So sánh giữa Myo-inositol và Metformin trên lâm sàng, chuyển hóa và tham số di truyền ở hội chứng buồng trứng đa nang

Hội chứng Buồng trứng đa nang (HCBTĐN) là một rối loạn nội tiết thông thường ảnh hưởng đến 6-15% phụ nữ độ tuổi sinh sản ở những vùng địa lý khác nhau. HCBTĐN đặc trưng bởi tình trạng vô sinh, rối loạn kinh nguyệt và rối loạn chuyển hóa bao gồm cường androgen, kháng insuline, không dung nạp đường, những rối loạn này thường có liên quan đến các bệnh như bệnh tim mạch, đái tháo đường tuýp 2, tăng huyết áp và thậm chí ung thư.1 Trong đó, vai trò của quá trình viêm toàn thân trên HCBTĐN không rõ ràng; người ta nhận thấy rằng nồng độ của CRP và TNF-alpha tăng ở phụ nữ bị HCBTĐN so với phụ nữ bình thường khác

pdf 7 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "So sánh giữa Myo-inositol và Metformin trên lâm sàng, chuyển hóa và tham số di truyền ở hội chứng buồng trứng đa nang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh giữa Myo-inositol và Metformin trên lâm sàng, chuyển hóa và tham số di truyền ở hội chứng buồng trứng đa nang

So sánh giữa Myo-inositol và Metformin trên lâm sàng, chuyển hóa và tham số di truyền ở hội chứng buồng trứng đa nang
18
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
SO SÁNH GIỮA MYO-INOSITOL 
VÀ METFORMIN TRÊN LÂM 
SÀNG, CHUYỂN HÓA VÀ THAM 
SỐ DI TRUYỀN Ở HỘI CHỨNG 
BUỒNG TRỨNG ĐA NANG
TRẦN BẢO NGỌC*, PHẠM NHÃ KHUYÊN*, TĂNG QUANG THÁI**
Theo Jamilian, Mehri, et al. “Comparison of myo-inositol and metformin on clinical, 
metabolic and genetic parameters in polycystic ovary syndrome: a randomized con-
trolled clinical trial.” Clinical endocrinology (2017).
* Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
** Bệnh viện Phụ Sản Nhi Bình Dương
GIỚI THIỆU 
Hội chứng Buồng trứng đa nang 
(HCBTĐN) là một rối loạn nội tiết thông 
thường ảnh hưởng đến 6-15% phụ nữ độ 
tuổi sinh sản ở những vùng địa lý khác nhau. 
HCBTĐN đặc trưng bởi tình trạng vô sinh, 
rối loạn kinh nguyệt và rối loạn chuyển hóa 
bao gồm cường androgen, kháng insuline, 
không dung nạp đường, những rối loạn 
này thường có liên quan đến các bệnh như 
bệnh tim mạch, đái tháo đường tuýp 2, tăng 
huyết áp và thậm chí ung thư.1 Trong đó, 
vai trò của quá trình viêm toàn thân trên 
HCBTĐN không rõ ràng; người ta nhận 
thấy rằng nồng độ của CRP và TNF-alpha 
tăng ở phụ nữ bị HCBTĐN so với phụ nữ 
bình thường khác. 2
Để điều trị hệ quả sức khỏe lâu dài ở 
người bị HCBTĐN, ngoài việc thay đổi 
lối sống, bác sĩ còn đề nghị dùng chất tăng 
độ nhạy với Insulin như là Metformin. Có 
bằng chứng cho thấy rằng Metformin có 
thể đem lại lợi ích về chuyển hóa và sinh 
sản, bao gồm giảm cân, giảm kháng Insu-
lin, giảm nồng độ Androgen và tái lập một 
chu kì kinh nguyệt rụng trứng bình thường, 
nhưng việc dùng nó có thể bị hạn chế bởi 
các tác dụng phụ lên đường tiêu hóa. Gần 
đây, một thuốc gây tăng nhạy Insulin mới 
chứa Inositol được đề xuất trong điều trị 
bệnh nhân bị HCBTĐN. Một vài nghiên 
cứu đã báo cáo những tác động có lợi của 
Myo-inositol lên độ nhạy với Insulin, an-
drogen và dấn ấn viêm.3, 4 Thêm vào đó, 
dùng Myo-inositol cải thiện những chức 
năng sinh sản ở bệnh nhân bị HCBTĐN, 
làm giảm tình trạng cường insulin trong 
máu. Ngược lại với Metformin, không có 
tác dụng phụ nào ảnh hưởng được ghi nhận 
khi theo dõi điều trị với Myo-insitol. 5 
Myo-inositol sản xuất ra tín hiệu truyền 
tin thứ hai, inositol triphosphate, điều hòa 
một số nội tiết tố như TSH và FSH và chịu 
trách nhiệm cho việc tiếp nhận đường đưa 
vào tế bào, từ đó làm tăng độ nhạy insulin. 
19
THÔNG TIN CẬP NHẬT
Các dữ liệu so sánh myo-inositol và met-
formin trên lâm sàng, các tham số chuyển 
hoá và di truyền ở những bệnh nhân 
HCBTĐN còn rất hiếm. 
CÁC ĐÁNH GIÁ CẦN THIẾT 6
Đối tượng đánh giá
Đối tượng được chẩn đoán HCBTĐN 
dựa trên tiêu chuẩn của Rotterdam. Loại bỏ 
những bệnh nhân có thai hoặc có những 
tình trạng tăng sản thượng thận, u tiết an-
drogen, prolactin trong máu cao, rối loạn 
chức năng giáp, đái tháo đường hay rối loạn 
dung nạp glucose. 
Đánh giá nhân trắc học
Một nữ hộ sinh được tập huấn sẽ lấy các 
chỉ số nhân trắc vào ngày đầu tiên người 
tham gia vào nghiên cứu và trong 12 tuần 
theo dõi điều trị. Chiều cao và cân nặng 
(Seca, Hamburg, Germany) được đo khi 
bệnh nhân mặc quần áo gọn nhẹ và không 
mang giày. BMI được tính toán theo công 
thức cân nặng (kg) chia chiều cao (mét) 
bình phương. 
Đánh giá lâm sàng bao gồm kiểm tra 
phân bố lông trên cơ thể bằng hệ thống tính 
điểm mFG. 
Đánh giá sinh hoá
10 ml máu tĩnh mạch được lấy vào ngày 
đầu tiên của người tham gia nghiên cứu và 
sau 12 tuần điều trị tại phòng thí nghiệm 
tham chiếu Arak. Nồng độ testosterone 
toàn phần trong huyết tương (khác biệt 
giữa các lần xét nghiệm và trong 1 lần xét 
nghiệm có hệ số phương sai (CV) là 4.5 
đến 6.3%), sex hormone-binding globulin 
(SHBG) (khác biệt trong 1 lần xét nghiệm 
và giữa các lần xét nghiệm, CV là 3.5 đến 
5.5%) và DHEAS (khác biệt trong 1 lần xét 
nghiệm và giữa các lần xét nghiệm, CV là 
4.1 đến 6.2%) được đánh giá bằng bộ kit 
thương mại (DiaMetra, Milano, Italy). Chỉ 
số androgen tự do Free androgen index 
(FAI) được tính toán bằng công thức tes-
tosterone toàn phần/SHBG x 100. hs-CRP 
được định lượng bằng bộ kit ELISA thương 
mại (LDN, Nordhorn, Germany) với khác 
biệt giữa các lần xét nghiệm và trong 1 lần 
xét nghiệm CV là 4,9 đến 6,7%. NO huyết 
tương được đo bằng phương pháp Griess. 
Phân tách lymphocyte
Lymphocyte được trích xuất từ mẫu máu 
bằng cách sử dụng 50% Percoll (Sigma-Al-
drich, Dorset, UK). Các mẫu máu được làm 
xét nghiệm tế bào và khả năng sống của tế 
bào bằng trypan blue, và để chiết xuất RNA 
và DNA.
Chiết xuất RNA và Real-time PCR
Để chiết xuất RNA, nhóm nghiên cứu sử 
dụng RNX-plus kit (Cinnacolon, Tehran, 
Iran). Dịch RNA được đông lạnh ở −20°C 
cho đến khi thực hiện RT-PCR. Sau khi 
chiết xuất RNA toàn phần từ mẫu, định 
lượng RNA được thực hiện bằng quang phổ 
kế UV. Tỉ lệ OD 260/280 của mỗi mẫu dự 
kiến giữa 1.7 và 2.1. RNA chiết tách được 
phiên mã ngược thành cDNA bằng molo-
ney murine leukaemia virus (MMLV) men 
chuyển mã ngược reverse transcriptase 
(RT). Biểu hiện gene của interleukin-1 (IL-
1), IL-8 và TNF-α được đánh giá bằng định 
lượng RT-PCR trong số lượng tế bào máu 
đơn nhân ở máu ngoại vi (peripheral blood 
mononuclear cells - PBMCs), sử dụng kỹ 
thuật LightCycle (Roche Diagnostics, Rot-
kreuz, Switzerland) với đầu dò xanh SYBR 
và Amplicon Kit. 
Glyceraldehyde-3-phosphate dehydroge-
nase (GAPDH) primers được sử dụng như 
gene giữ nhà (housekeeping gene). Để thiết 
kế primer, phần mềm Primer Express (Ap-
plied Biosystems, Foster City) và phần mềm 
thiết kế Beacon (Takapouzist, Tehran, Iran) 
được sử dụng. Các mức độ chuyển mã được 
tính toán bằng phương pháp của Pffafi hay 
2−ΔΔCT.
20
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
Cỡ mẫu
Để ước lượng cỡ mẫu cần thiết, nhóm 
nghiên cứu sử dụng một công thức tính 
cỡ mẫu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên 
trong đó sai lầm loại 1 (α) và sai lầm loại 2 
(β) lần lượt là 0.05 và 0.20 (power=80%). 
Theo một nghiên cứu trước, nhóm nghiên 
cứu sử dụng độ lệch chuẩn (SD) là 1.0 
nmol/L và sự khác biệt trung bình (d) là 
0.8 nmol/L, xem testosterone toàn phần là 
biến số chính. Việc tính toán cho thấy cần 
25 đối tượng cho mỗi nhóm. Giả sử mỗi 
nhóm mất 5 đối tượng, như vậy cỡ mẫu 
cuối cùng là 30 đối tượng cho mỗi nhóm. 
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH
Để đảm bảo các biến số có phân phối 
bình thường, nhóm nghiên cứu sử dụng 
Kolmogorov-Smirnov test. Các phân tích 
được thực hiện dựa trên nguyên tắc can 
thiệp để điều trị (intention-to-treat (ITT). 
Để phát hiện khác biệt trong các phép đo 
nhân trắc học cũng như trong đo lường dinh 
dưỡng đa lượng và vi lượng giữa 2 nhóm, 
nhóm nghiên cứu sử dụng t test độc lập. Để 
so sánh tác động của myo-inosistol và met-
formin trên hormone và các chỉ dấu viêm, 
nhóm nghiên cứu sử dụng phân tích phương 
sai một chiều có lặp. Để so sánh tác động của 
myo-inosistol và metformin trên biểu hiện 
gene có liên quan đến quá trình viêm, nhóm 
nghiên cứu sử dụng t test mẫu độc lập. Việc 
điều chỉnh những thay đổi trên giá trị ban 
đầu của các số đo sinh hóa, tuổi và BMI 
được thực hiện bằng các phân tích covari-
ance (ANCOVA) sử dụng hồi quy tuyến tính 
thông thường. Khác biệt có ý nghĩa thống kê 
khi P < 0.05. Tất cả các phân tích thống kê 
sử dụng Statistical Package for Social Science 
version 18 (SPSS Inc., Chicago, IL, USA).
KẾT QUẢ CỦA NGHIÊN CỨU
Ban đầu nhóm nghiên cứu mời 85 đối 
tượng bị HCBTDN tuy nhiên 25 đối tượng 
rời khỏi nghiên cứu vì không đạt tiêu chuẩn 
nhận vào (N=20) và không đang sinh sống 
ở Arak (N=5). Theo như sự giải thích trong 
lưu đồ nghiên cứu, trong suốt các pha can 
thiệp của nghiên cứu, ba đối tượng của mỗi 
nhóm ngừng tham gia vì lý do cá nhân. 
Cuối cùng, 54 đối tượng (27 Myo-insitol 
và 27 Metformin) hoàn thành thử nghiệm. 
Tuy nhiên, theo phân tích dựa trên nguyên 
tắc ITT, tất cả 60 người tham gia (30 mỗi 
nhóm) được đưa vào phân tích cuối cùng. 6
Tuổi, chiều cao, cân nặng và BMI ở thời 
điểm bắt đầu và cuối thử nghiệm không có 
sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm.
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Dữ liệu có nghĩa ±SDs. a Đạt được từ t test độc lập
 Nhóm Metformin (n=30) Nhóm Myo-inositol (n=30 P a
Tuổi (năm) 25.9±4.8 27.7±5.2 .17
Chiều cao (cm) 162.2±6.7 162.5±4.7 .84
Cân nặng lúc bắt đầu (kg) 71.1±16.4 68.3±11.5 .44
Cân nặng cuối thử nghiệm (kg) 70.6±17.0 67.2±11.1 .36
Cân nặng thay đổi (kg) −0.5±1.2 −1.0±2.1 .21
BMI lúc bắt đầu (kg/m2) 27.1±6.4 25.8±3.8 .35
BMI cuối thử nghiệm (kg/m2) 26.9±6.6 25.4±3.7 .29
BMI thay đổi (kg/m2) −0.2±0.4 −0.4±0.8 .25
21
THÔNG TIN CẬP NHẬT
Bảng 2. Nồng độ hormone và dấu ấn viêm tại thời điểm bắt đầu và sau 12 tuần ở 
đối tượng bị HCBTĐN
Dựa trên báo cáo thu được chế độ ăn 
ba ngày vào thời điểm bắt đầu, cuối thử 
nghiệm và suốt nghiên cứu, nhóm ng-
hiên cứu thấy rằng không có sự khác biệt 
có ý nghĩa giữa chế độ ăn đa lượng và vi 
lượng giữa 2 nhóm (dữ liệu không được 
đưa ra).
Sau 12 tuần can thiệp, so sánh giữa 
việc dùng Metformin và Myo-inositol ở 
phụ nữ HCBTDN với insulin trong máu 
cao và insulin trong máu bình thường 
DHEAS, dehydroepiandrosterone sulphate; FAI, free androgen index; hs-CRP, high-sensitivity C-reactive protein; mF-G, 
modified Ferriman-Gallwey; NO, nitric oxide; SHBG, sex hormone-binding globulin.
Tất cả các giá trị đều mang nghĩa ±SDs. aP-values là kết quả của thời gian×tương tác nhóm (tính toán bằng việc phép đo lặp 
phân tích phương sai một yếu tố)
Testosterone toàn 7.3±2.8 8.0±0.8 0.7±1.4 8.0±6.2 6.6±4.5 −1.4±4.2 .03
phần (nmol/L)
SHBG (nmol/L) 42.8±15.4 43.3±14.4 0.5±13. 45.7±23.8 48.7±29.2 3.0±11.3 .45
FAI% 6.1±4.8 5.7±2.3 −0.4±4.5 7.0±6.8 6.4±6.7 −0.6±5.0 .88
Thang điểm mF-G 14.5±4.2 13.9±3.7 −0.5±0.8 15.9±4.7 14.8±4.5 −1.1±0.7 .01
DHEAS (μmol/L) 6.8±3.0 6.2±2.7 −0.5±1.6 6.0±3.8 4.6±3.0 −1.4±4.1 .31
hs-CRP (mg/L) 5.1±3.5 5.3±3.0 0.2±1.5 5.7±2.6 3.1±2.4 −2.6±3.9 <.001
NO (μmol/L) 46.9±7.7 45.6±8.1 −1.3±8.4 42.3±8.3 43.1±8.3 0.8±3.1 .21
Nhóm Metformin (n=30) Nhóm Metformin (n=30) P a
Bắt đầu Bắt đầuKết thúc thử nghiệm
Kết thúc 
thử nghiệmThay đổi
Thay đổi
có sự giảm đáng kể nồng độ Testoster-
one (−1.4±4.2 so với +0.7±1.4 nmol/L, 
P=.03), mF-G score (−1.1±0.7 so với 
−0.5±0.8, P=.01) và nồng độ hs-CRP 
huyết tương (−2.6±3.9 so với +0.2±1.5 
mg/L, P<.001). Nhóm nghiên cứu không 
thấy bất kì ảnh hưởng đáng kể nào khác 
biệt giữa Myo-inositol và Metformin 
trên các hormone khác hay nồng độ NO 
huyết thanh. 6
NO huyết thanh ban đầu có khác biệt 
đáng chú ý giữa 2 nhóm (P=.02). Khi điều 
chỉnh phân tích giá trị thời điểm bắt đầu 
nghiên cứu của thông số hóa sinh, tuổi và 
BMI, nhóm nghiên cứu thấy không có khác 
biệt. 6
22
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
Kết quả của RT-PCR giải thích rằng khi 
so sánh việc uống metformin với myo-ino-
sitol làm điều hòa giảm biểu hiện của 
IL-1 trong máu ngoại vi của bệnh nhân 
HCBTDN (P=.02). 
Nhóm nghiên cứu không thấy có bất kì khác 
biệt đáng chú ý nào giữa biểu hiện gen IL-8 và 
TNF-alpha ở những bệnh nhân HCBTĐN sử 
dụng myo-inositol và metformin.
 Testosterone toàn phần (nmol/L) 0.3±0.3 −1.0±0.3 .04
SHBG (nmol/L) 0.6±2.4 2.9±2.4 .50
FAI% −0.9±0.7 −0.1±0.7 .45
Thang điểm mF-G −0.6±0.1 −1.1±0.1 .004
DHEAS (μmol/L) −0.3±0.5 −1.4±0.5 .08
hs-CRP (mg/L) 0.01±0.5 −2.4±0.5 .001
NO (μmol/L) −0.8±1.1 0.3±1.1 .50
Nhóm Metformin (n=30) Nhóm Metformin (n=30) P a
Bảng 3. Các thay đổi trên trình trạng chuyển hóa ở bệnh nhân 
bị buồng trứng đa nang
DHEAS, dehydroepiandrosterone sulphate; FAI, free androgen index; hs-CRP, high-sensitivity C-reactive protein; 
mF-G, modified Ferriman-Gallwey; NO, nitric oxide; SHBG, sex hormone-binding globulin.
Tất cả các giá trị có nghĩa ±SEs. a Đạt được từ ANCOVA.
Biểu đồ: Ảnh hưởng của 12 tuần dùng Myo-inositol hay 
Metformin trên tỷ lệ biểu hiện gen IL-1 trong tế bào máu 
đơn nhân ở phụ nữ bị HCBTĐN
BÀN LUẬN VÀ KẾT LUẬN 6
Theo nhóm nghiên cứu, dữ liệu so sánh 
Myo-inositol và Metformin trên lâm sàng, về 
các chỉ số chuyển hóa và di truyền ở những 
phụ nữ HCBTĐN còn rất ít. Nhóm nghiên 
cứu thấy rằng việc sử dụng Myo-inositol, so 
với Metformin, trong 12 tuần ở những bệnh 
nhân HCBTĐN có lợi trên nồng độ testos-
terone toàn phần, thang điểm mFG, nồng 
độ hs-CRP huyết tương và biểu hiện gene 
của IL-1, nhưng không ảnh hưởng đến các 
hormone khác, nồng độ NO hay biểu hiện 
gene của IL-8 và TNF-α.
Những người HCBTĐN dễ bị những biến 
chứng chuyển hóa gồm sự rối loạn hormone 
và viêm. Nhóm nghiên cứu thấy rằng uống 
Myo-inositol trong 12 tuần sẽ làm giảm 
đáng kể nồng độ Testosterone toàn phần và 
điểm mFG, nhưng không thấy tác động gì 
đến nồng độ SHBG hay FAI khi so sánh với 
metformin. Tuy nhiên dữ liệu trong việc so 
sánh Myo-inositol và Metformin trên lâm 
sàng và thông số chuyển hóa của phụ nữ bị 
HCBTĐN thì khan hiếm, chỉ số ít nghiên 
cứu đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng 
Myo-inositol trên triệu chứng thực thể và 
thông số chuyển hóa. Nó còn cho thấy rằng 
nang trứng có chất lượng noãn cao có nồng 
độ Myo-inositol trong dịch nang cao (fol-
licular fluid - FF). Chức năng buồng trứng 
cải thiện được cũng được giải thích bởi Ar-
tini và cộng sự. Thêm vào đó việc giảm tình 
23
THÔNG TIN CẬP NHẬT
trạng mụn và rậm lông, tăng cường độ nhạy 
Insulin và giảm nồng độ testosterone được 
ghi nhận từ việc dùng Myo-inositol ở người 
bị HCBTĐN. Ở một nghiên cứu khác, việc 
phối hợp điều trị giữa Myo-insitol và thuốc 
ngừa thai hỗn hợp cho thấy hiệu quả hơn 
trong việc kiểm soát nội tiết, chuyển hóa và 
những biểu hiện lâm sàng ở đối tượng bị 
HCBTDN so với việc chỉ dùng mỗi thuốc 
ngừa thai dạng uống. Liệu pháp phối hợp 
với Myo-inositol và D-chiro-inositol trong 
6 tháng cũng có hiệu quả ở việc cải thiện 
nội tiết và các thông số chuyển hóa ở bệnh 
nhân trẻ béo phì bị HCBTĐN. Ngoài ra, 
điều trị với 1200mg/d myo-inositol trong 
12 tuần hiệu quả trong việc giảm những 
bất thường về hormone, chuyển hóa và oxi 
hóa ở người bị HCBTĐN thông qua việc cải 
thiện đề kháng insulin. Tuy nhiên, không có 
thay đổi đáng chú ý nào về mụn, rậm lông 
hay hormone được nhận thấy trong suốt 6 
tháng dùng Myo-inositol so với dùng Met-
formin ở đối tượng HCBTĐN với giá trị 
HOMA-IR>2.5. Cần nhớ rằng nghiên cứu 
mới chỉ áp dụng trên bệnh nhân có insulin 
bình thường hay insulin cao.3, 7
Nghiên cứu mới đây giải thích rằng dùng 
myo-inositol so với dùng metformin trong 
12 tuần có kết quả đáng chú ý là giảm nồng 
độ hs-CRP và biểu hiện IL-1, nhưng không 
có liên quan trong nồng độ NO hay biểu 
hiện gen IL-8 và TNF-α. Trong một ng-
hiên cứu của Kapral và cộng sự cho thấy 
rằng inositol hexaphosphate có tác động có 
lợi đến dấu ấn viêm. Dữ liệu trong so sánh 
giữa myo-inositol và metformin về yếu tố 
viêm cytokine ở phụ nữ HCBTDN khá hạn 
chế, nhưng vài nghiên cứu đã đánh giá tác 
động của việc bổ sung folate trong cytokine 
viêm ở những đối tượng có hay không có 
HCBTĐN. Trước đây nhóm nghiên cứu 
đã chứng minh dùng folate (5mg/d) ở đối 
tượng HCBTĐN làm giảm hs-CRP, nhưng 
không ảnh hưởng lượng NO. Thêm vào đó, 
bổ sung 400 μg/d folate trong 12 tháng ở 
những bệnh nhân suy giảm nhận thức nhẹ 
sẽ giảm yếu tố viêm cytokien. Tuy nhiên, 
một số nhà nghiên cứu không tìm thấy tác 
động thú vị nào của việc bổ sung folate trên 
cytokine viêm. Ví dụ như Miezecki và cộng 
sự chứng minh rằng không có tác động 
đáng chú ý nào của việc dùng folate ở liều 
0.4mg/dl trên nồng độ CRP huyết thanh ở 
người có nguy cơ xơ vữa động mạch trong 
12 tuần. Cũng như trong việc 1 năm dùng 
folate không có tác động đáng chú ý nào 
trên nồng độ CRP ở người cao tuổi. Các 
thiết kế nghiên cứu khác dựa trên đặc điểm 
của đối tượng nghiên cứu, liều lượng folate 
dùng và quá trình nghiên cứu có thể giải 
thích những phát hiện khác nhau.8
Nồng độ các chất sinh hóa và biểu hiện 
gene của một số cytokine viêm hay các chất 
trung gian được thấy là cao ở đối tượng bị 
HCBTĐN. Mặc dù cơ chế chính thông qua 
folate và inositol làm giảm yếu tố viêm cy-
otkine vẫn chưa được hiểu rõ, người ta vẫn 
đưa ra một vài giả thuyết. Giảm sản xuất 
hormone PTH từ kết quả việc giảm kháng 
insulin theo sau việc dùng folate có thể 
giảm yếu tố viêm cytokine. Thêm vào đó, 
có thể cho rằng homocysteine (Hcy) gây 
biểu hiện gene các yếu tố viêm cytokine, có 
thể bằng cách tăng cường hoạt hóa yếu tố 
nhân kappa B và tăng hoạt hóa poly ADP 
ribose polymerase. Do đó, folate, thông 
qua giảm Homocystein có thể làm giảm 
quá trình viêm. 
Nghiên cứu của nhóm nghiên cứu có một 
vài giới hạn. Đầu tiên, nhóm nghiên cứu không 
kiểm tra việc tuân thủ sử dụng myo-inositol 
và metformin bằng các chỉ số sinh hóa. Thêm 
vào đó, do giới hạn tài chính, nhóm nghiên 
cứu không đánh giá tác động của myo-inosi-
tol và metformin trên các biomarker và stress 
oxi hóa. Nhóm nghiên cứu tin rằng nồng đồ 
testosterone tự do thì nhạy hơn định lượng 
của testosterone toàn phần để xác định sự dư 
thừa androgen. Không may là nhóm nghiên 
cứu không đánh giá tác động của myo-ino-
24
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
sitol và metformin lên nồng độ testosterone 
tự do. Trong một nghiên cứu gần đây, hầu 
hết bệnh nhân bị thừa cân, nhóm nghiên cứu 
xem xét điều trị thừa androgen và giảm cân 
là các mục tiêu chính cho những bệnh nhân 
mà vấn đề sinh sản không phải quan trọng 
nhất. Metformin và myo-inositol, là những 
chất tăng độ nhạy insulin, cải thiện các chỉ số 
chuyển hóa và nhân trắc học như cân nặng 
và BMI ở những phụ nữ bị HCBTĐN. Nhóm 
nghiên cứu tin rằng steroid sinh dục và chất 
kháng androgen vượt trội hơn metformin 
trong điều trị rậm lông, trong khi clomiphene 
citrate là điều trị đầu tay cho kích thích rụng 
trứng ở những bệnh nhân HCBTĐN. Xem 
xét mục tiêu chính của nhóm nghiên cứu, 
nhóm nghiên cứu không so sánh tỉ lệ phóng 
noãn và các chỉ số đề kháng insulin ở 2 nhóm. 
Những điều này nên được xem xét trong việc 
giải thích các kết quả của nhóm nghiên cứu.6 
Tóm lại, sử dụng myo-inositol so với met-
formin trong 12 tuần ở những bệnh nhân 
HCBTĐN có nồng độ insulin cao hay bình 
thường, có những tác động có lợi lên nồng 
độ testosterone toàn phần, thang điểm mFG, 
nồng độ hs-CRP huyết tương và biểu hiện 
gene của IL-1, nhưng không ảnh hưởng lên 
các nội tiết tố khác, nồng độ NO hay biểu hiện 
gene của IL-8 và TNF-α. Inositol có thể tác 
động tích cực lên dịch nang bằng việc giảm 
tác động oxi hóa lên protein dịch nang, cũng 
như phục hồi chất lượng noãn.9 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mansour A, Hosseini S, Larijani B, Mohajeri-Tehrani MR. Nutrients as novel therapeutic approaches for 
metabolic disturbances in polycystic ovary syndrome. EXCLI journal. 2016;15:551.
2. Duleba AJ, Dokras A. Is PCOS an inflammatory process? Fertility and sterility. 2012;97(1):7-12.
3. Fruzzetti F, Perini D, Russo M, Bucci F, Gadducci A. Comparison of two insulin sensitizers, metformin 
and myo-inositol, in women with polycystic ovary syndrome (PCOS). Gynecological endocrinology : the 
official journal of the International Society of Gynecological Endocrinology. 2017;33(1):39-42. Epub 
2016/11/04.
4. Genazzani AD, Prati A, Santagni S, Ricchieri F, Chierchia E, Rattighieri E, et al. Differential insulin 
response to myo-inositol administration in obese polycystic ovary syndrome patients. Gynecological 
Endocrinology. 2012;28(12):969-73.
5. Genazzani AD, Lanzoni C, Ricchieri F, Jasonni VM. Myo-inositol administration positively affects 
hyperinsulinemia and hormonal parameters in overweight patients with polycystic ovary syndrome. 
Gynecological Endocrinology. 2008;24(3):139-44.
6. Jamilian M, Farhat P, Foroozanfard F, Afshar Ebrahimi F, Aghadavod E, Bahmani F, et al. Comparison 
of myo-inositol and metformin on clinical, metabolic and genetic parameters in polycystic ovary syndrome: 
A randomized controlled clinical trial. Clinical endocrinology. 2017;87(2):194-200.
7. Minozzi M, Costantino D, Guaraldi C, Unfer V. The effect of a combination therapy with myo-inositol 
and a combined oral contraceptive pill versus a combined oral contraceptive pill alone on metabol-
ic, endocrine, and clinical parameters in polycystic ovary syndrome. Gynecological Endocrinology. 
2011;27(11):920-4.
8. Kapral M, Sosnicki S, Wawszczyk J, Weglarz L. Influence of inositol hexaphosphate on the expression 
of selected proliferation markers in IL-1B-stimulated intestinal epithelial cells. Acta poloniae pharmaceutica. 
2014;71(6):987-93.
9. Piomboni P, Focarelli R, Capaldo A, Stendardi A, Cappelli V, Cianci A, et al. Protein modification as 
oxidative stress marker in follicular fluid from women with polycystic ovary syndrome: the effect of inositol 
and metformin. Journal of assisted reproduction and genetics. 2014;31(10):1269-76.

File đính kèm:

  • pdfso_sanh_giua_myo_inositol_va_metformin_tren_lam_sang_chuyen.pdf