So sánh hiệu quả hóa giải giãn cơ rocuronium của sugammadex với neostigmin sau gây mê toàn thể tại Bệnh viện Quân Y 103

So sánh hiệu quả hóa giải giãn cơ rocuronium, đánh giá các tác dụng không

mong muốn của sugammadex và neostigmine sau gây mê toàn thể.

Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 80 bệnh nhân có chỉ định gây mê toàn

thể để phẫu thuật tại Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 02 đến tháng 09/2018, được chia

làm hai nhóm (nhóm S và nhóm N). Sau gây mê toàn thể, tiến hành hóa giãn giải cơ

bằng sugammadex ở nhóm S, neostigmine và atropine ở nhóm N ở thời điểm TOF = 2.

Đánh giá thời gian hồi phục đến TOF = 0,9; thời gian từ khi ngừng thuốc mê đến khi rút

ống NKQ. Theo dõi các tác dụng không mong muốn sau dùng thuốc.

pdf 9 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "So sánh hiệu quả hóa giải giãn cơ rocuronium của sugammadex với neostigmin sau gây mê toàn thể tại Bệnh viện Quân Y 103", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh hiệu quả hóa giải giãn cơ rocuronium của sugammadex với neostigmin sau gây mê toàn thể tại Bệnh viện Quân Y 103

So sánh hiệu quả hóa giải giãn cơ rocuronium của sugammadex với neostigmin sau gây mê toàn thể tại Bệnh viện Quân Y 103
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 18 - 6/2019 
78
1 Bệnh viện Quân y 103, HVQY
2 Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thanh Trang ([email protected])
Ngày nhận bài: 11/4/2019, ngày phản biện: 19/4/2019
Ngày bài báo được đăng: 30/6/2019
SO SÁNH HIỆU QUẢ HÓA GIẢI GIÃN CƠ ROCURONIUM CỦA 
SUGAMMADEX VỚI NEOSTIGMIN SAU GÂY MÊ TOÀN THỂ
TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103
Nguyễn Lưu Phương Thúy1, Nguyễn Đức Hải2, Phạm Quách Tuấn Anh2, 
Trịnh Anh Tuấn2, Nguyễn Đức Trọng2
TÓM TẮT
So sánh hiệu quả hóa giải giãn cơ rocuronium, đánh giá các tác dụng không 
mong muốn của sugammadex và neostigmine sau gây mê toàn thể.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 80 bệnh nhân có chỉ định gây mê toàn 
thể để phẫu thuật tại Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 02 đến tháng 09/2018, được chia 
làm hai nhóm (nhóm S và nhóm N). Sau gây mê toàn thể, tiến hành hóa giãn giải cơ 
bằng sugammadex ở nhóm S, neostigmine và atropine ở nhóm N ở thời điểm TOF = 2. 
Đánh giá thời gian hồi phục đến TOF = 0,9; thời gian từ khi ngừng thuốc mê đến khi rút 
ống NKQ. Theo dõi các tác dụng không mong muốn sau dùng thuốc.
Kết quả: Thời gian hồi phục đến TOF = 0,9 và thời gian từ khi ngừng thuốc 
mê đến khi rút ống NKQ ở nhóm S lần lượt là 210,98±89,1s; 265,5±89,1s đều nhanh 
hơn ở nhóm N với thời gian là 458,63±161,07s; 510, 13±143,95s; sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê với p<0,05. ở nhóm N. Có 03 bệnh nhân buồn nôn, nôn sau phẫu thuật, 
12 bệnh nhân khô miệng; đặc biệt 04 bệnh nhân xuất hiện tình trạng tái giãn cơ sau mổ 
cần úp mask trở lại. Chưa ghi nhận trường hợp nào xảy ra các tác dụng không mong 
muốn ở nhóm S.
Kết luận: Hóa giải giãn cơ với sugammadex 2mg/kg cho hiệu quả tốt, thời gian 
hóa giải giãn cơ nhanh hơn nhóm neostigmine. Sugammadex ít ảnh hưởng đến tuần 
hoàn và hô hấp, ít gây ra các tác dụng không mong muốn hơn neostigmin.
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
79
Từ khóa: gây mê toàn thể, sugammadex, neostigmine.
COMPARISON OF ROCURONIUM BLOCKADE QUALITY USING 
SUGAMMADEX AND NEOSSTIGMINE AFTER TOTAL ANESTHESIA
SUMMARY
Objectives: Comparison of rocuronium blockade quality and adversing effects 
using sugammadex and neostigmine after total anesthesia.
Methods: Prospective study 80 patients using total anesthesia to surgery at 
103 Military Hospital from February to September 2018 randomized into two groups: 
Group S used sugammadex and group N used neostigmine and atropine in TOF = 2 to 
rocuronium blockade after total anesthesia. Then, assessing recuperation time to TOF 
= 0,9, time from stopping anesthetic drugs to drawing endotracheal intubation and 
complications after using anesthetic drugs.
Results: Both recuperation time to TOF = 0,9 and time from stopping anesthetic 
drugs to drawing endotracheal intubation in group S(210,98±89,1s; 265,5±89,1s, 
respectively) were significantly shorted than group N(458,63±161,07s versus 510, 
13±143,95s) with p<0,05. The nausea and vomiting after surgery were 03 patients, 12 
people dry mouth; specially there were 04 patients happened muscle relaxation needing 
ventilator by putting on mask in group N. Non complications occurred in group S.
Conclusion: Rocuronium blockade quality by sugammadex 2mg/kg had good 
effective with recuperation time were shorted than neostigmine. Using sugammadex 
was less affected in circulation and respiratory than neostigmine in circulation and 
respiratory. Complications were less, too.
Key words: total anesthesia, sugammadex, neostigmine.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rocuronium là một thuốc giãn cơ 
không khử cực nhóm aminosteroid có tác 
dụng phong bế thần kinh cơ tốt, hiệu quả 
tác dụng nhanh [5], được đưa vào thực 
hành lâm sàng từ những năm 90. Thuốc 
gắn vào thụ thể Acetylcholine(Ach) ở 1 
đơn vị α theo cơ chế cạnh tranh có hồi 
phục cản trở ACh gắn vào thụ thể ACh gây 
giãn cơ. Thời gian tác dụng của thuốc phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố, dễ xuất hiện tồn 
dư giãn cơ sau gây mê toàn thể. Tình trạng 
này xảy ra ở khoảng 2/3 số bệnh nhân hậu 
phẫu với biểu hiện suy giảm thông khí và 
giảm oxy máu [1].
Neostigmine là chất kháng 
cholinesterase hoạt động gián tiếp bằng 
cách bất hoạt enzyme acetylcholinesterase 
trong khe tiếp hợp, dẫn đến nồng độ 
acetylcholine tăng đột ngột sẽ cạnh tranh 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 18 - 6/2019 
80
với các phân tử thuốc giãn cơ tại các 
receptor nicotin acetylcholine đặc biệt ở 
màng sau tiếp hợp [9]. Tác dụng giải giãn 
cơ thường bắt đầu xuất hiện trong 1 – 2 
phút sau tiêm tĩnh mạch và đạt tối đa trong 
6 – 10 phút [10]. Hiệu quả giải giãn cơ phụ 
thuộc vào thời điểm tiêm và liều lượng 
thuốc, đồng thời xuất hiện nhiều tác dụng 
phụ trên hô hấp, tim mạch và xảy ra tái 
giãn cơ sau giải.
Sugammadex(Bridion) là một 
cyclodextrin giải giãn cơ bằng cách bắt 
giữ phân tử tự do để tạo thành một phức 
hợp ổn định [4], được đưa vào thực hành 
lâm sàng trong thời gian gần đây. Khi tiêm 
vào tuần hoàn, sugammadex gắn kết với 
các phân tử thuốc giãn cơ không khử cực 
nhóm aminosteroid tự do( rocuronium > 
vecuronium) làm giảm nồng độ tự do của 
thuốc trong huyết tương tạo sự chênh lệch 
nồng độ giữa tiếp hợp thần kinh – cơ và 
huyết tương đẫn đến việc di chuyển các 
phâ tử thuốc giãn cơ ra khỏi tiếp hợp thần 
kinh – cơ trở về huyết tương, ở đó nó sẽ 
bị bắt giữ bởi các phân tử sugammadex. 
Thuốc được chứng minh là một chất dung 
nạp tốt, thời gian phát huy tác dụng ngắn, 
hiệu quả tốt, ít tác dụng phụ.
 Nghiên cứu này nhằm so sánh 
hiệu quả hóa giải giãn cơ rocuronium và 
đánh giá các tác dụng không mong muốn 
của sugammadex với neostigmine sau gây 
mê toàn thể.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
80 bệnh nhân có chỉ định gây mê 
toàn thể để phẫu thuật tại bệnh viên Quân 
Y 103 được chia thành 2 nhóm:
+Nhóm S (nhóm sugammadex; 
n= 40): sau gây mê toàn thể, hóa giải giãn 
cơ bằng sugammadex liều 2mg/kg.
+Nhóm N (nhóm neostigmine; 
n=40): sử dụng neostigmine 40mcg/kg và 
atropine 10mcg/kg đề hóa giải giãn cơ sau 
phẫu thuật.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp 
lâm sàng có đối chứng từ tháng 02 đến 
tháng 09/2017, so sánh hiệu quả hóa giải 
giãn cơ rocuroium và đánh giá các tác 
dụng không mong muốn của sugammadex 
và neostigmine sau gây mê toàn thể.
Bệnh nhân được đưa vào phòng 
phẫu thuật, giải thích về phương pháp vô 
cảm sẽ tiến hành, đặt đường truyền tĩnh 
mạch với kim luồn 18G, giám sát liên tục 
về nhịp tim, điện tim, SpO2, đo huyết áp, 
lắp máy TOF – watch theo dõi kích thích 
thần kinh trụ tại vị trí cơ khép ngón cái.
Gây mê NKQ theo phác đồ chung:
+ Khởi mê: fentanyl 3mcg/kg; 
propofol 2 – 2,5mg/kg; rocuronium 1mg/
kg.
+ Đặt NKQ khi TOF = 0.
+ Duy trì mê: bằng servofluran; 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
81
thông khí Vt=8 – 10ml/kg; tần số thở 12 
– 14 lần/phút; duy trì áp lực đường thở 12 
– 16 cm H2O; EtCO2::25 – 35 mmHg.
+ Rocuronium nhắc lại 0,5mg/kg 
khi TOF≥2 twitch.
+ Giải giãn cơ sau phẫu thuật: 
đo TOF 15 giây 1 lần trong 6o phút, giải 
giãn cơ bằng sugammadex 2mg/kg hoặc 
neostigmine 40mcg/kg và atropine 10mcg/
kg tại thời điểm TOF=2.
+Rút NKQ khi đủ tiêu chuẩn: tỉnh, 
tiếp xúc tốt; hồi phục phản xa ho khac; tự 
thở thỏa đáng 10 – 30 lần/phút Vt>5ml/kg; 
nhịp tim≥60 lần/phút, HATT≥90mmHg; 
TOF≥0,9.
Các chỉ tiêu theo dõi và đánh giá:
+ Tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, 
các loại phẫu thuật, thời gian phẫu thuật 
(tính từ lúc rạch da đến lúc kết thúc phẫu 
thuật) và thời gian gây mê (tính từ lúc khởi 
mê dến lúc kết thúc phẫu thuật).
+ So sánh hiệu quả hóa giải 
giãn cơ giữa 2 nhóm dựa vào: tổng liều 
rocuronium sử dụng trong phẫu thuật, thời 
gian phục hồi giãn cơ đến TOF >0,9; thời 
gian từ khi ngừng thuốc đến khi rút ống 
NKQ; đánh giá mức độ hài lòng của phẫu 
thuật viên (hài lòng: cơ mềm tốt, thuận lợi 
cho phẫu thuật; chưa hài lòng: cơ mềm 
vừa, khó khăn trong phẫu thuật).
+ Đánh giá các tác dụng không 
mong muốn sau dung thuốc giữa 2 nhóm 
thông qua sự biến đổi của SpO2, sự thay 
đổi nhịp tim, diễn biến của huyết áp và 
xuất hiện các triệu chứng: nôn, buồn nôn; 
khô miệng, tái giãn cơ.
Các thông số được theo dõi, ghi 
chép và xử lý trên phần mềm SPSS 20.0. 
Các biến liên tục được mô tả dưới dạng giá 
trị trung bình và độ lệch chuẩn. Các biến 
rời rạc được mô tả dưới dạng số nguyên.
3. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung
Chỉ tiêu Nhóm N(n=40) Nhóm S(n=40) p
Giới tính:nam/nữ 18/22 20/20 >0,05
Tuổi trung bình nhóm nghiên cứu 51,20±14,77
[22 – 76]
56,93±20,49
[10 – 87]
>0,05
Chiều cao(cm) 159,85±5,74
[148 – 172]
157,93±9,50
[115 – 170]
>0,05
Cân nặng(kg) 52,98±7,16
[41 – 68]
51,25±8,45
[30 – 75]
>0,05
BMI(kg/m2) 20,68±2,06
[16,82 – 25,91]
20,46±2,82
[16,02 – 27,54]
>0,05
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 18 - 6/2019 
82
ASA:II/III 32/8 25/15 >0,05
Các loại pt: 
ngực/bụng/cổ/thần kinh/sản phụ 
khoa
0/19/13/7/1 11/23/4/2 >0,05
Thời gian phẫu thuật(s) 144,75±56,36
[40 – 225]
159,33±118,19
[50 – 740]
<0,05
Thời gian gây mê(s) 161,63±60,85
[50 – 280]
185,33±120,65
[60 – 760]
<0,05
2. Các chỉ tiêu về so sánh hiệu quả hóa giải giãn cơ
Chỉ tiêu Nhóm N(n=40) Nhóm S(n=40) p
Tổng liều rocuronium(mg)
67,00±24,90
[40 – 130]
86,13±37,80
[30 – 220]
<0,05
Thời gian đến TOF>0,9(s) 458,63±161,07 210,98±89,10 <0,05
Thời gian ngừng thuốc – rút NKQ(s) 510,13±143,95 265,50±89,10 <0,05
Mức dộ hài lòng:
<0,05 +Hài lòng 36 40
 +Chưa hài lòng 4 0
Sự biến đổi của SpO2, sự thay đổi nhịp tim, diễn biến của huyết áp giữa 2 nhóm 
là khác nhau nhưng không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
3. Đánh giá tác dụng phụ:
Tác dụng phụ Nhóm N(n=40) Nhóm S(n=40) p
Buồn nôn, nôn 3 0
<0,05Khô miệng 12 0
Tái giãn cơ 4 0
4. BÀN LUẬN
Thuốc giãn cơ được đưa vào thực 
hành lâm sàng từ những năm 1942. Việc 
ứng dụng thuốc giãn cơ mang đến nhiều 
lợi ích như: loại trừ các cử động của bệnh 
nhân trong mổ, tạo phẫu trường rộng cho 
thao tác [2], giảm áp lực bơm hơi trong 
ổ bụng, may vết mổ [12], đồng thời làm 
giảm đau vai sau mổ trong phẫu thuật nội 
soi [13]. Tuy nhiên việc sử dụng thuốc 
giãn cơ trong thực hành lâm sàng vẫn còn 
nhiều thách thức với các bác sĩ gây mê hồi 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
83
sức, đặc biệt là vấn đề tồn dư giãn cơ và 
hóa giải giãn cơ sau mổ.
Giãn cơ tồn dư được định nghĩa là 
tình trạng còn dấu hiệu nhược cơ sau gây 
mê có sử dụng giãn cơ. Đây là một trong 
những yếu tố nguy cơ chính của các biến 
chứng hô hấp sau gây mê. Trước đây tỉ số 
TOF≥0,7 được cho là đã có hồi phục cơ 
hoàn toàn , cho phép rút ống NKQ và thở 
tự nhiên [6]. Gần đây người ta nhận thấy 
TOF<0,9 vẫn có liên quan đến tình trạng 
rối loạn chức năng cơ hần và cơ thắt trên 
thực quản vì thế vẫn còn nguy cơ đáng kể 
đới với hô hấp [14]. Đây cũng là tiêu chuẩn 
vàng để chẩn đoán tồn dư giãn cơ [7]. Vì 
vậy theo dõi tồn dư giãn cơ và lựa chọn, sử 
dụng các thuốc hóa giải giãn cơ một cách 
hợp lý như các thuốc anticholinesterase( 
trên lâm sàng hiện nay thường dùng 
là neostigmine và edrophonium) hoặc 
sugammadex là việc làm không thể thiếu 
nhằm đem lại sự an toàn cao nhất cho bệnh 
nhân trong quá trình gây mê và phẫu thuật.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
các bệnh nhân ở hai nhóm không có sự 
khác biệt về các đặc điểm chung như: giới 
tính, tuổi, chiều cao, cân nặng, BMI. Về 
phân loại sức khỏe bệnh nhân theo ASA 
cho thấy bệnh nhân ở cả 2 nhóm đều là 
ASA II, ASA III, trong đó chủ yếu là ASA 
II. Phẫu thuật ngực – bụng ở cả hai nhóm 
đều chiếm ưu thế, phẫu thuật thần kinh, 
sản phụ khoa chiếm tỷ lệ nhỏ, sự khác 
biệt về tỷ lệ các loại phẫu thuật này trong 
hai nhóm không có ý nghĩa thống kê. Thời 
gian phẫu thuật trung bình ở nhóm N là 
144,75±56,36 phút và 159, 33±118,19 
phút ở nhóm S, dài hơn thời gian phẫu 
thuật là 105,47±53,38 phút trong nghiên 
cứu của tác giả Neriman Gulec, Cafer 
Multu Sarikas và cộng sự (2015) so sánh 
tác dụng hóa giãn giãn cơ rocuronium của 
sugammadex và neostigmine sau gây mê 
toàn thân bằng desflurane [15], nhiều khả 
năng do các phẫu thuật lồng ngực và trung 
thất là loại phẫu thuật tốn nhều thời gian. 
Tác dụng hóa giải giãn cơ của 
sugammadex và neostigmine dược thể 
hiện ở ở thời gian hồi phục giãn cơ sau 
tiêm thuốc tương ứng với mức TOF>0,9 
và thời gian từ khi ngừng thuốc mê đến 
khi rút ống NKQ. Hai chi số trên ở nhóm 
S lần lượt là 110,98±89,1s và 165,5±89,1s 
đều ngắn hơn có ý nghĩa thống kê so với 
658,63±161,07s và 710,13±143,95s ở 
nhóm N. Kết quả này tương tự với kết quả 
nghiên cứu của các tác giả Ozlem Sacan, 
Paul F. White, và cộng sự với thời gian 
hồi phục giãn cơ sau tiêm neostigmine 
và sugammadex lần lượt là 1044±590s và 
107±61s [16]. Các tác giả Bon – Wook 
Koo. Ah – Young Oh và cộng sự(2016) 
trong nghiên cứu tác dụng hóa giãn giãn cơ 
của 2 thuốc trên sau phẫu thuật nội soi cắt 
túi mật cũng cho kết quả tương tự với thời 
gian hồi phục giãn cơ của sugammadex 
là 2,5±1,3 phút ngắn hơn nhóm sử dụng 
neostigmine là 6,7±2,6 phút [3]. Neriman 
Gulec, Cafer Multu Sarikas và cộng 
sự(2015) trong nghên cứu của mình cũng 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 18 - 6/2019 
84
cho nhận xét về thời gian từ khi ngừng 
thuốc đến khi rút ống NKQ trong nhóm 
neostigmine là 669,1±135,21s dài gấp 5 
lần so với thời gian 130,37±109,1s của 
nhóm sugammadex. 
Trong quá trình nghiên cứu, chúng 
tôi gặp 4 trường hợp, trong tổng số 40 BN 
ở nhóm neostigmine chiếm tỉ lệ 10% xuất 
hiện các dấu hiện tái giãn cơ phải úp mask 
hỗ trợ thông khí(3BN) hoặc đặt lại ống 
NKQ(1BN),trong khi đó ở nhóm sử dụng 
sugammadex không xuất hiện trường hợp 
tái giãn cơ nào. Kết quả này cao hơn so 
với nghiên cứu của Neriman Gulec, Cafer 
Multu Sarikas và cộng sự(2015) ghi nhận 
có 2 trường hợp ở nhóm neostigmine xuất 
hiện tái giãn cơ chiếm 7,8% [15]. Đây là 
biến chứng quan trọng và nguy hiểm nhất 
sau sử dụng các thuốc hóa giải giãn cơ với 
biểu hiện lâm sàng sớm nhất là tình trạng 
bệnh nhận xuất hiện các vấn để về hô hấp: 
BN đang có tiến triển tốt về hô hấp sau giải 
giãn cơ nhưng khi hết thời gian tác dụng 
của thuốc kháng cholinesterase sẽ xuất 
hiện suy hô hấp nhanh chóng nới sự giảm 
độ bão hòa oxy nghiêm trọng kèm theo sự 
thay đổi về nhịp tim. Có sự xuất hiện hiện 
tượng trên là do thuốc kháng cholinesterase 
bị phân phối lại và chuyển hóa nên nồng 
độ của chúng giảm hẳn ở các tiếp hợp thần 
kinh cơ, trong khi nồng độ thuốc giãn cơ 
còn cao. Tác dụng này tăng trong điều 
kiện nhiễm toan hô hấp và suy giảm chức 
năng thận. Trong khi đó sugammadex giải 
giãn cơ bằng cách bắt giữ phân tử tự do 
để tạo thành một phức hợp rất chặt chẽ 
ở tỷ lệ 1:1 với các thuốc giãn cơ nhóm 
aminosteroid(rocuronium> vecuronium> 
pancuronium) [4],[ 8],[ 11],[ 17]. Người ta 
ước tính rằng, đối với mỗi 25 triệu phức 
hợp sugammadex – rocuronium, chỉ có 
một phức hợp tách ra. Chính vì vậy hiệu 
quả hóa giải giãn cơ của sugammadex tốt, 
không ghi nhận trường hợp nào tái giãn cơ 
sau phẫu thuật. Các tác dụng không mong 
muốn khác như buồn nôn, nôn, khô miệng 
chỉ xuất hiện ở nhóm sử dụng neostigmine 
15/40 BN( 3 BN buồn nôn, nôn, 12 BN khô 
miệng) chiếm 37,5 %. Kết quả này tương 
đồng với nghiên cứu của Bon – Wook 
Koo, Ah – Young Oh và cộng sự(2016) với 
sự xuất hiện của 19/32 BN khô miệng [3]. 
Nhóm sử dụng sugammadex trong nghiên 
cứu của chúng tôi không xuất hiện bất kỳ 
một tác dụng không mông muốn nào.Cho 
đến nay, tác dụng phụ được ghi nhận nhiều 
nhất sau sử dụng sugammadex là rối loạn 
vị giác (mùi kim loại hoặc đắng) .
Rõ ràng việc phát hiên ra 
cyclodextrin (sugammadex), loại thuốc 
hóa giải được giãn cơ ở mức độ sau của 
các thuốc giãn cơ không khử cực là rất 
có giá trị, không chỉ mang lại hiệu quả vè 
hóa giải giãn cơ, rút ngắn thời gian giải 
giãn cơ, thời gian rút ống NKQ, thời gian 
hồi tỉnh; sugammadex còn đặc biệt giá trị 
trong những hoàn cảnh “không thể đặt ống 
NKQ và không thể thông khí”. Tuy nhiên, 
thuốc không tạo được phức hợp với các 
thuốc giãn cơ khử cực(succinylcholine) 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
85
và các thuốc giãn cơ không khử cực chứa 
nhân benzylisoquinilium (atracurium và 
mivacurium) do đó không thể hóa giải 
giãm cơ với những thuốc này.
5. KẾT LUẬN
Sugammadex là loại thuốc hóa 
giải giãn cơ thế hệ mới, có tác dụng hồi 
phục nhanh chóng và hiệu quả đối với 
thuốc giãn cơ rocuronium ở liều 2mg/kg. 
thời gian hồi phục giãn cơ tương đương 
với mức TOF>0,9 và thời gian từ khi 
ngừng thuốc đến khi rút ống NKQ của 
nhóm sugammadex trong nghiên cứu đều 
ngắn hơn nhóm neostigmine, sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Sugammadex được chứng minh là 
an toàn, ít ảnh hưởng đến tuần hoàn và hô 
hấp, tránh được các tác dụng không mong 
muốn, đặc biệt là tình trạng tái giãn cơ do 
sử dụng thuốc đối kháng cholinesterase và 
kháng muscarinic.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Minh Thu 
(2012), Nghiên cứu một số yếu tố ảnh 
hưởng tới tình trạng giãn cơ tồn dư của 
vecuromnium và hiệu quả giải giãn cơ của 
neostigmin, Luận văn tiến sỹ y học, Viện 
nghiên cứu y dược học lâm sàng 108.
2. M.V. Madsenet al 
(2015), Neuromuscular blockade for 
optimising surgical conditions during 
abdominal and gynaecological surgery: a 
systematic review Acta Anesthesiological 
Scandinavica.
3. Ah- Young Oh Bon-Wook 
Koo, Kwang-Suk Seo, Ji-Won Han, Ho-
Seong Han, Yoo- Seok Yoon (2016), 
“Randomized clinical trial of moderate 
versus deep neuromuscular block for 
low pressure pneumoperitoneum during 
laparoscopic cholecystectomy”, World 
journal of surgery.
4. MH Bruintjes, et al. 
(2017), “Deep neuromuscular block to 
optimize surgical space conditions during 
laparoscopic surgery: a systematic review 
and meta-analysis”, BJA: British Journal 
of Anaesthesia. 118(6), tr. 834-842.
5. D. S. Castro, Jr., et al. (2014), 
“Sugammadex reduces postoperative pain 
after laparoscopic bariatric surgery: a 
randomized trial”, Surg Laparosc Endosc 
Percutan Tech. 24(5), tr. 420-3.
6. E. S. Choi, et al. (2017), 
“Comparison of reversal with neostigmine 
of low-dose rocuronium vs. reversal with 
sugammadex of high-dose rocuronium for 
a short procedure”, Anaesthesia.
7. Glenn S. Murphy và Sorin 
J. Brull (2010), “Residual neuromuscular 
block”, Definitions, Incidence and 
Adverse physiologic effects of residual 
neuromuscular block Anesth & Analg, tr. 
120 - 128 
8. H. L. Illman, et al. (2011), 
“The duration of residual neuromuscular 
block after administration of neostigmine 
or sugammadex at two visible twitches 
during train-of-four monitoring”, Anesth 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 18 - 6/2019 
86
Analg. 112(1), tr. 63-8.
9. R. K. Jones, et al. (2008), 
“Reversal of profound rocuronium-
induced blockade with sugammadex: 
a randomized comparison with 
neostigmine”, Anesthesiology. 109(5), tr. 
816-24.
10. D. Kizilay, et al. (2016), 
“Comparison of neostigmine and 
sugammadex for hemodynamic parameters 
in cardiac patients undergoing noncardiac 
surgery”, J Clin Anesth. 28, tr. 30-5.
11. M. V. Madsen, et al. (2017), 
“Deep neuromuscular blockade and low 
insufflation pressure during laparoscopic 
hysterectomy”, Dan Med J. 64(5).
12. Mark Welliver và et al 
(2008), “Discovery, development and 
clinical application of sugammadex 
sodium, a selective relaxant bingding 
agent”, Drug design, Development and 
Theraphy.
13. Matias V. Madsen và et 
al (2015), Postoperative shoulder pain 
after laparoscopic hysterectomy with 
deep neuromuscular blockade and low - 
preesure pneumoperitoneum A randomised 
controlled trial.
14. Cynthia A.Lien Mohamed 
Naguib, “Pharmacology of Muscle 
Relaxants and Their antagonists”.
15. Cafer Multu Sarikas 
Neriman Gulec, Ayse Nur Yeksan, Sibel 
Oba (2015), “Comparison of decurarization 
using sugammadex and neostigmin after 
rocuronium during desflutan anesthesia”, 
Arastirma Yazisi, tr. 48-53.
16. Paul F.White Ozlem Sacan, 
Burcu Tufanogullari, Kevin Klein (2007), 
“Sugammadex reversal of rocuronium-
induced neuromuscular blockade: 
A comparison with neostigmine-
glycopyrrolate and edrophonium-
atropine”, Anesthesia and Analgesia. 104, 
tr. 569-574.
17. O. Sacan, et al. (2007), 
“Sugammadex reversal of rocuronium-
induced neuromuscular blockade: 
a comparison with neostigmine-
glycopyrrolate and edrophonium-
atropine”, Anesth Analg. 104(3), tr. 569-
74.

File đính kèm:

  • pdfso_sanh_hieu_qua_hoa_giai_gian_co_rocuronium_cua_sugammadex.pdf