Sở hữu chéo vốn cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay

TÓM TẮT

Việc tổ chức, cá nhân tham gia sở hữu chéo vốn cổ phần tại nhiều ngân hàng cũng có mặt

tích cực là có thêm nhiều kinh nghiệm để điều hành kinh doanh, phân tán rủi ro vốn sở hữu. Mặt

khác, sở hửu chéo vốn cổ phần cũng đang là nguyên nhân của một số rủi ro ngân hàng ảnh hưởng

tiêu cực đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Đối với quá trình tái cơ cấu các

ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay, sở hửu chéo vốn cổ phần là một trong những

vấn đề cần quan tâm xử lý hàng đầu, mà công tác giải quyết nợ xấu, cũng như tăng cường minh

bạch hoạt động của hệ thống ngân hàng là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, mặt trái của nó là sự chồng

chéo, thiếu minh bạch trong việc sở hữu vốn cổ phần trong các ngân hàng không đúng năng lực tài

chính thực sự của tổ chức, cá nhân tham gia làm phát sinh nhiều hệ lụy như việc họ lợi dụng uy tín

ông chủ để trục lợi cho tổ chức, cá nhân mình. Tư duy kinh doanh không phải vì thích sở hữu ngân

hàng mà ẩn đằng sau nó là việc sử dung vốn huy động giá rẻ từ ngân hàng để cung cấp vốn cho các

công ty sân sau nhằm tìm kiếm lợi ích kinh tế lớn hơn; Riêng bản thân các ngân hàng thương mại

cổ phần (NHTMCP) này tiềm ẩn những rủi ro lớn hơn bắt đầu từ đây điều này đặt ra bài toán cho

các nhà nghiên cứu, nhà quản trị ngân hàng phải tìm lời giải đáp để hóa giải sự tồn tại bất cập này

pdf 7 trang phuongnguyen 7080
Bạn đang xem tài liệu "Sở hữu chéo vốn cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sở hữu chéo vốn cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay

Sở hữu chéo vốn cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay
36
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
SỞ HỮU CHÉO VỐN CỔ PHẦN CỦA NGÂN HÀNG 
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 
 Hoàng Thị Thanh Hằng*
TÓM TẮT
Việc tổ chức, cá nhân tham gia sở hữu chéo vốn cổ phần tại nhiều ngân hàng cũng có mặt 
tích cực là có thêm nhiều kinh nghiệm để điều hành kinh doanh, phân tán rủi ro vốn sở hữu. Mặt 
khác, sở hửu chéo vốn cổ phần cũng đang là nguyên nhân của một số rủi ro ngân hàng ảnh hưởng 
tiêu cực đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Đối với quá trình tái cơ cấu các 
ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay, sở hửu chéo vốn cổ phần là một trong những 
vấn đề cần quan tâm xử lý hàng đầu, mà công tác giải quyết nợ xấu, cũng như tăng cường minh 
bạch hoạt động của hệ thống ngân hàng là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, mặt trái của nó là sự chồng 
chéo, thiếu minh bạch trong việc sở hữu vốn cổ phần trong các ngân hàng không đúng năng lực tài 
chính thực sự của tổ chức, cá nhân tham gia làm phát sinh nhiều hệ lụy như việc họ lợi dụng uy tín 
ông chủ để trục lợi cho tổ chức, cá nhân mình. Tư duy kinh doanh không phải vì thích sở hữu ngân 
hàng mà ẩn đằng sau nó là việc sử dung vốn huy động giá rẻ từ ngân hàng để cung cấp vốn cho các 
công ty sân sau nhằm tìm kiếm lợi ích kinh tế lớn hơn; Riêng bản thân các ngân hàng thương mại 
cổ phần (NHTMCP) này tiềm ẩn những rủi ro lớn hơn bắt đầu từ đây điều này đặt ra bài toán cho 
các nhà nghiên cứu, nhà quản trị ngân hàng phải tìm lời giải đáp để hóa giải sự tồn tại bất cập này.
Từ khóa: sở hữu chéo, vốn cổ phần
CROSS-OWNERSHIP OF EQUITY CAPITAL OF VIETNAMESE 
COMMERCIAL BANKS IN RECENT YEARS
ABSTRACT
In Vietnamese banking system, the organizations and individuals involved in cross-ownership 
of equity capital, which have positive side effects of more experiences for business executives, as 
well as risk dispersion of equity capital. On the other hand, cross-ownership of equity capital is 
also the cause of a number of banking risks that can negatively affect the safety and soundness of 
banking system. Nowadays, for the restructuring commercial banking system in Vietnam, cross-
ownership of equity capital is one of the issues, which need to pay first attention to treatment in, 
associated with settlement for bad debt as well as strengthening, transparency in banking system 
is essential. However, negative side effects of cross-ownership of equity capital are the overlap, 
lack of transparency, improperly financial capacity of organizations, and individuals involved 
that raises many consequences as they take advantage of owner’s reputation for their profits and 
for organization. Business thinking is not as interested in owning bank, behind using of cheap 
deposits from banks finance capital for “backyard” companies to get greater economic benefits; 
specially, these commercial banks have greater implicit risks beginning here ... that poses problems 
for researchers, bank administrators must find an answer to the existence of these shortcomings.
Keywords: cross-ownership, equity 
* TS. GV. Trường Đại học Ngân hàng TP. HCM
37
Sở hữu chéo . . .
1. Đặt vấn đề
Vốn cổ phần lớn, thể hiện năng lực tài 
chính mạnh của một NHTMCP. Năng lực 
tài chính của NHTMCP sẽ quyết định quy 
mô hoạt động, mạng lưới và chiến lược kinh 
doanh cũng như vai trò quản trị hệ thống ngân 
hàng. Sở hữu chéo vốn cổ phần trong hoạt 
động ngân hàng, được hiểu là một tổ chức, 
cá nhân đang có vốn sở hữu tại một số ngân 
hàng khác nhau, có thể đang cùng một lúc 
điều hành, quản trị hoặc cử người tham gia tại 
nhiều ngân hàng.
Trong thực tiễn Việt Nam, trước khi có hệ 
thống ngân hàng cổ phần, Chính phủ đã chủ 
trương phải có đại diện của mình trong mỗi 
ngân hàng và các ngân hàng thương mại quốc 
doanh lớn đã được lựa chọn để góp vốn với 
tư cách cổ đông nhà nước. Sự hiện diện của 
những ngân hàng quốc doanh mà nay gọi là 
ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) 
nhằm mục đích hạn chế những hoạt động vượt 
ra ngoài khuôn khổ pháp lý nếu có cũng như 
những yếu kém ban đầu từ phía các ngân hàng 
cổ phần mới được thành lập. Trong bối cảnh 
bấy giờ, sự thận trọng này là cần thiết. Ngoài 
ra, xét từ góc độ nghiệp vụ, các NHTMNN 
lớn đã chia sẻ kinh nghiệm kinh doanh, quản 
trị thậm chí chia sẻ cả nguồn nhân lực với tất 
cả các NHTMCP mà họ tham gia góp vốn. 
Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự phát triển 
của hệ thống ngân hàng Việt Nam, ảnh hưởng 
của các hình thức sở hữu chéo cũng có nhiều 
biến đổi. Nhìn chung, thực trạng sở hữu chéo 
trong hệ thống ngân hàng Việt Nam như tỷ lệ 
nắm giữ giữa các tổ chức, cá nhân, vai trò của 
các cổ đông và công tác giám sát vai trò này 
là những vấn đề hết sức phức tạp bởi quan 
hệ chồng chéo mang tính lịch sử, đồng thời 
cũng mang tính biến động cao, kết hợp với 
nguồn thông tin hạn chế. Trước hết, rất nhiều 
công ty lớn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế 
Nhà nước và các tập đoàn cổ phần, dù không 
thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang đầu 
tư dài hạn với vai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư 
chiến lược trong các NHTM. Bên cạnh đó, hệ 
thống ngân hàng còn tồn tại những quan hệ 
ràng buộc phức tạp về mặt sở hữu khi mà các 
ngân hàng có những công ty con, công ty liên 
kết và những công ty này cũng nắm giữ cổ 
phiếu ngân hàng đang tạo ra những hệ lụy tác 
động trực tiếp đến tính ổn định và lành mạnh 
của hệ thống.
2. Thực trạng các hình thức sở hữu 
chéo hiện nay
Theo báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 do Ủy 
ban Kinh tế của Quốc Hội công bố, vấn đề sở 
hữu chéo giữa các TCTD ở Việt Nam ngày 
càng trở nên nghiêm trọng. Đây là một trong 
những nguyên nhân dẫn đến việc giải ngân 
vốn dựa trên quan hệ thay vì hiệu quả sử dụng. 
Theo báo cáo này, sở hữu chéo trong hệ thống 
ngân hàng Việt Nam có thể chia thành sáu 
nhóm: Thứ nhất, sở hữu của các NHTMNN 
và NHTM nước ngoài tại các NH liên doanh; 
Thứ hai, cổ đông chiến lược nước ngoài tại 
các NHTM - cả nhà nước lẫn cổ phần; Thứ ba, 
cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý 
quỹ; Thứ tư, sở hữu của các NHTMNN tại các 
NHTMCP; Thứ năm, sở hữu lẫn nhau giữa 
các NHTMCP; Thứ sáu, sở hữu NHTMCP 
bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và 
tư nhân. Nhận định và đánh giá trong các mối 
quan hệ trên, ba nhóm sở hữu chéo đầu tiên 
có tính tích cực vì các mối quan hệ này chủ 
yếu hướng đến việc tăng cường thúc đẩy hoạt 
động thương mại giữa Việt Nam và quốc tế, 
nâng cao năng lực quản trị và thúc đẩy việc sử 
dụng vốn một cách có hiệu quả. 
Mối bận tâm của các nhà quản lý, nhà 
nghiên cứu là mối quan hệ ở ba nhóm sau. 
38
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Khi các NHTMNN là cổ đông lớn của các 
NHTMCP, các NHTMNN có thể ảnh hưởng 
đến các ngân hàng thuộc nhóm sau trong việc 
cung cấp vốn cho các DNNN. Với trường 
hợp các NHTM có cổ đông lớn là các doanh 
nghiệp, rất có thể các NHTM này trở thành 
sân sau, chuyên huy động vốn từ dân để tài 
trợ cho các dự án của doanh nghiệp cổ đông. 
Mặc dù theo quy định, các ngân hàng không 
được cho các cổ đông của mình vay vốn 
nhưng các ngân hàng có thể lách quy định 
bằng cách cho các công ty con của các doanh 
nghiệp vay vốn. Tương tự, việc sở hữu chéo 
giữa các ngân hàng cũng tạo điều kiện để 
cho các doanh nghiệp sở hữu ngân hàng này 
có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng 
có quan hệ sở hữu chéo khác. Như vậy, ba 
trường hợp sở hữu này đều có nguy cơ dẫn 
đến việc các NHTM sẽ tiến hành thẩm định 
vốn vay thiếu cẩn trọng. Nếu điều này xảy 
ra, đây có thể coi là một trong những nguyên 
nhân quan trọng dẫn đến nợ xấu trong hệ 
thống ngân hàng tăng cao. Bởi vì, chúng ta 
cũng thấy rằng:
- Sở hữu của các NHTMNN tại các 
NHTMCP: Do ảnh hưởng trong giai đoạn 
khủng hoảng 1997-1998, một số NHTMCP 
đã bộc lộ một số yếu kém về kinh doanh và 
năng lực tài chính, khả năng thanh khoản nên 
sự hiện diện của NHTMNN tại các NHTMCP 
theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà 
nước đã xuất hiện để góp phần ổn định hệ 
thống ngân hàng. Hiện có 8 NHTM cổ phần 
có quan hệ cổ phần với bốn NHTMNN. Ví dụ 
như là Vietcombank hiện đang sở hữu 11% 
tại Ngân hàng Quân đội, 8,2% tại Eximbank, 
4,7% tại Ngân hàng Phương Đông, 5,3% 
tại Ngân hàng Sài Gòn. Trường hợp khác, 
Agribank hiện đang sở hữu 15% tại Maritime 
Bank (cổ phần gián tiếp thông qua Agriseco), 
11% tại Saigonbank. Còn VietinBank cũng sở 
hữu 11% cổ phần tại Saigonbank.
- Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTMCP: 
Đây là một hình thức sở hữu khá phổ biến 
hiện nay ở Việt Nam, đang có 6 NHTMCP có 
cổ đông là một NHTMCP khác. Chẳng hạn, 
như Eximbank hiện sở hữu 10,6% cổ phần 
tại Sacombank, 8,5% cổ phần tại Ngân hàng 
Việt Á; ACB đang sở hữu 20% cổ phần tại 
Eximbank, 10,8% ở ngân hàng Đại Á, 10% 
ở ngân hàng Việt Nam Thương Tín; 6,1% ở 
ngân hàng Kiên Long (thông qua Công ty 
Chứng khoán ACBS).
- Sở hữu NHTMCP bởi các tập đoàn, tổng 
công ty nhà nước và tư nhân: Rất nhiều tập 
đoàn và tổng công ty nhà nước tham gia góp 
vốn hình thành các TCTD. Hầu hết các tập 
đoàn nhà nước đều có các công ty tài chính. 
Mối quan hệ giữa NHTMCP với các tập đoàn 
tư nhân ngày càng trở nên phức tạp. Vì có 
nhiều ngân hàng có thể được sở hữu bởi rất 
nhiều công ty gia đình hoặc các thành viên 
gia đình vốn đồng thời lãnh đạo ở các doing 
nghiệp khác. 
Trong đó, đặc biệt nổi bật là việc sở hữu 
NHTMCP bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà 
nước và tư nhân hiện nay như: Tập đoàn Bảo 
Việt sở hữu 52% cổ phần của NHTMCP Bảo 
Việt; Viettel sở hữu 10%, Tổng công ty Trực 
thăng Việt Nam sở hữu 7,2% , Tổng công ty 
Tân cảng Sài Gòn sở hữu 5,7% cổ phần của 
ngân hàng Quân Đội; EVN sở hữu 25,4% cổ 
phần của ABBank; Tập đoàn Than Khoáng 
sản Việt Nam, Tập đoàn cao su Việt Nam 
đều sở hữu 9,3% cổ phần của SHB; Tập đoàn 
Dầu khí Quốc gia Việt Nam sở hữu 20% cổ 
phần của Oceanbank; Agribank sở hữu 15% 
Maritime bank, 10,2% của ngân hàng Phát 
triển Mê Kông, 8,9% của ngân hàng Quân đội. 
VNPT sở hữu 12,5% Maritime bank, 6,1% cổ 
39
Sở hữu chéo . . .
phần của Oceanbank, 6% cổ phần của ngân 
hàng Bưu điện Liên Việt và Vinalines sở hữu 
5,3% cổ phần của Maritime bank. Mặc dù các 
Tập đoàn, Tổng công ty nắm giữ số lượng cổ 
phần tương đối lớn tại các NHTMCP nhưng 
lại trực tiếp không tham gia quản trị điều hành 
trong khi vai trò quản trị điều hành và thâu 
tóm lại thuộc về nhóm lợi ích hoặc một vài cá 
nhân đại diện thao túng. 
Như chúng ta biết, sự biến tướng sở hữu 
chéo vốn cổ phần trong các NHTMCP có liên 
quan đã đưa đến nhiều mối quan hệ mà cơ 
quan quản lý nhà nước về hoạt động ngân 
hàng cần phải quan tâm giải quyết, nhằm làm 
minh bạch năng lực tài chính của những tổ 
chức, cá nhân có nhiều sở hữu vốn cổ phần tại 
một số ngân hàng, tránh bị rơi vào tình trạng 
để họ lũng đoạn, gây nên những biến động 
ảnh hưởng xấu đến hệ thống ngân hàng hiện 
nay. Tình trạng sở hữu chéo cổ phần đang đưa 
tới việc tạo ra những liên minh ngân hàng, 
khiến cho việc quản lý trở nên phức tạp. Nếu 
không được kiểm soát đúng mức, rủi ro hệ 
thống không phải là không có. Một trong 
những ưu tiên của tiến trình tái cơ cấu nền 
kinh tế đó chính là tái cấu trúc lại hệ thống 
ngân hàng thương mại. Trong đó giải quyết 
nợ xấu và sâu xa hơn là giải quyết tình trạng 
sở hữu chéo là vấn đề được nhiều người quan 
tâm thời điểm này.
Theo quy định, một cổ đông cá nhân 
không được sở hữu quá 5% vốn điều lệ của 
một tổ chức tín dụng, một cổ đông là tổ 
chức không được sở hữu quá 15% vốn điều 
lệ của một tổ chức tín dụng... nhằm hạn chế 
sự thâu tóm ngân hàng trái pháp luật. Song, 
khi sở hữu chéo thì quy định này sẽ bị vô 
hiệu hóa. Bởi lẽ, sở hữu chéo cho phép một 
doanh nghiệp, hay NHTM, có tỷ lệ cổ phần 
lớn trong các NHTM khác có thể gây áp lực 
để ngân hàng này cấp vốn đầu tư vào những 
dự án của doanh nghiệp hay ngân hàng “sân 
sau” của mình, điều này sẽ dẫn đến nguy cơ là 
quy định giới hạn tín dụng bị “vượt rào”, bộ 
máy đánh giá, sàng lọc tiêu chí theo hiệu quả 
đầu tư của NHTM bị vô hiệu. Các quy định 
về các đối tượng cấm cho vay, hạn chế cho 
vay cũng sẽ bị ảnh hưởng. Chẳng hạn, pháp 
luật không cho phép TCTD cho vay đối với 
Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc, người thân 
của họ và một số đối tượng khác. Tuy nhiên, 
những người này lại có thể vay ở TCTD khác 
mà tổ chức của mình là cổ đông lớn. Sở hữu 
chéo cũng giúp các ngân hàng có thể lách quy 
định về việc không được cho các cổ đông của 
mình vay vốn bằng cách cho các công ty con 
của các doanh nghiệp vay vốn. Và một thực 
tế, trong bối cảnh hiện nay, ngân hàng thương 
mại rất dễ biến thành kênh huy động vốn cho 
Tập đoàn, các công ty con là “mạng nhện” 
liên kết còn thể hiện ở những hoạt động kinh 
doanh thiếu kiểm soát, sự nhập nhằng trong 
việc cho vay, trong thẩm định và cấp phát vốn 
vay và làm gia tăng rủi ro tín dụng, phát sinh 
tiềm ẩn nợ xấu ngân hàng. Rủi ro thị trường 
tài chính ngân hàng mang tính hệ thống, dù 
rủi ro ấy ban đầu chỉ xuất phát từ một vài tổ 
chức riêng lẻ. Vì đó là quan hệ giữa dòng tiền 
với nền sản xuất kinh tế thực. Rủi ro này khi 
vỡ, từ quan hệ “lằng nhằng” do sở hữu chéo 
giữa các ngân hàng, thì không chỉ lan tỏa đối 
với hệ thống sản xuất kinh doanh ngoài ngân 
hàng mà ngay cả trong ngân hàng.
Theo báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy 
ban kinh tế Quốc hội thì hiện nay, gần 40 
doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân sở hữu 
trên 5% tại các NHTMCP và các doanh nghiệp 
này lại sở hữu các công ty đầu tư tài chính. 
Vì vậy, mối quan hệ giữa NHTMCP với các 
tập đoàn cổ phần tư nhân ngày càng phức tạp. 
40
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Nhiều ngân hàng có thể được sở hữu bởi rất 
nhiều công ty gia đình hoặc các thành viên gia 
đình vốn đang là lãnh đạo ở các doanh nghiệp 
khác. Các ngân hàng có thể nắm cổ phần của 
nhau thông qua những công ty chứng khoán 
hoặc quỹ đầu tư hoặc công ty đầu tư tài chính. 
Có chuyên gia kinh tế cho rằng “Một thực 
tế là công ty đầu tư tài chính tại Việt Nam 
lại là một doanh nghiệp bình thường, không 
bị điều tiết bởi quy định đặc biệt nào, không 
phải công bố thông tin trong khi họ hoạt động 
không khác gì một quỹ đầu tư hay công ty 
chứng khoán. Ví dụ mới đây nhất của hình 
thức này là cách tạo tiền cấp số nhân của ông 
Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên) để sở hữu cổ 
phần tại nhiều ngân hàng vừa được cơ quan 
điều tra phanh phui. Theo đó, bầu Kiên thành 
lập các công ty đầu tư tài chính và sử dụng 
những pháp nhân này để vay tiền ngân hàng. 
Với phần lớn số tiền này, ông và người thân 
trong gia đình gom thêm cổ phần tại một ngân 
hàng thứ hai rồi dùng chính số cổ phần trên 
thế chấp cho khoản vay tại ngân hàng đầu 
tiên. Cuối cùng, tiền chạy lòng vòng và giá 
trị thực ít hơn rất nhiều con số vốn cổ phần ảo 
do mối quan hệ sở hữu phức tạp. Hình thức sở 
hữu chéo tiếp theo là việc một hoặc nhiều nhà 
đầu tư lớn nắm một lúc nhiều ngân hàng, công 
ty chứng khoán.
Theo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân 
hàng – NHNN, luật Các TCTD năm 2010 
không cho phép các TCTD sở hữu cổ phần 
lẫn nhau (Khoản 5 Điều 129); không cho 
phép các công ty con, công ty liên kết của một 
TCTD được góp vốn, mua cổ phần của chính 
TCTD đó (Khoản 2 Điều 135). Tuy nhiên do 
yếu tố lịch sử, trên thực tế, hiện vẫn còn một 
số TCTD góp vốn tại nhiều TCTD khác hoặc 
có sở hữu cổ phần lẫn nhau (xảy ra từ trước 
khi Luật Các TCTD năm 2010 có hiệu lực) 
hoặc có một số trường hợp TCTD thông qua 
các công ty con của mình sở hữu cổ phần của 
TCTD khác (gọi chung là các TCTD “có liên 
quan”).
a. Những lợi ích của sở hữu chéo
- Sở hữu được nhiều ngân hàng, nên dễ 
linh hoạt trong việc sử dụng nguồn vốn để 
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân 
hàng mình, cũng như các công ty con của 
mình.
- Quy mô vốn sở hữu, năng lực tài chính 
lớn sẽ giúp cho ngân hàng có nhiều cơ hội để 
cạnh tranh với các ngân hàng khác. 
- Nhìn nhận lại lịch sử của sở hữu chéo, 
ông Tomoyuki Kimura – Giám đốc Quốc gia 
ADB tại Việt Nam cho rằng: Bản chất sở hữu 
chéo không phải là xấu. Sở hữu chéo giữa 
ngân hàng lớn với ngân hàng nhỏ là khá phổ 
biến ở nhiều quốc gia. Khi có tình huống xấu 
xảy ra, ngân hàng lớn có thể giúp ngân hàng 
nhỏ bằng việc tăng cường nhân lực, tư vấn 
cách quản lý, điều hành Sở hữu chéo trở 
thành vấn đề khi nó không được quản lý chặt 
chẽ, gây hậu quả xấu.
- Sở hữu chéo, sẽ góp phần mở rộng mạng 
lưới ngân hàng đại lý lẫn nhau, tạo nên những 
liên minh thanh toán, tài trợ tín dụng trong và 
ngoài nước nhanh gọn hiệu quả, hạn chế rủi ro 
tập trung tín dụng.
b. Những hệ lụy của sở hữu chéo vốn 
cổ phần 
- Các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt 
động ngân hàng khó kiểm soát được thực chất 
chủ sở hữu vốn cổ phần của những ngân hàng 
này, khó có thể loại trừ “vốn cổ phần ảo”. 
Số liệu hình thức có vốn, nhưng năng lực tài 
chính thực chất là bị giới hạn, không đủ mạnh.
- Nhiều NHTMCP bị một số nhóm nhà 
đầu tư thao túng, dễ trục lợi, làm giá cổ phiếu 
ngân hàng trên thị trường.
41
Sở hữu chéo . . .
- Các chủ sở hữu vốn chéo thường sử dụng 
vốn đổ vào “công ty sân sau” để tìm kiếm lợi 
nhuận khác, hoặc với mục đích kinh doanh 
khác cao hơn, nên việc sử dụng tiền vay phần 
lớn không đúng mục đích, có phần hợp thức 
hóa chứng từ tiền vay làm cho hoạt động kinh 
doanh ngân hàng bị méo mó, khó kiểm soát.
4. Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp 
xử lý sở hữu chéo
Một là, bắt buộc các Tập đoàn, Tổng 
công ty DNNN phải thoái vốn ra khỏi các 
ngân hàng TMCP. Để giải tỏa bớt áp lực sở 
hữu chéo trong hệ thống ngân hàng hiện nay, 
cơ quan quản lý có thể gây sức ép buộc các 
doanh nghiệp phi tài chính phải thoái vốn ra 
khỏi ngân hàng nhất là các DNNN. Bên cạnh 
đó, quá trình sáp nhập, hợp nhất ngân hàng 
yếu với ngân hàng mạnh để nâng cao tính 
minh bạch trong quản trị ngân hàng, làm rõ 
minh bạch của nguồn vốn cổ phần cũng được 
xem là một giải pháp ngăn chặn sở hữu chéo.
Hai là, ngân hàng Nhà nước sẽ cho 
tiến hành thanh tra, đánh giá thực trạng 
tài chính, sở hữu cổ phần của hơn 38 ngân 
hàng để làm rõ vấn đề sở hữu. Theo sau đó, 
Ngân hàng Nhà nước sẽ ban hành một số 
quy định mới để giải quyết, xử lý những vấn 
đề bất cập trong hệ thống ngân hàng. Trong 
năm 2013, khi các hệ thống văn bản này có 
hiệu lực sẽ góp phần làm cho hệ thống ngân 
hàng trở nên minh bạch hơn. Sự minh bạch 
về chính sách tiền tệ nói chung và hoạt động 
của hệ thống ngân hàng thương mại có vai trò 
đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của 
nền kinh tế.
Ba là, tăng tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư 
nước ngoài tham gia vào các NHTMCP 
trong nước để hạn chế sở hữu chéo trong 
các NHTMCP trong nước. Từ quan điểm 
của một số nhà đầu tư nước ngoài, nếu một 
ngân hàng nước ngoài hay nhà đầu tư nước 
ngoài muốn đầu tư vào một ngân hàng TMCP 
Việt Nam, vấn đề sở hữu chéo là một quan 
ngại lớn, họ chưa biết rõ người sở hữu ngân 
hàng là ai và sẽ rất khó cho họ đưa ra quyết 
định đầu tư vốn lớn vào một ngân hàng cụ 
thể. Sự hợp tác giữa ngân hàng nước ngoài 
với NHTMCP Việt Nam thông qua hình thức 
góp vốn, cử đại diện tham gia vào HĐQT đã 
mang đến ít nhiều thành công cho các trong 
nước. Bởi ít nhất, sự tham gia của nhà đầu tư 
nước ngoài vào ngân hàng đã góp phần nâng 
cao tính minh bạch của tổ chức, của ngân 
hàng. Đại diện ANZ cho rằng việc nâng tỷ lệ 
sở hữu của người nước ngoài liên quan đến 
từng trường hợp cụ thể, những tính toán trong 
chiến lược của các ngân hàng cũng như nhà 
đầu tư và theo lộ trình cụ thể của từng quốc 
gia. Triển vọng về việc tăng room cho nhà đầu 
tư nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam như thế 
nào? Theo CEO Citibank Việt Nam, động lực 
cho việc tăng room là có. Bởi các ngân hàng 
bao gồm các ngân hàng trên thế giới đều có 
nhu cầu vốn lớn hơn nhằm đáp ứng tiêu chuẩn 
Basel 3. Sự tham gia nhiều hơn của nhà đầu tư 
nước ngoài vào ngân hàng trong nước có thể 
hỗ trợ cho cơ quan quản lý Nhà nước có thể 
quản lý tốt hơn hệ thống ngân hàng Việt Nam 
– thị trường sẽ minh bạch hơn, cũng như vấn 
đề sở hữu chéo và nợ xấu của các cũng được 
rỏ ràng hơn nhằm tìm kiếm giải pháp xử lý 
góp phần lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng.
Bốn là, tăng cường thanh tra, giám sát 
TCTD mua bán chuyển nhượng cổ phần. 
Để hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng nêu 
trên, NHNN triển khai các giải pháp, trong đó 
có việc phải tăng cường công tác thanh tra, 
giám sát, rà soát, chấn chỉnh các trường hợp 
vi phạm các quy định tại Khoản 5 Điều 129, 
Khoản 2 Điều 135 Luật các TCTD năm 2010 
42
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
và các quy định có liên quan đến vấn đề sở hữu 
chéo của các TCTD. Xây dựng lộ trình giảm 
sở hữu vốn lẫn nhau giữa các TCTD; tạo điều 
kiện cho các TCTD thoái vốn ở các TCTD và 
các công ty con, công ty liên kết hoạt động 
không có hiệu quả. Bắt buộc các TCTD tuân 
thủ, Điều 55 của Luật các TCTD năm 2010 
về quy định giới hạn sở hữu cổ phần của cổ 
đông cá nhân, cổ đông pháp nhân và những 
người có liên quan, bao gồm cả phần cổ phần 
ủy thác cho cá nhân, tổ chức khác đứng tên. 
Nếu vi phạm, các cá nhân và người đứng đầu 
tổ chức phải chấp nhận bị xử lý theo luật hình 
sự. Cụ thể, để đảm bảo nguồn vốn của các cổ 
đông là cá nhân, tổ chức đầu tư vào TCTD là 
hợp pháp và phản ánh đúng thực chất năng 
lực tài chính của họ, khi xem xét việc tăng 
vốn điều lệ của các TCTD, NHNN sẽ tăng 
cường công tác xác minh nguồn tiền của các 
cổ đông và người có liên quan khi tham gia 
góp vốn, mua cổ phần tại các TCTD (thông 
qua các hồ sơ chứng minh năng lực tài chính 
và quan hệ tín dụng tại các TCTD). NHNN 
đang tăng cường thanh tra, giám sát các đối 
tượng vi phạm, giám sát chặt chẽ các quan hệ 
tín dụng, các đối tượng đang có sở hữu chéo, 
tạo điều kiện để các TCTD thoái vốn tại các 
TCTD khác. Tăng cường xác minh nguồn 
lực tài chính của các TCTD, các cổ đông khi 
tham gia góp vốn, mua cổ phần ở các TCTD 
khác. Đồng thời, tăng cường phối hợp với Ủy 
ban Chứng khoán Nhà nước giám sát chặt chẽ 
việc mua bán, chuyển nhượng cổ phần trên 
thị trường.
Năm là, loại bỏ sở hữu chéo vốn cổ phần 
ảo trong các NHTMCP để hạn chế rủi ro. 
Vì rủi ro hoạt động hệ thống ngân hàng liên 
quan tới tình trạng sở hữu chéo cổ phần giữa 
các ngân hàng thương mại, các tập đoàn, tổng 
công ty có các hoạt động liên quan tới hoạt 
động tài chính, bất động sản... Tình trạng này 
tạo ra các nhóm lợi ích có thể chi phối thị 
trường, gây khó tách bạch sở hữu, do vậy cản 
trở quá trình giám sát, tái cơ cấu ngân hàng. 
Tóm lại, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng 
nói chung và xử lý các ảnh hưởng tiêu cực của 
sở hữu chéo vốn cổ phần trong các NHTMCP 
nói riêng là chặng đường gian nan với nhiều 
khó khăn, thách thức đòi hỏi nỗ lực của tất cả 
các bên liên quan. Cần triển khai thực hiện 
đồng bộ các giải pháp phải chú ý đến các yếu 
tố có thể có ảnh hưởng đến hiệu quả của quá 
trình thực thi, bao gồm: Chi phí và nguồn lực 
cho việc xử lý sở hữu chéo; Trách nhiệm và 
sự phối hợp của các cơ quan liên quan; Phản 
ứng của các nhóm lợi ích. Kinh nghiệm quốc 
tế của nhiều quốc gia đã cho thấy sự thành 
công của quá trình minh bạch hóa cấu trúc sở 
hữu hệ thống ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào 
các yếu tố này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012, 
[2]. 
[3]. Website của các ngân hàng thương mại và một số trang web khác.

File đính kèm:

  • pdfso_huu_cheo_von_co_phan_cua_ngan_hang_thuong_mai_viet_nam_hi.pdf