so với nghiên cứu của tác giả Kim WC (MSA 
54,5%) và Pavy-LeTraon A (MSA 64%)(5,8,9). Điều 
này có thể lý giải do 2 nguyên nhân, nguyên 
nhân thứ nhất có thể do chúng tôi không sử 
dụng nghiệm pháp bàn nghiêng khi thực hiện 
test. Nguyên nhân thứ 2 là do cách chọn tiêu 
chuẩn chẩn đoán hạ huyết áp tư thế khác nhau. 
Trong nghiên cứu, chúng tôi và tác giả Tandon R 
chọn ngưỡng bất thường là huyết áp tâm thu 
giảm 30 mmHg sau 3 phút khi đứng, đây là tiêu 
chuẩn nằm trong thang điểm Ewing, thang điểm 
kinh điển được sử dụng phổ biến nhất hiện nay, 
đồng thời đây cũng là tiêu chuẩn nằm trong tiêu 
chuẩn đồng thuận chẩn đoán “rất có thể” là 
bệnh teo đa hệ thống(5). Còn Pavy-LeTraon A và 
các tác giả khác đánh giá dựa vào tiêu chuẩn 
chẩn đoán hạ huyết áp tư thế theo Hội Thần 
Kinh Tự Chủ Hoa Kỳ, huyết áp tâm thu giảm 
trên 20 mmHg hoặc huyết áp tâm trương giảm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 80
trên 10 mmHg trong vòng 3 phút sau khi đứng 
hoặc nghiêng 60o khi làm nghiệm pháp bàn 
nghiêng. Chính vì vậy, khi dựa vào ngưỡng biến 
thiên huyết áp tâm thu 20 mmHg, tỷ lệ hạ huyết 
áp tư thế trong các nghiên cứu của các tác giả 
cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Tuy 
nhiên, điểm giống nhau giữa các nghiên cứu là 
tỷ lệ hạ huyết áp tư thế trong nhóm MSA đều 
cao hơn so với nhóm Parkinson. 
Khi khảo sát biến thiên nhịp tim với nghiệm 
pháp Valsava, chúng tôi ghi nhận chỉ số Valsalva 
ở nhóm MSA là 1,19 ± 0,15, thấp hơn nhóm 
Parkinson (1,24 ± 0,15) (p=0,078). Khi khảo sát về 
mặt tỷ lệ, tỷ lệ bất thường test Valsalva ở nhóm 
MSA (44,4%) cao hơn nhóm Parkinson (29,3%), 
tuy nhiên khác biệt giữa 2 nhóm vẫn không có ý 
nghĩa thống kê (p=0,086). Tỷ lệ này của chúng tôi 
giống với nghiên cứu của tác giả Brisinda, với tỷ 
lệ bất thường test Valsalva ở nhóm Parkinson và 
MSA lần lượt là 26,1% và 46,1%, tác giả Tandon 
cũng ghi nhận tỷ lệ bất thường test Valsalva ở 53 
bệnh nhân MSA là 41,5%(9,10). Tuy nhiên, tỷ lệ 
này lại thấp hơn so với các nghiên cứu của tác 
giả Kim WC và Pavy-LeTraon A(5,8). Nguyên 
nhân có thể do độ nặng của bệnh khác nhau 
giữa các nghiên cứu. Sau khi vận động thể lực 
đẳng trường, thông thường sẽ có tăng huyết áp 
cả tâm thu và tâm trương, biến thiên huyết áp 
tâm trương trung bình trong nghiên cứu của 
chúng tôi ở nhóm Parkinson và MSA lần lượt là 
7,37 ± 6,87 và 4,36 ± 6,19 mmHg, khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (p=0,016). Các nghiên cứu của tác 
giả Baschieri F, Kim WC và Pavy-LeTraon A có 
chỉ số biến thiên huyết áp tâm trương khác biệt 
so với nghiên cứu của chúng tôi. Điều này có thể 
lý giải là do phương pháp thực hiện test hơi 
khác nhau. Cụ thể, trong nghiên cứu của chúng 
tôi và Pavy-LeTraon A, bệnh nhân nắm giữ máy 
đo huyết áp trong 3 phút sao cho duy trì áp lực 
bằng 1/3 áp lực bóp tay tối đa của chính bệnh 
nhânvà tìm chênh lệch huyết áp sau 3 phút(5). 
Còn trong nghiên cứu của Baschieri F và của 
Kim WC, tác giả cũng cho bệnh nhân duy trì áp 
lực bằng 1/3 áp lực bóp tay tối đa, nhưng chọn 
đánh giá biến thiên huyết áp sau 5 phút(6,8). 
Chính vì vậy, chỉ số biến thiên huyết áp hơi khác 
biệt so với nghiên cứu của chúng tôi. Theo 
Ewing, khi thực hiện test này, có thể cho bệnh 
nhân duy trì áp lực bóp tay đến tối đa 5 phút, và 
việc chọn đánh giá đáp ứng huyết áp tại thời 
điểm 3 phút hay 5 phút là tùy vào khả năng duy 
trì áp lực bóp tay của từng bệnh nhân, và tùy 
vào quy trình của từng phòng điện cơ(4). 
Đối với test ghi đáp ứng giao cảm da, chúng 
tôi thực hiện bằng cách kích thích điện vào dây 
thần kinh và quan sát điện thế đáp ứng trên màn 
hình. Bình thường, đáp ứng giao cảm da là một 
sóng 2 pha. Trong nghiên cứu của chúng tôi, test 
ghi đáp ứng giao cảm da bất thường ở 30,5% 
bệnh nhân Parkinson và 51,1% bệnh nhân MSA, 
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,022). Trên thế 
giới, tác giả Bordet R và Pavy-LeTraon A cũng 
ghi nhận tỷ lệ bất thường giao cảm da ở bệnh 
nhân MSA cao hơn có ý nghĩa so với nhóm 
Parkinson(5,7). Tuy nhiên, có sự khác biệt về tỷ lệ 
bất thường giữa các nghiên cứu, nguyên nhân có 
thể do cỡ mẫu khác nhau và cách phân tích kết 
quả khác nhau. Tỷ lệ bất thường đáp ứng giao 
cảm da của chúng tôi và tác giả Bordet đều thấp 
hơn so với nghiên cứu của Pavy-LeTraon A. 
Nguyên nhân là do chúng tôi và tác giả Bordet 
xem ghi đáp ứng giao cảm da là một test định 
tính, test gọi là bất thường nếu không có sóng 
đáp ứng trên màn hình(7). Còn Pavy-LeTraon A 
phân tích kết quả không chỉ dựa vào có sóng 
đáp ứng hay không, mà tác giả còn dựa vào biên 
độ và thời gian tiềm của sóng đáp ứng, suy giảm 
biên độ rất nặng hoặc thời gian tiềm kéo dài đều 
là bất thường(5). Chính vì vậy, tỷ lệ bất thường 
giao cảm da trong nghiên cứu của tác giả cao 
hơn. 
Có nhiều bảng phân loại mức độ nặng dựa 
trên các test đánh giá chức năng thần kinh tự 
chủ. Trong đó, phân loại kinh điển nhất và sử 
dụng phổ biến nhất hiện nay là bảng phân loại 
của tác giả Ewing. Tác giả khảo sát 5 test, bao 
gồm: 3 test khảo sát biến thiên nhịp tim (theo tư 
thế, hít thở sâu, Valsalva) và 2 test khảo sát biến 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 81
thiên huyết áp (theo tư thế, vận động thể lực). 
Dựa vào số mức độ bất thường, tác giả phân 
thành các nhóm: bình thường (0 điểm), ranh giới 
(0,5 điểm), và bất thường (1 điểm). Từ đó, tác giả 
tính tổng điểm của 5 test, gọi là điểm Ewing(4). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, điểm Ewing 
của nhóm MSA là 3,22 ± 0,96, cao hơn so với 
nhóm Parkinson là 2,02 ± 0,96 (p <0,001). Kết quả 
này gần giống với nghiên cứu của tác giả Pavy-
LeTraon A năm 2018, qua khảo sát 96 bệnh nhân 
Parkinson và 32 MSA, tác giả ghi nhận điểm 
Ewing trung bình của nhóm MSA là 2,98 ± 1,23, 
cao hơn nhóm Parkinson là 1,79 ± 1,28 (p 
<0,001)(5). Tác giả Brisinda khi khảo sát trên 23 
bệnh nhân Parkinson và 13 MSA cũng ghi nhận 
điểm Ewing ở nhóm MSA cao hơn nhóm 
Parkinson và nhóm chứng(10). 
Tóm lại, qua các nghiên cứu, chúng tôi ghi 
nhận bệnh teo đa hệ thống gây bất thường thần 
kinh tự chủ rõ hơn và nặng hơn so với bệnh 
Parkinson. Kết quả của chúng tôi hoàn toàn phù 
hợp với y văn, đồng thời cũng phù hợp với tiêu 
chuẩn chẩn đoán bệnh Parkinson và teo đa hệ 
thống, trong đó rối loạn thần kinh tự chủ nặng là 
một trong các tiêu chuẩn giúp chẩn đoán bệnh 
teo đa hệ thống và giúp loại trừ chẩn đoán bệnh 
Parkinson(11). Trong các bệnh synuclein, rối loạn 
thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson chỉ mức 
độ nhẹ, teo đa hệ thống gây rối loạn chức năng 
thần kinh tự chủ rõ rệt và nặng, trong khi đó, sa 
sút trí tuệ thể Lewy gây rối loạn tự chủ mức 
trung bình. Chính vì vậy, kết hợp giữa lâm sàng 
và sử dụng các test đánh giá chức năng thần 
kinh tự chủ có thể giúp phân biệt các hội chứng 
Parkinson và bệnh Parkinson tự phát(2,3). 
KẾT LUẬN 
- Về mức độ tổn thương thần kinh tự chủ 
tính bằng thang điểm Ewing, nhóm bệnh nhân 
teo đa hệ thống có bất thường thần kinh tự chủ 
nặng hơn nhóm Parkinson (điểm Ewing = 3,22 
so với 2,02, p <0,001). 
- Về tỷ lệ tổn thương thần kinh tự chủ khảo 
sát riêng từng test, nhóm bệnh nhân teo đa hệ 
thống có tỷ lệ tổn thương thần kinh tự chủ cao 
hơn nhóm Parkinson, khác biệt có ý nghĩa khi 
khảo sát trên các test biến thiên nhịp tim với hít 
thở sâu, test biến thiên huyết áp theo tư thế, test 
vận động thể lực đẳng trường, và test ghi đáp 
ứng giao cảm da (p <0,05). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Mcfarland Nr (2016). Diagnostic Approach to Atypical 
Parkinsonian Syndromes. Continuum, 22(4):1117-1142. 
2. Low PA, Tomalia VA, Park KJ (2013). Autonomic function 
tests: some clinical applications. J Clin Neurol, 9(1):1-8. 
3. Kimpinski K, Iodice V, Burton DD, et al (2012). The role of 
autonomic testing in the differentiation of Parkinson's disease 
from multiple system atrophy. J Neurol Sci, 317(1-2):92-96. 
4. Ewing DJ, Martyn CN, Young RJ, Clarke BF, et al (1985). The 
value of cardiovascular autonomic function tests: 10 years 
experience in diabetes. Diabetes Care, 8(5):491-498. 
5. Pavy-Letraon A, Brefel-Courbon C, Dupouy J, et al (2018). 
Combined cardiovascular and sweating autonomic testing to 
differentiate multiple system atrophy from Parkinson's disease. 
Neurophysiol Clin, 48(2):103-110. 
6. Baschieri F, Calandra-Buonaura G, Doria A, et al (2015). 
Cardiovascular autonomic testing performed with a new 
integrated instrumental approach is useful in differentiating 
MSA-P from PD at an early stage. Parkinsonism Relat Disord, 
21(5):477-482. 
7. Bordet R, Benhadjali J, Destee A, et al (1996). Sympathetic skin 
response and R-R interval variability in multiple system 
atrophy and idiopathic Parkinson's disease. Mov Disord, 
11(3):268-272. 
8. Kim WC, Lee HJ, Yang JW (1998). Autonomic dysfunction in 
de novo patients with idiopathic Parkinson’s disease and 
multiple system atrophy. J Korean Neurol Assoc, 16(6):851-858. 
9. Tandon R, Pradhan S (2015). Autonomic predominant multiple 
system atrophy in the context of Parkinsonian and cerebellar 
variants. Clin Neurol Neurosurg, 130(2):110-113. 
10. Brisinda D, Sorbo AR, Di Giacopo R, et al (2014). 
Cardiovascular autonomic nervous system evaluation in 
Parkinson disease and multiple system atrophy. J Neurol Sci, 
336(1-2):197-202. 
11. Gilman S, Wenning GK, Low PA, Brooks DJ, Mathias CJ, et al 
(2008). Second consensus statement on the diagnosis of 
multiple system atrophy. Neurology, 71(9):670-676. 
Ngày nhận bài báo: 04/12/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020

File đính kèm:

  • pdfso_sanh_muc_do_ton_thuong_than_kinh_tu_chu_giua_benh_parkins.pdf