So sánh hiệu quả duy trì mê và chất lượng hồi tỉnh của desflurane với sevoflurane và propofol trong phẫu thật nội soi viêm ruột thừa cấp
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả duy trì mê và chất lượng hồi tỉnh của thuốc
mê desflurane, sevoflurane, propofol.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang có phân tích so
sánh.
Kết quả nghiên cứu: 735 bệnh nhân được phẫu thuật nội soi viêm ruột thừa cấp
dưới gây mê nội khí quản chia thanh ba nhóm, mỗi nhóm 245 bệnh nhân. Bệnh nhân
nhóm I và II được khởi mê bằng propofol 2mg/kg tĩnh mạch, sau khởi mê bệnh nhân
được duy trì mê bằng desflurane từ 5 – 8% hoặc sevoflurane từ 1,5 – 2,5%, nồnh độ
thuốc mê thay đổi để duy trì độ mê và ổn định huyết động, Nhóm III gây mê bằng propofol sử dụng TCI, duy trì chỉ số Bis trong khoảng 40 – 60. Hiệu quả duy trì mê ở cả ba
nhóm đều cơ kết quả tốt, mê êm, huyết động ổn định, các chỉ số tần số tim huyết áp động
mạch luôn nằm trong giới hạn bình thường.
Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh hiệu quả duy trì mê và chất lượng hồi tỉnh của desflurane với sevoflurane và propofol trong phẫu thật nội soi viêm ruột thừa cấp
COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC 93 Tóm tắt Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả duy trì mê và chất lượng hồi tỉnh của thuốc mê desflurane, sevoflurane, propofol. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang có phân tích so sánh. Kết quả nghiên cứu: 735 bệnh nhân được phẫu thuật nội soi viêm ruột thừa cấp dưới gây mê nội khí quản chia thanh ba nhóm, mỗi nhóm 245 bệnh nhân. Bệnh nhân nhóm I và II được khởi mê bằng propofol 2mg/kg tĩnh mạch, sau khởi mê bệnh nhân được duy trì mê bằng desflurane từ 5 – 8% hoặc sevoflurane từ 1,5 – 2,5%, nồnh độ thuốc mê thay đổi để duy trì độ mê và ổn định huyết động, Nhóm III gây mê bằng pro- pofol sử dụng TCI, duy trì chỉ số Bis trong khoảng 40 – 60. Hiệu quả duy trì mê ở cả ba nhóm đều cơ kết quả tốt, mê êm, huyết động ổn định, các chỉ số tần số tim huyết áp động mạch luôn nằm trong giới hạn bình thường. Chất lượng hồi tỉnh: - Thời gian mở mắt trung bình: Desflurane: 7,31 ± 0,66phút, sevoflurane: 10,82 ± 0,75, propofol: 11,65 ± 0,92 - Thời gian rút NKQ: Desflurane: 8,79 ± 0,63, sevoflurane:14,68 ± 1,13, propofol: 16,88 ± 1,52. - Thời gian chuyển phòng hồi tỉnh: Desflurane:10,57 ± 0,80phút, sevoflurane:16,1 ± 1,02, propofol: 17,9 ± 1,21. - Thời gian lưu phòng hồi tỉnh: Desflurane: 17,93 ± 0,75phút, sevoflurane: 22,18 ± SO SÁNH HIỆU QUẢ DUY TRÌ MÊ VÀ CHẤT LƯỢNG HỒI TỈNH CỦA DESFLURANE VỚI SEVOFLURANE VÀ PROPOFOL TRONG PHẪU THẬT NỘI SOI VIÊM RUỘT THỪA CẤP Nghiêm Thanh Tú*, Nguyễn Xuân Tiến* Nguyễn Văn Xứng*, Phạm Thị Thanh Vân* (*) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Nghiêm Thanh Tú (Email:[email protected]) Ngày nhận bài: 25/2/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 29/3/2016. Ngày bài báo được đăng: 30/3/2016 TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016 94 1,37, propofol: 24,54 ± 2,34. Kết luận: Desflurane, sevoflurane và propofol là ba loại thuốc mê có hiệu quả duy trì mê tốt, quá trình duy trì mê êm, thuốc mê ít ảnh hưởng đến huyết động, tần số tim, huyết áp động mạch luôn luôn ổn định. Thời gian hồi phục sau gây mê của cả ba loại thuốc mê đều có chất lượng hồi tỉnh tốt, trong đó desflurane có chất lượng hồi tỉnh tốt hơn so với sevoflurane và sevoflurane có chất lượng hồi tỉnh tốt hơn so với propofol. Ở nhóm sử dụng desflurane bệnh nhân tỉnh mê nhanh, các phản xạ đường thở phục hồi sớm hơn. Từ khóa: Gây mê nội khí quản, desflurane, sevoflurane, propofol. THE EFFECTIVENESS OF ANESTHESIA MAINTAINANCE AND RESUSCITATION IN LAPAROSCOPIC SURGERY OF ACUTE APPENDICITIS: A COMPARISON BETWEEN DESFLURANE, SEVOFLURANE AND PROPOFOL Abstract Objective: To assess the effectiveness of anesthesia maintainance and resuscitation of Desflurane, Sevoflurane and propofol. Methods: prospective studies, cross-sectional descriptive, comparative analysis Results: We randomized 735 patients undergoing laparoscopic surgical procedures of acute appendicitis requiring general anesthesia and dividing into three groups, with 245 patients in each group. All patients in group I, II were induced with propofol 2mg/ kg IV, and after anesthesia was maintained with either desflurane 5 – 8% or sevoflurane 1.5 – 2.5%. The inspired concentration of the volatile anesthetic was varied to maintain hemodynamic stability. Group 3 received propofol using TCI and Bispectral Index value of 40 – 60. Maintain anesthesia in three groups had good results, anesthesia smoothly, less hemodynamic changes, the indexes of heart rate, arterial blood pressure is always in the normoal limits. smooth anesthesia, hemodynamic stability less hemodynamic changes, the indexes of heart rate, arterial blood pressure is always in the normoal limits. Resuscitation quality quality of recovery: (minutes) Time to open eyes: Desflurane: 7,31 ± 0,66, sevoflurane: 10,82 ± 0,75, propofol: 11,65 ± 0,92 COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC 95 Times for extubation: Desflurane: 8,79 ± 0,63, sevoflurane:14,68 ± 1,13, propofol: 16,88 ± 1,52. Transfer time to the recovery room: Desflurane:10,57 ± 0,80phút, sevoflurane:16,1 ± 1,02, propofol: 17,9 ± 1,21. Time to stay in the recovery room: Desflurane: 17,93 ± 0,75phút, sevoflurane: 22,18 ± 1,37, propofol: 24,54 ± 2,34. Conclusion: Maintaining anesthesia by using desflurane, sevoflurane, propofol had good results. Resuscitation quality of desflurane is better than sevoflurane and sevoflurane is better than propofol. Key word: general anesthesia endotracheal intubation, desflurane, sevoflurane, propofol ĐẶT VẤN ĐỀ Desflurane và sevoflurane là thuốc mê thế hệ mới thuộc nhóm thuốc mê dòng halogen. Là thuốc mê hô hấp có tính chất hấp thu nhanh và đào thải nhanh qua đường hô hấp, chuyển hóa trong cơ thể rất ít, do vậy thuốc có tác dụng khởi mê nhanh và hồi tỉnh sớm, với ưu thế duy trì mê êm, huyết động ổn định, quá trình tỉnh mê nhanh thuận lợi cho theo dõi sau mổ, ít tác dụng phụ, bệnh nhân nhanh chóng được chuyển ra khỏi phòng hồi tỉnh, ngày nay người ta sử dụng nhiều trong các phẫu thuật ngoại trú, bệnh nhân có thể về trong ngày. Propofol thuộc loại thuốc mê tĩnh mạch mới, có nhiều ưu điểm như khởi mê nhanh, tỉnh mê sớm, quá trình mê êm, sau gây mê bệnh nhân thức tỉnh hoàn toàn. Ở Việt Nam desflurane được bắt đầu sử dụng từ giữa năm 2011 ở một số bệnh viện lớn trên toàn quốc. Tại bệnh viện 175 đã bắt đầu sử dụng desflurane từ tháng 4 năm 2011, để đánh giá hiệu quả của ba loại thuốc mê mới đang sử dụng phổ biến trên thế giới hiện nay, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu so sánh hiệu quả duy trì mê và chất lượng hồi tỉnh của desfliurane với sevoflurane và propofol ” Mục tiêu nghiên cứu: So sánh hiệu quả duy trì mê. Chất lượng hồi tỉnh ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Chọn ngẫu nhiên 735 bệnh nhân có chỉ định gây mê phẫu thuật nội soi viêm ruột thừa cấp, chia thành ba nhóm, mỗi nhóm 245 bệnh nhân. * Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân: - Bệnh nhân có chỉ định gây mê nội khí quản - Bệnh nhân được xếp loại theo tiêu chuẩn ASAI và ASAII. * Tiêu chuẩn loại trừ: - Bệnh nhân chống chỉ định gây mê với thuốc mê bốc hơi. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016 96 - Bệnh nhân chống chỉ định gây mê với propofol 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu tiến cứu, phân tích so sánh. 2.2. Thuốc, phương tiện nghiên cứu - Phương tiện: + Bơm tiêm điện Terumo TE - 371 (phần mềm TCI). + Máy gây mê Datex-Omeda Avance, module phân tích khí mê. + Máy đo độ mê (BIS). Mornitor theo dõi chỉ số sinh tồn của bệnh nhân. - Thuốc mê. Propofol 50ml/lọ (10mg/ ml). Desflurane, sevoflurane. 2.3. Các chỉ tiêu theo dõi đánh giá - Đánh giá độ mê. + Theo tiêu chuẩn đánh giá độ mê của Evan(Evan’s score), dựa vào áp lực động mạch, tần số tim, mức độ tiết nước mắt, và tiết mồ hôi, điểm tính từ 0 đến 8, tối đa không vượt quá 4 điểm. + Chỉ số BIS. Duy trì trong khoảng từ 40 – 60. - Đánh giá các chỉ số tuần hoàn. Theo dõi sự thay đổi tần số tim, huyết áp tối đa, huyết áp tối thiểu tại các thời điểm trước gây mê, sau GM 5phút, 10phút, 20phút, 30phút, 40phút, 50phút, 60phút, 70phút, 80phút, 90phút(T, T1, T2, T3, T4, T5, T6, T7, T8, T9, T10) - Theo dõi đánh giá sau mổ, kết thúc cuộc gây mê. Thời gian mở mắt, thời gian rút NKQ, thời gian chuyển ra phòng hồi tỉnh, thời gian lưu BN tại phòng hồi tỉnh. 3. Phương pháp tiến hành * Chuẩn bị bệnh nhân. Bệnh nhân được chuẩn bị gây mê nội khí quản trong phẫu thuật cấp cứu. * Kỹ thuật tiến hành gây mê. + Các bệnh nhân ở nhóm I và nhóm II đều được thực hiện theo qui trình thống nhất như sau: Tiền mê bằng sufentanyl 0,2μg/kg. Khởi mê bằng propofol, giãn cơ ® đặt nội khí quản. Duy trì mê bằng desflurane hoặc sevoflurane + Các bệnh nhân ở nhóm III. Sử dụng propofol bằng máy gây mê kiểm soát nồng độ đích. Khởi mê propofol – TCI, đặt Ce 2,5 µg/ml lúc ban đầu (tăng Ce từng mức 0,5 µg/ml cho đến khi mất đáp ứng với lời nói và mất phản xạ mi mắt). Đặt NKQ sau khi tiêm giãn cơ 3 phút. Duy trì mê và thoát mê: điều chỉnh propofol (tăng giảm Ce từng mức 0,5 µg/ml) để giữ 40< chỉ số BIS <60. Trước khi kết thúc mổ 10 phút thì giảm Ce từng mức 0,5 µg/ml để giữ chỉ số BIS quanh 60. Khi kết thúc mổ thì ngừng hoàn toàn propofol 4. Thu thập và xử lý số liệu. Số liệu nghiên cứu được thu thập và xử lý theo phương pháp thống kê y học trên phần mềm SPSS 16.0 của tổ chức y tế thế giới COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC 97 kẾT QUả NGHIÊN CỨU 1. Tuổi, giới. - Nhóm I: Tuổi thấp nhất 15, cao nhất 57, TB: 28,88 ± 10,68 - Nhóm II: Tuổi thấp nhất 14, cao nhất 55, TB: 27,08 ± 9,98 - Nhóm III: Tuổi thấp nhất 16, cao nhất 60, TB: 29,28 ± 10,18. Sự khác biệt về tuổi giữa các nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. * Nhóm tuổi: Nhóm tuổi Số bệnh nhân Nhóm I Nhóm II Nhóm III ≤ 20 59(24.1%) 52(21.2%) 55(22,49) 21 – 40 147(60,0%) 150(61,2%) 154(62,8%) 41- 60 39(15,9%) 43(17,5%) 36(14,7%) Tổng 245 245 245 P > 0,05 Nhận xét: Trong ba nhóm nghiên cứu nhóm tuổi giữa các nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. * Giới: Cả ba nhóm tỷ lệ nam và nữ tương đương nhau, sực khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05. 2. Nồng độ thuốc mê duy trì mê. Bảng 3.2: Nồng độ thuốc mê duy trì mê. Nồng độ thuốc duy trì mê Propofol Desflurane Sevoflurane 3 - 5µg/ml Trung bình 4,22 ± 0,47 Từ 5 – 8%, trung bình 6,38 ± 0,65 Từ 1,5 – 2,5%, trung bình 2,12 ± 0,23 3. Thời gian phẫu thuật. Bảng 3.3: Thời gian phẫu thuật Nhóm I II III Thời gian phẫu thuật 25 – 80(phút) 23 – 78(phút) 21 - 65(phút) Trung bình 38,36 ± 11,66phút 36,91 ± 10,78phút 31,24 ± 9,82 phút p p > 0,05 TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016 98 3.4. Đánh giá sự thay đổi các chỉ số tuần hoàn của 3 nhóm 3.5. Hiệu quả duy trì mê. * Nhóm I: Hiệu quả vô cảm tốt đạt 245/245(100%) * Nhóm II: Hiệu quả vô cảm tốt đạt 245/245(100%) * Nhóm III: Hiệu quả vô cảm tốt đạt 245/245(100%) 3.6. kết quả hồi tỉnh. Bảng 3.4: Kết quả hồi tỉnh Nhóm Thời gian TG mở mắt TG rút NKQ TG chuyển PHT TG lưu PHT I Từ: 6 – 9 phút Từ: 8- 10 phút Từ: 9-12 phút Từ: 15-20 phút TB.7,30 ± 0,65 TB.8,79 ± 0,63 TB.10,57 ± 0,80 TB.17,93 ± 0,75 II Từ 9 - 12phút Từ:13-16 phút Từ:15-18 phút Từ:20-25 phút 11,65 ± 0,75 14,68 ± 1,13 16,10 ± 1,02 22, 18 ± 1,37 III Từ:10-13 phút 11,65 ± 0,92 Từ:14-18 phút 16,88 ± 1,52 Từ:16-20 phút 17,9 ± 1,21 Từ:23-26 phút 24,54 ± 2,34 (t) tính toán T 1,2 = 54,9 T 2,3 = 10,94 T 1,2 = 71,2 T 2,3 = 18,18 T 1,2 = 66,1 T 2,3 = 11,32 T 1,2 = 37,4 T 2,3 = 13,62 BÀN LUẬN 1. Tuổi, giới Tỷ lệ bệnh nhân phẫu thuật nội soi viêm ruột thừa cấp là tương đương nhau giữa nam và nữ, trong đó nhóm I nam chiếm 52,2%, nữ chiếm 47,7%, nhóm II, nam chiếm 50,6%, nữ chiếm 49,4%, Nhóm III, nam chiếm tỷ lệ 52,6%, nữ chiếm tỷ lệ 47,4%. Tuổi mắc bệnh trong nhóm nghiên cứu từ 15 – 59 tuổi, lứa tuổi mắc bệnh nhiều nhất nằm trong khoảng từ 21 – 40 tuổi, nhóm I chiếm tỷ lệ 60,0%, nhóm II chiếm tỷ lệ 61,2%, nhóm III chiếm tỷ lệ 62,8%. Tuổi mắc bệnh trung bình nhóm I là 28,88 ± 10,68 , nhóm II , nhóm III là 29,28 ± 10,18. Tỷ lệ nhóm tuổi mắc bệnh và tuổi trung bình giữa ba nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê ( p > 0,05). 2. Nồng độ, liều lượng thuốc mê Theo khuyến cáo nồng độ thuốc desflurane sử dụng duy trì mê cho bệnh nhân từ 2,5 – 8,5%. Tuy nhiên theo kết quả nghiên cứu trên 245 bệnh nhân được phẫu thuật cấp cứu nội soi viêm ruột thừa cấp cho thấy nồng độ thuốc mê desflurane duy trì mê từ 5 – 8%, chủ yếu duy trì mê ở nồng độ từ 6 – 7% chiếm 91,4%, ở một số bệnh nhân có thể trạng kém thì nồng độ COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC 99 thuốc mê sử dụng thấp hơn. Trong nghiên cứu này chúng tôi thây sevoflurane duy trì mê nồng độ từ 1,5 – 2,5%, nồng độ duy trì mê trung bình là 2,12 ± 0,23, chúng tôi thấy duy trì mê chủ yếu ở nồng độ 2% đạt hiệu quả vô cảm phẫu thuật. ở nồng độ thuốc mê duy trì như trên thì chỉ số BIS nằm trong khỏng từ 40 – 60. Nhóm sử dụng gây mê nồng độ đích được sử dụng với propofol ở giai đoạn khởi mê là từ 5 – 6µg/ml phù hợp với khuyến cáo của các nghiên cứu đa trung tâm châu âu và châu mỹ( 4 - 8µg/ml) Tuy nhiên trong nhóm nghiên cứu thể trạng bệnh nhân đều khá tốt nên chúng tôi sử dụng liều khởi mê trung bình nhưng với những bệnh nhân có thể trạng kém như người cao tuổi hoặc có bệnh lý kèm theo thì nên khởi mê ở nồng độ thấp hơn để tránh gây tụt HA. Midazolam là thuốc tiền mê có thể làm giảm đáng kể nồng độ đích sử dụng của Propofol. Tuy nhiên trong nghiên cứu này chúng tôi không sử dụng midazolam vì thuốc này hay gây ra tình trạng ngủ gà sau khi mê, ảnh hưởng đến chất lượng hồi tỉnh và sai lệch về đánh giá chất lượng hồi tỉnh của thuốc mê. Tuy nhiên trong gây mê nếu sử dụng tiền mê bằng phối hợp các thuốc trấn tĩnh an thần và thuốc giảm đau thì có thể duy trì mê ở nồng độ thuốc mê thấp hơn. 3. Hiệu quả duy trì mê và ảnh hưởng thuốc mê trên huyết động. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy quá trình duy trì mê bằng desflurane với nồng độ thuốc mê từ 5 – 8%, thì độ mê bảo đảm tốt cho phẫu thuật 245/245 bệnh nhân. Duy trì mê với sevoflurane từ 1,5 – 2,5% cũng đạt độ mê tốt cho phẫu thuật(245/245BN), BIS được duy trì trong khoảng từ 40 - 60. Nhóm sử dụng propofol duy trì mê ở nồng độ từ 3 - 5µg/ml cũng đạt độ mê cho phẫu thuật. Tuy nhiên khi sử dụng BIS theo dõi độ mê chúng tôi thấy trong nhóm sử dụng desflurane ở một số bệnh nhân tần số tim, huyết áp vẫn ổn định song chỉ số bis giảm xuống dưới 40, đây là biểu hiện mê sâu, chúng tôi giảm nồng độ thuốc mê sau vài phút bis trở lại giới hạn từ 40 – 60, tức là độ mê phẫu thuật. Như vậy kết hợp sử dụng BIS theo dõi để duy trì độ mê thì đánh giá độ mê chính xác hơn không mê sâu quá và có thể đây cũng là góp phần tiết kiệm thuốc mê. Theo nghiên cứu của White PF(2009) tác giả duy trì mê desfluranre nồng độ từ 3 – 8%, sevoflurane nồng độ từ 1 - 3%. Michael H(1995) gây mê cho bệnh nhân phẫu thuật ngoại trú thì nồng độ desflurane duy trì từ 3 - 6%, sevoflurane từ 1- 2%. Kết quả nghiên cứu của Hoàng Văn Bách, Nguyễn Quốc Kính về sử dụng TCI bằng propofol duy trì mê 3,37±0,65µg/ml cũng cho kết quả tốt, như vậy tác giả sử dụng nồng độ duy trì mê thấp hơn có lẽ do trong nghiên cứu tác giả sử dụng phối hợp với midazolam nên nồng độ duy trì mê thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Kết quả nghiên cứu trên biểu đồ 4, biểu đồ 5, biểu đồ 6 về tần số tim, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương ở nhóm I TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016 100 và nhóm II dao động rất ít luôn luôn nằm trong giới hạn bình thường, quá trình duy trì mê tần số tim ít thay đổi, như vậy cả desflurane và sevoflurane là thuốc mê ít ảnh hưởng đến huyết động. theo nghiên cứu của Fanelli G, Berti M(2006), White PF(2009), Brita Larsen MD(2000), Michael H(1995) thì quá trình duy trì mê bằng thuốc mê desflurane và sevoflurane thì huyết động luôn luôn ổn định. Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của các tác giả khác. Ở nhóm III chúng tôi thấy mức độ giảm huyết áp cả huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương đều giảm hơn so với nhóm I, và nhóm II. Theo nghiên cứu của Hoàng văn Bách 2011, Brita Larsen MD(2000), tác giả cũng thấy sử dụng propofol thì huyết giảm nhiều hơn so với nhóm sử dụng sevoflurane. Tuy nhiên các chỉ số mạch, huyết áp vẵn nằm trong giới hạn bình thường. 4. Chất lượng hồi tỉnh Thời gian thoát mê được tính từ khi ngừng thuốc mê đến khi phục hồi phản xạ mi mắt và mở mắt theo lệnh. Thời gian rút NKQ là khoảng thời gian được tính từ khi ngừng thuốc mê đến khi BN tỉnh hoàn toàn, vận động theo lệnh. Nhóm I: Thời gian mở mắt từ 6 – 9 phút, trung bình 7,3 ± 0,65 phút, thời gian rút ống nội khí quản từ 8 – 10 phút, trung bình 8,79 ± 0,63 phút, thời gian chuyển bệnh nhân ra phòng hồi tỉnh từ 9 – 12 phút trung bình 10,57 ± 0,80 phút, thời gian lưu bệnh nhân tại phòng hồi tỉnh từ 15 – 20 phút trung bình 17,93± 1,10 phút. Nhóm II: Thời gian mở mắt từ Từ 9 – 12 phút, trung bình 10,82 ± 0,75 phút, thời gian rút ống nội khí quản từ 13 - 16 phút, trung bình 14,68 ± 1,13 phút, thời gian chuyển bệnh nhân ra phòng hồi tỉnh từ 15 – 18 phút trung bình 16,10 ± 1,02phút, thời gian lưu bệnh nhân tại phòng hồi tỉnh từ 20 – 25 phút trung bình 22, 18 ± 1,37 phút. Nhóm III: Thời gian mở mắt từ Từ 10 – 13 phút, trung bình 11,65 ± 0,92 phút, thời gian rút ống nội khí quản từ 14 - 18 phút, trung bình 16,88 ± 1,52 phút, thời gian chuyển bệnh nhân ra phòng hồi tỉnh từ 16 – 20 phút trung bình 17,9 ± 1,21 phút, thời gian lưu bệnh nhân tại phòng hồi tỉnh từ 23 – 27 phút trung bình 24,54 ± 2,34 phút. Để so sánh chất lượng hồi tỉnh của hai nhóm nghiên cứu chúng tôi sử dụng thuật toán so sánh hai số trung bình cho kết quả về sự khác biệt chất lượng hồi tỉnh của 3 nhóm, nhóm sử dụng desflurane có chất lượng hồi tỉnh tốt nhất, tiếp theo đến nhóm sử dụng sevoflurane và nhóm sử dụng propofol chất lượng hồi tỉnh kém hơn so với hai nhóm sevoflurane và desflurane. Như vậy kết quả cho thấy chất lượng hồi tỉnh sau gây mê của desflurane tốt hơn sevoflurane và sevoflurane tốt hơn so với propofol, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 Nghiên cứu chất lượng hồi tỉnh của các tác giả so sánh desflurane với sevoflurane thì đều cho kết quả desflurane COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC 101 hồi phục tốt hơn so với sevoflurane, qua kết quả của các tác giả chúng tôi thấy thời gian hồi phục của một số nghiên cứu ngắn hơn như nghiên cứu của Paul F(2009), Michael(1995), Brita(2000), đây là do tác giả sử dụng desflurane hoặc sevoflurnae phối hợp với N2O. Theo nghiên cứu của Dupont(1999) gây mê với sevoflurane thì quá trình hồi tỉnh của bệnh nhân lâu hơn so với thời gian hồi tỉnh khi gây mê bằng desflurane, thời gian mở mắt 13,7 phút, thời gian rút nội khí quản 18 phút. Theo nghiên cứu của Caverni và cộng sự 2005 gây mê bằng sevoflurane thì thời gian mở mắt là 13,8 phút, thời gian rút ống nội khí quản là 15,2 phút, thời gian chuyển bênh nhân ra phòng hồi tỉnh là 18 phút. Theo nghiên cứu của Colla (2007) gây mê bằng sevoflurane thì thời gian mở mắt là 11,7 phút, thời gian rút ống nội khí quản là 16,4 phút, thời gian lưu bệnh nhân tại phòng hồi tỉnh là 27 phút. Như vậy qua các kết quả nghiên cứu của các tác giả cho thấy quá trình hồi tỉnh của bệnh nhân sử dụng desflurane nhanh hơn so với sevoflurane. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của các tác giả khác. kẾT LUẬN Qua nghiên cứu so sánh hiệu quả duy trì mê và chất lượng hồi tỉnh của desflurane với sevoflurane và propofol trong phẫu thuật ruột thừa nội soi chúng tôi rút ra một số kết luận như sau: * Hiệu quả duy trì mê. Desflurane, sevoflurane và propofol là ba loại thuốc mê có hiệu quả duy trì mê tốt, quá trình duy trì mê êm, thuốc mê ít ảnh hưởng đến huyết động, tần số tim, huyết áp động mạch luôn luôn ổn định. * Chất lượng hồi tỉnh. Thời gian hồi phục sau gây mê của cả ba loại thuốc mê đều có chất lượng hồi tỉnh tốt, trong đó desflurane có chất lượng hồi tỉnh tốt hơn so với sevoflurane và sevoflurane có chất lượng hồi tỉnh tốt hơn so với propofol. Ở nhóm sử dụng desflurane bệnh nhân tỉnh mê nhanh, các phản xạ đường thở phục hồi sớm hơn. - Thời gian mở mắt trung bình: Desflurane: 7,31 ± 0,66phút, sevoflurane: 10,82 ± 0,75, propofol: 11,65 ± 0,92 - Thời gian rút NKQ: Desflurane: 8,79 ± 0,63, sevoflurane:14,68 ± 1,13, propofol: 16,88 ± 1,52. - Thời gian chuyển phòng hồi tỉnh: Desflurane:10,57 ± 0,80phút, sevoflurane:16,1 ± 1,02, propofol: 17,9 ± 1,21. - Thời gian lưu phòng hồi tỉnh: Desflurane: 17,93 ± 0,75phút, sevoflurane: 22,18 ± 1,37, propofol: 24,54 ± 2,34. TÀI LIệU THAM kHảO 1. Hoàng Văn Bách, Nguyễn Quốc Kính, Công quyết Thắng (2010). “Nghiên cứu điều chỉnh độ mê bằng điện não số hóa trong gây mê hô hấp bằng sevoflurane”. Tạp chí Y học thực hành, số 744, tr 42 – 44. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016 102 2. Hoàng Văn Bách, Nguyễn Quốc Kính, Công quyết Thắng (2011). “Khởi mê tĩnh mạch bằng kỹ thuật TCI-propofol kết hợp theo dõi độ mê bằng Entropy”. Tạp chí Y học thực hành, số 764, tr 11 – 13. 3. Hoàng Văn Bách, Nguyễn Quốc Kính, Công quyết Thắng (2011). “So sánh gây mê hô hấp bằng sevofluran với gây mê tĩnh mạch bằng propofol truyền kiểm soát nồng độ đích dưới sự điều khiển của điện não số hóa-Entropy”. Tạp chí Y học thực hành, số 764, tr 139 – 141. 4. Nghiêm Thanh Tú(2012). “Gây mê bằng desflurane trong phẫu thuật nội soi viêm ruột thừa cấp”. Tạp chí y học Thành phố Hồ Chí Minh số 2, 2012: tr 59 – 62. 5. Nghiêm Thanh Tú(2012). “So sánh hiệu quả gây mê của desflurane với sevoflurane trong phẫu thuật nội soi viêm ruột thừa cấp”. Tạp chí Y học thực hành, số 764, tr 109 – 112. 6. Brita Larsen, MD, Anette, MD(2000). “Recovery of cognitive function after remifentanil – propofol anesthesia: Acomparison with desflurane and sevoflurane anesthesia”. Anesth Analg 2000; 90: 168 – 74. 7. Caverni V, Rosa G(2006). “Hypotensive anesthesia and covery of cognitive function in long – term craniofacial surgery”. J Craniofasc Surg 2006;16: 531- 6. 8. Fanelli G, Berti M, Casati A(2006). “Fast – tract anesthesia for laparoscopic cholecystectomy: A prospective, randomized, multicentre, blind conparison of desflurane – remifentanil or sevoflurane – remifantanil”. Eur J Anesthesiol 2006; 23(10): 861 – 8. 9. La Colla L, Albertin A(2007). “Faster wash – out and recovery for desflurane vs sevoflurane on morbidly obese patients’’. Br J Anesth 2007; 99: 353 – 8. 10. Paul F, White, MD(2009). “Desflurane versus sevoflurane for maintenance of outpatient anesthesia”. Anesth Analg 2009; 109: 387-93. 11. Michael H, Nathanson MR (1995). “Sevoflurane versus desflurane for outpatient anesthesia: Acomparison of maintenance and recovery profiles”. Anesthe Analg 1995; 81: 1186 – 90. 12. Rosow C, Manberg PJ(2001). Bispectral index monitoring. Anesth Clin N Am 2001; 19: 947-66. 13. Jensen EW, Litvan H, Revuelta M, et al(2006). ‘’Cerebral state index during propofol anesthesia: a comparison with the bispectral index and the A-line ARX index”. Anesthesiology 2006; 105: 28 - 33.
File đính kèm:
so_sanh_hieu_qua_duy_tri_me_va_chat_luong_hoi_tinh_cua_desfl.pdf

