Sinh khối và khả năng hấp thụ CO2 của rừng tràm khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng

TÓM TẮT

Mục tiêu của nghiên cứu là xácđịnh sinh khối và lượng CO2 hấp thụcủa hai cấp

tuổi rừng tràm (nhỏ hơn 10 và lớn hơn 10 năm tuổi) tại Khu bảo tồn thiên nhiên

Lung Ngọc Hoàng, từ đó thiết lập cơ sở ban đầu cho các nhà quản lý rừng thực

hiện công tác chi trảdịch vụmôi trường vàđềxuất các giải pháp phát triểnổnđịnh

rừng tràm. Các thông sốvềđường kính thân cây ngang ngực cảvỏ, chiều cao vút

ngọn, mật độ, sinh khối, tầng cây bụi dưới tán Tràm và thành phần vật rụng của

tràmđược thu thậpở18 ô tiêu chuẩn (kích thước 10 m x 10 m). Mậtđộcủa rừng

tràmởcấp tuổi nhỏhơn 10 (4.550 cây/ha) cao hơn mậtđộcủa rừng tràmởcấp tuổi

lớn hơn 10 (3.510 cây/ha). Rừng tràmởcấp tuổi nhỏhơn 10 có giá trịđường kính

và chiều cao nhỏ hơn rừng tràm ở cấp tuổi lớn hơn 10. Giữa đường kính ngang

ngực và sinh khối cây tràm có mối tương quan chặt chẽvới nhau (hệsốtương quan

R = 0,93). Thành phần vật rụngởhai cấp tuổi rừng tràm nhỏhơn 10 và lớn hơn 10

không khác biệt. Mười loài thực vật dưới tán tràm được ghi nhận tại các ô tiêu

chuẩn, trong đó sậy (Phragmites vallatoria (L.) Veldk) và choại (Stenochlaena

palustris (Burm. f.) là những loài cây chủyếu. Hàm lượng CO2 hấp thụước tính của

rừng tràm theo hai cấp tuổi nhỏ hơn 10 và lớn hơn 10 đạt giá trị lần lượt là 200

tấn/ha và 250 tấn/ha.

pdf 8 trang phuongnguyen 1640
Bạn đang xem tài liệu "Sinh khối và khả năng hấp thụ CO2 của rừng tràm khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sinh khối và khả năng hấp thụ CO2 của rừng tràm khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng

Sinh khối và khả năng hấp thụ CO2 của rừng tràm khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần A (2017): 58-65 
 58 
DOI:10.22144/jvn.2017.067 
SINH KHỐI VÀ KHẢ NĂNG HẤP THỤ CO2 CỦA RỪNG TRÀM 
KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN LUNG NGỌC HOÀNG 
Bùi Thị Thu Thảo1 và Lê Anh Tuấn2 
1Ban Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Hậu Giang 
2Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu, Trường Đại học Cần Thơ 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 02/10/2016 
Ngày nhận bài sửa: 04/05/2017 
Ngày duyệt đăng: 27/06/2017 
Title: 
Biomass and CO2 absorption 
of Melaleuca forest in Lung 
Ngoc Hoang Natural Reserve 
Từ khóa: 
Carbon tích lũy, cây tràm, 
CO2 hấp thụ, sinh khối 
Keywords: 
Carbon dioxide absorption, 
accumulated carbon, biomass, 
Melaleuca cajuputi 
ABSTRACT 
The objectives of the study were to estimate biomass and carbon dioxide (CO2) 
absorption of Melaleuca forest in two groups of ages under and over 10 years old in 
Lung Ngoc Hoang Natural Reserve, thus establishing the initial foundation for 
forest managers to implemete the environmental services payment and to propose 
sustainable solutions for Melaleuca forest development. The parameters, such as 
diameter at breast height (DBH) including tree covers, maximum height, tree 
density, partly biomass, litter falls of Melaleuca tree and shrubs were collected 
inside the eighteen standard quadrats (sized 10 m x 10 m). The density of under 10-
year-old Melaleuca forest (as 4,550 trees per hectare) was higher than that of over 
10-year-old Melaleuca forest (as 3,510 trees per hectare). The under 10-year-old 
forest showed significant lower DBH and lower maximum height than those of over 
10-year-old forest. The interrelation between the DBH and biomass was rather 
height (i.e. R = 0.93). Review in litter fall, there was not statistically significant 
between the two aging groups of Melaleuca forest. Ten bush species were found in 
the Melaleuca forest research site. In which, Phragmites vallatoria (L.) Veldk and 
Stenochlaena palustris (Burm. f.) Bedd were principal plant species. The amount of 
CO2 absorption by two aging groups of trees were 200 and 250 ton CO2 per 
hectare, respectively. 
TÓM TẮT 
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định sinh khối và lượng CO2 hấp thụ của hai cấp 
tuổi rừng tràm (nhỏ hơn 10 và lớn hơn 10 năm tuổi) tại Khu bảo tồn thiên nhiên 
Lung Ngọc Hoàng, từ đó thiết lập cơ sở ban đầu cho các nhà quản lý rừng thực 
hiện công tác chi trả dịch vụ môi trường và đề xuất các giải pháp phát triển ổn định 
rừng tràm. Các thông số về đường kính thân cây ngang ngực cả vỏ, chiều cao vút 
ngọn, mật độ, sinh khối, tầng cây bụi dưới tán Tràm và thành phần vật rụng của 
tràm được thu thập ở 18 ô tiêu chuẩn (kích thước 10 m x 10 m). Mật độ của rừng 
tràm ở cấp tuổi nhỏ hơn 10 (4.550 cây/ha) cao hơn mật độ của rừng tràm ở cấp tuổi 
lớn hơn 10 (3.510 cây/ha). Rừng tràm ở cấp tuổi nhỏ hơn 10 có giá trị đường kính 
và chiều cao nhỏ hơn rừng tràm ở cấp tuổi lớn hơn 10. Giữa đường kính ngang 
ngực và sinh khối cây tràm có mối tương quan chặt chẽ với nhau (hệ số tương quan 
R = 0,93). Thành phần vật rụng ở hai cấp tuổi rừng tràm nhỏ hơn 10 và lớn hơn 10 
không khác biệt. Mười loài thực vật dưới tán tràm được ghi nhận tại các ô tiêu 
chuẩn, trong đó sậy (Phragmites vallatoria (L.) Veldk) và choại (Stenochlaena 
palustris (Burm. f.) là những loài cây chủ yếu. Hàm lượng CO2 hấp thụ ước tính của 
rừng tràm theo hai cấp tuổi nhỏ hơn 10 và lớn hơn 10 đạt giá trị lần lượt là 200 
tấn/ha và 250 tấn/ha. 
Trích dẫn: Bùi Thị Thu Thảo và Lê Anh Tuấn, 2017. Sinh khối và khả năng hấp thụ CO2 của rừng tràm Khu 
bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 50a: 58-65. 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần A (2017): 58-65 
 59 
1 ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tràm (thuôc̣ họ Myrtaceae) là loài cây phổ biến 
ở các vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. 
Trên thế giới có khoảng 260 giống tràm phân bố 
trên khoảng 9 triệu ha và tập trung chủ yếu ở 
Australia với khoảng 200 loài (Tran et al., 2012). 
Ở Việt Nam chỉ ghi nhận duy nhất một loài là 
Melaleuca cajuputi, phân bố tập trung ở vùng 
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với diện tích 
khoảng 176.296 ha (Phạm Xuân Quý, 2010a). 
Tràm ở ĐBSCL được biết đến là loài cây thích 
nghi tốt, khả năng tái sinh tự nhiên mạnh và có thể 
sinh trưởng lan nhanh trong điều kiện đất phèn 
ngập nước. Trong nhiều vùng đất ngâp̣ nước, rừng 
tràm đóng vai trò là hồ chứa nước, hệ thống lọc 
phèn, nơi khai thác thủy sản và là nơi bảo vệ tài 
nguyên đa dạng sinh học. Rừng tràm cung cấp 
lượng sinh khối lớn (sản phẩm chính là gỗ) cho các 
hoạt động của con người như làm củi đốt, làm than, 
làm cừ và vật liệu xây dựng. Rừng tràm có mật độ 
trung bı̀nh khoảng 6.500 cây/ha, cung cấp 75,74 
tấn/ha sinh khối tươi, tương đương 35,99 tấn/ha 
sinh khối khô (Trần Thị Kim Hồng và ctv., 2015). 
Bên cạnh đó, rừng tràm đóng vai trò quan trọng 
trong việc điều hòa khí hậu, hấp thụ khí carbon 
dioxide (CO2) và cung cấp oxygene (O2) cho bầu 
khí quyển. Trương Hoàng Đan và ctv. (2014) đã 
ước tính rừng tràm tại Vườn quốc gia U Minh 
Thượng ở độ tuổi nhỏ hơn 10 và lớn hơn 10 hấp 
thụ được lần lượt đạt 15,18 tấn CO2/ha và 31,76 tấn 
CO2/ha. Điều này có ý nghĩa nhất định trong việc 
góp phần giảm tác động tiêu cực của biến đổi khí 
hậu, đồng thời tạo cơ sở ban đầu cho các nhà quản 
lý rừng thực hiện công tác chi trả dịch vụ môi 
trường và đề xuất các phương thức phát triển ổn 
định rừng tràm. 
Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu về khả năng hấp 
thụ CO2 của thực vật đã được thực hiện (Phạm 
Tuấn Anh, 2007; Nguyễn Thị Thanh Trúc và Lê 
Anh Tuấn, 2015), trong đó có những khảo cứu về 
sinh khối và lượng CO2 hấp thụ của rừng tràm 
(Phạm Xuân Quý, 2010b; Trương Hoàng Đan và 
ctv., 2014). Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu 
được tập trung tính toán trên ba vùng chính là 
Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Vườn 
Quốc gia U Minh Thượng và U Minh Hạ, nơi có 
diện tích rừng tràm được bảo tồn rộng lớn (khoảng 
20.000 ha) mà chưa được thực hiện trên các lâm 
phần có diện tích vừa và nhỏ. 
Tại vùng Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, Khu bảo 
tồn thiên nhiên (KBTTN) Lung Ngọc Hoàng nằm 
trong hệ thống rừng đặc dụng quốc gia, có tổng 
diện tích là 2.805 ha, thuộc kiểu vùng sinh thái đất 
ngập nước đặc trưng cần được bảo tồn của 
ĐBSCL. Đề tài “Sinh khối và khả năng hấp thụ 
CO2 của rừng tràm Khu bảo tồn thiên niên Lung 
Ngọc Hoàng, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang” 
được thực hiện với mong muốn bổ sung cơ sở dữ 
liệu về trữ lượng hấp thụ CO2 của các đối tượng 
thực vật trên những lập địa và địa phương khác 
nhau, góp phần hoàn thiện bản đồ cơ chế phát triển 
sạch, làm cơ sở ban đầu cho việc đánh giá chi trả 
dịch vụ môi trường. Mục tiêu cụ thể của đề tài là 
xác định sinh khối cây tràm, tầng vật rụng và thảm 
thực vật dưới tán tràm theo hai cấp tuổi nhỏ hơn 10 
và lớn hơn 10, trên cơ sở đó xác định lượng CO2 
của rừng tràm tại Khu bảo tồn hấp thụ được trên 
đơn vị diện tích đất (ha). 
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu được thực hiện tại Khu bảo tồn 
thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng, huyện Phụng Hiệp, 
tỉnh Hậu Giang từ tháng 7/2014 đến tháng 8/2015. 
Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng gồm 3 
phân khu chức năng, phân chia thành 100 khoảnh. 
Đề tài lập 18 ô tiêu chuẩn, mỗi ô có diện tích 100 
m2 (kích thước 10 m x 10 m) tại các lâm phần rừng 
tràm ở hai cấp tuổi (Hình 1). 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần A (2017): 58-65 
 60 
Hình 1: Bản đồ vị trí thu mẫu khu vực nghiên cứu 
2.1 Phương pháp nghiên cứu 
 Thu mẫu 
Tại mỗi ô tiêu chuẩn (OTC) thu thập các chỉ 
tiêu: (i) Đường kính thân cây ở độ cao ngang ngực 
(tại vị trí 1,3 m tính từ mặt đất (diameter at breast 
height - DBH) theo "Quy trình đo đếm sinh khối 
cây cá lẻ bằng phương pháp chặt hạ của UN-
REDD Viet Nam Programme (2012), (ii) độ cao 
thân cây vút ngọn (maximum Height - H) và (iii) 
mật độ cây trong ô tiêu chuẩn. Nghiên cứu này 
chọn khoảng 70 cây căn cứ vào tình hình thực tế 
của địa điểm nghiên cứu là Khu bảo tồn nên không 
cho phép đốn hạ cây quá nhiều, dựa vào sự đồng ý 
của Ban quản lý rừng. Trong 70 cây đại diện, với 
độ tuổi nhỏ hơn 10 chặt hạ 30 cây, tuổi cây là 09 
tuổi (trồng từ năm 2006). Với độ tuổi lớn hơn 10 
chặt hạ 40 cây, tuổi cây dao động trong khoảng 13 
– 19 tuổi (trồng từ năm 1996 đến 2002). Trung 
bình mỗi OTC chặt hạ 4 cây với vị trí chặt sát gốc 
(cách mặt đất 5 – 10 cm). Phân chia và cân đo sinh 
khối theo từng bộ phận riêng biệt: thân, cành, lá. 
Thu mẫu mỗi bộ phận. Trong mỗi ô tiêu chuẩn đã 
chọn, bố trí 1 túi thu vật rụng với diện tích 1 m2 
(kích thước 1 m x 1 m) treo dưới tán cây theo 
phương pháp Clough et al. (2000), tổng số túi thu 
vật rụng là 18 túi tương ứng với 18 ô tiêu chuẩn. 
Mỗi túi mẫu được thu 1 lần/tháng trong vòng 06 
tháng. Vật rụng được phân ra thành cành, lá, bông 
vụn. Thu thập số liệu sinh khối tầng cây bụi: Trong 
mỗi ô tiêu chuẩn đã chọn, bố trí 1 ô tiêu chuẩn với 
diện tích 1 m2 (kích thước 1 m x 1 m) để khảo sát 
sinh khối tầng cây bụi. Định danh, đếm và phân 
loại các loài thực vật hiện diện dưới tán tràm có 
chiều cao trên 10 cm trong 18 OTC, cân trọng 
lượng cây bụi theo từng loại, thu mẫu về phòng thí 
nghiệm. 
 Tại phòng thí nghiệm 
Cắt nhỏ mẫu, sấy ở 105C đến khi mẫu khô đạt 
khối lượng không đổi, thời gian sấy khô mẫu từ 24 
giờ đến 48 giờ tùy theo từng bộ phận của cây; cân 
đo sinh khối khô của cây tràm theo từng thành 
phần: thân, cành, lá; tầng vật rụng cân đo theo 
cành, lá, bông; tầng cây bụi cân đo theo từng loài. 
Sau đó cân lại để xác định hệ số giữa sinh khối khô 
và sinh khối tươi. 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần A (2017): 58-65 
 61 
 Xử lý số liệu 
 Xác định sinh khối khô cho bộ phận trên 
mặt đất của cây 
SKKi = k × SKTi 
Trong đó: SKKi: Sinh khối khô của bộ phận i 
(kg); 
k: Tỷ lệ giữa trọng lượng khô kiệt và trọng 
lượng tươi của bộ phận i tương ứng; 
SKTi: sinh khối tươi của bộ phận i trước khi sấy 
(kg). 
 Xác định sinh khối khô cho bộ phận rễ dưới 
mặt đất (Vũ Tấn Phương và Võ Đại Hải, 2011) 
BGB = R/S × AGB 
Trong đó: BGB: sinh khối khô rễ (kg); 
AGB: sinh khối khô trên mặt đất (kg); 
R/S: hệ số tỷ lệ giữa sinh khối khô dưới và trên 
mặt đất của cây. Theo Perry (1982), hầu hết mọi 
loại cây trong điều kiện bình thường có hệ số R/S 
từ 1/5 đến 1/6. Đối với rễ tràm, nghiên cứu chọn hệ 
số R/S là 1/6 để tính toán. 
 Tổng khối lượng khô của cây bằng tổng 
khối lượng khô các bộ phận. 
 Xác định trữ lượng cacbon tích lũy và lượng 
CO2 hấp thụ (IPCC, 2003) 
Cacbontích lũy = 0,5 × SKK (tấn C/ha) 
 Tổng hợp các số liệu về sinh khối tươi và 
sinh khối khô của từng loại cây tràm, cây bụi, vật 
rụng bằng phần mềm Mycrosoft Excel 2010 tương 
ứng theo hai cấp tuổi. Sử dụng Phần mềm SPSS 20 
để xử lý và thống kê số liệu. Dùng kiểm định One-
way ANOVA (Duncan) phân tích thống kê đối với 
các chỉ tiêu sinh trưởng giữa các khoảnh rừng tràm 
trong cùng cấp tuổi. Dùng kiểm định Independent-
Samples T Test để kiểm định các chỉ tiêu sinh 
trưởng về DBH, H và mật độ rừng ở hai cấp tuổi. 
2.2 Phương tiện nghiên cứu 
Các thiết bị nghiên cứu ngoài thực địa và trong 
phòng thí nghiệm chủ yếu bao gồm: (i) máy định vị 
cầm tay GPS Garmin GPSMAP 76CSx được sử 
dụng để lấy tọa độ; (ii) thước dây 50 m dùng thiết 
lập ô mẫu; thước dây 1,5 m dùng đo chu vi thân 
cây; thước đo chiều cao chuyên dùng đo chiều cao 
cây; cân đồng hồ với đơn vị nhỏ nhất 50 gram 
dùng cân trọng lượng sinh khối tươi các thành phần 
của cây tràm; túi nilon chứa mẫu gỗ cây tràm; (iii) 
túi lưới thu vật rụng (litter trap), kích cỡ lưới 1 
mm2, diện tích mặt túi 1 m2 (1 m x 1 m) theo 
phương pháp của Clough et al. (2000); và (iv) cân 
Sartorius (model BP221S, Đức); tủ sấy Memmert 
(model UNB–100, Đức). 
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1 Sinh khối rừng tràm, tầng vật rụng và 
thảm thực vật dưới tán tràm theo hai cấp tuổi 
3.1.1 Kết quả sinh khối rừng tràm 
 Kết quả sinh khối tươi 
Sinh khối tập trung nhiều nhất ở thân và tăng 
dần theo đường kính và chiều cao (Bảng 1). Kết 
quả này cũng phù hợp với những ghi nhận của Vũ 
Tiến Hinh (2003) về sản lượng và sinh khối của 
các loài cây gỗ. Đối với tràm nhỏ hơn 10 tuổi, 
trọng lượng thân tươi có giá trị cao nhất (83,15%), 
kế đến là cành tươi (14,08%) và lá tươi chiếm tỷ lệ 
thấp nhất (2,75%). Đối với tràm lớn hơn 10 tuổi, 
trọng lượng tươi thân, cành, lá lần lượt chiếm tỷ lệ 
là 64,35%, 31,99% và 3,66%. Tràm có tuổi càng 
cao có xu hướng cho tổng sinh khối càng lớn, cụ 
thể tràm ở cấp tuổi lớn hơn 10 có tổng lượng sinh 
khối tươi tích lũy (45,67 kg/cây) cao hơn so với 
tràm ở cấp tuổi nhỏ hơn 10 (36,02 kg/cây). Sinh 
khối tươi của các bộ phận cây các cấp tuổi không 
có sự khác biệt (p > 0,05). Với mật độ là 4.550 
cây/ha, rừng tràm nhỏ hơn 10 tuổi tại KBTTN 
Lung Ngọc Hoàng tại thời điểm nghiên cứu có thể 
cung cấp 163,89 tấn/ha sinh khối tươi. Trong khi 
đó, rừng tràm lớn hơn 10 tuổi tại thời điểm nghiên 
cứu có thể cung cấp 160,30 tấn/ha sinh khối tươi 
tương ứng với mật độ là 3.510 cây/ha. Rừng tràm 
nhỏ hơn 10 tuổi (trồng vào năm 2006, tính đến thời 
điểm khảo sát năm 2015 thì cây khoảng 8,5 tuổi – 
9 tuổi), có thể giải thích rằng cây đã đến tuổi thành 
thục, chỉ ưu tiên phát triển rậm về cành và lá. Đối 
với rừng tràm cao tuổi, qua khảo sát có mật độ 
thấp, diện tích cành cây và lá cây đón nắng nhiều 
nên có thể cây tràm phát triển rậm về cành lá mà 
chậm phát triển về phần thân. 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần A (2017): 58-65 
 62 
Bảng 1: Trung bình sinh khối tươi các thành phần ở hai cấp tuổi 
Tuổi rừng Sinh khối tươi (kg/cây) SKTt SKTc SKTl TSKT 
< 10 tuổi 29,95±1,58 5,07±0,32 0,99±0,06 36,02±1,95 
> 10 tuổi 29,39±1,36 14,61±0,95 1,67±0,09 45,67±2,30 
* SKTt: Sinh khối tươi thân; SKTc: Sinh khối tươi cành; SKTl: Sinh khối tươi lá; TSKT: Tổng sinh khối tươi
 Kết quả sinh khối khô 
Kết quả thống kê cho thấy cây tràm thuộc lâm 
phần ở độ tuổi lớn hơn 10 có tổng sinh khối khô 
lớn hơn so với cây tràm thuộc lâm phần ở độ tuổi 
nhỏ hơn 10 (Bảng 2), cụ thể sinh khối khô tích lũy 
của tràm ở cấp tuổi nhỏ hơn 10 là 23,99 kg/cây, 
thấp hơn so với tràm ở cấp tuổi lớn hơn 10 là 38,81 
kg/cây. 
Bảng 2: Trung bình sinh khối khô các thành phần ở hai cấp tuổi 
Tuổi rừng Sinh khối khô (kg/cây) SKKt SKKc SKTl SKKr TSKK 
<10 tuổi 16,73±1,01 3,14±0,18 0,69±0,04 3,43±0,20 23,99±1,41 
>10 tuổi 20,22±1,00 12,24±0,80 0,80±0,05 5,54±0,29 38,81±2,06 
* SKKt: Sinh khối khô thân; SKKc: Sinh khối khô cành; SKKl: Sinh khối khô lá; SKKr: Sinh khối khô rễ; TSKT: Tổng 
sinh khối khô
Rừng tràm KBTTN Lung Ngọc Hoàng tại thời 
điểm nghiên cứu có thể cung cấp 163,89 tấn/ha 
tổng sinh khối tươi, tương đương 109,15 tấn/ha 
tổng sinh khối khô đối với tràm nhỏ hơn 10 tuổi. 
Các giá trị này ở rừng tràm lớn hơn 10 tuổi tương 
ứng là 160,30 tấn/ha và 136,22 tấn/ha. Giá trị này 
cao hơn so với kết quả sinh khối rừng tràm được 
Trần Thị Kim Hồng và ctv. (2015) ghi nhận trên 
nền đất than bùn tại Vườn Quốc gia U Minh 
Thượng, với trung bình tổng sinh khối tươi là 
75,74 tấn/ha, tương đương 35,99 tấn/ha tổng sinh 
khối khô. Sinh khối khô của thân, cành, lá và rễ 
cũng như tổng sinh khối khô cũng không có sự 
khác biệt theo cấp tuổi (p > 0,05). Điều này có thể 
được giải thích bởi rừng tràm ở U Minh Thượng 
sinh trưởng trên đất than bùn, khác với rừng tràm ở 
KBTTN Lung Ngọc Hoàng sinh trưởng trên đất 
phèn. Để thích ứng với đất than bùn, thân cây tràm 
phát triển mạnh ở phần gốc, chiều cao thấp, kết quả 
là trữ lượng gỗ thân cây trên đất than bùn thấp hơn 
so với rừng sinh trưởng trên đất phèn (Lê Minh 
Lộc, 2005). Bên cạnh đó, sinh khối rừng tràm ở 
Vườn Quốc gia U Minh Thượng chỉ tính các thành 
phần trên mặt đất, kết quả của nghiên cứu tại 
KBTTN Lung Ngọc Hoàng thì sinh khối khô bao 
gồm cả phần rễ dưới mặt đất. Do phương pháp lấy 
mẫu là chặt hạ cây ở vị trí cách mặt đất 5 - 10 cm 
nên (Bảng 1) không thể hiện sinh khối tươi ở phần 
rễ. Khi tính sinh khối khô thì đề tài áp dụng hệ số 
R/S để xác định sinh khối khô ở phần rễ (Bảng 2). 
Mặt khác, mật độ trung bình của rừng tràm tại 
Vườn Quốc gia U Minh Thượng được ghi nhận là 
rất dày, từ 6.100 cây/ha – 7.000 cây/ha, trong khi 
đó mật độ trung bình khảo sát tại các ô tiêu chuẩn ở 
KBTTN Lung Ngọc vào khoảng 3.510 cây/ha – 
4.550 cây/ha. Ở rừng có mật độ dày, sự cạnh tranh 
về không gian, dinh dưỡng, ánh sáng diễn ra khắc 
nghiệt, dẫn đến sinh khối tích lũy thấp hơn so với 
rừng có mật độ thấp. 
3.1.2 Kết quả điều tra tầng vật rụng 
Vật rụng là các thành phần chính của cây như 
cành, lá, bông bị loại bỏ theo thời gian do quá trình 
lão hóa ở các tế bào hoặc do các tác động bởi 
những yếu tố bên ngoài. Số liệu ghi nhận qua các 
tháng cho kết quả sinh khối khô cành rụng tại rừng 
nhỏ hơn 10 tuổi có giá trị trong khoảng 11,31 – 
12,70 g/m2, rừng lớn hơn 10 tuổi có giá trị trong 
khoảng 13,81 – 15,08 g/m2 (Hình 2). Sinh khối khô 
lá rụng tại rừng nhỏ hơn 10 tuổi có giá trị trong 
khoảng 26,68 – 27,68 g/m2, rừng lớn hơn 10 tuổi 
có giá trị trong khoảng 27,12 – 28,65 g/m2 (Hình 
3). Sinh khối khô của cành rụng và lá rụng giữa các 
tháng không có sự khác biệt theo cấp tuổi (p > 
0,05). Điều này có thể do vị trí các ô tiêu chuẩn 
được bố trí khá tập trung nên tràm trong khu vực 
khảo sát có cùng điều kiện về không gian, dinh 
dưỡng, chịu tác động như nhau về điều kiện ngoại 
cảnh (mưa, gió, sâu bệnh), dẫn đến kết quả 
lượng cành và lá rụng không khác biệt có ý nghĩa 
(ký hiệu ns ở Hình 2 và Hình 3). 
Ở cấp tuổi nhỏ hơn 10, kết quả sinh khối khô 
của bông rụng dao động trong khoảng 9,68 – 11,63 
g/m2, giá trị ghi nhận giữa các tháng không có sự 
khác biệt, tuy nhiên giữa tháng 10 và tháng 11 có 
sự khác biệt. Điều này có thể giải thích do tràm trổ 
bông vào tháng 5, đến tháng 11 thì bông rụng và 
kết trái, làm cho lượng sinh khối bông thu được có 
sự khác biệt ở mức ý nghĩa 5%. Ở cấp tuổi lớn hơn 
10, sinh khối khô của bông rụng giữa các tháng 
không có sự khác biệt (p > 0,05); giá trị sinh khối 
bông rụng dao động trong khoảng 9,31 – 9,87 g/m2 
(Hình 4). 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần A (2017): 58-65 
 63 
Hình 2: Sinh khối khô cành rụng Hình 3: Sinh khối khô lá rụng 
Hình 4: Sinh khối khô bông rụng 
3.1.3 Kết quả điều tra tầng cây bụi 
Quá trình khảo sát thực địa ghi nhận có 10 loài 
thực vật dưới tán tràm hiện diện tại 18 ô tiêu chuẩn 
(Bảng 3). Trong đó, sậy là loài chiếm ưu thế với 
mật độ cao nhất 4,56 cây/m2. Điều này tương đồng 
với Lê Bá Toàn (2009) đã ghi nhận tại Vườn Quốc 
gia U Minh Thượng. Tác giả Lê Bá Toàn ghi nhận 
rừng Tràm trên đất phèn thì ưu thế là tràm với 
nhiều cấp tuổi khác nhau, tầng dưới là sậy với mật 
độ khá dày nhưng rất dễ bị đào thải theo quá trình 
sinh trưởng và phát triển của cây tràm; kế đến là 
choại với mật độ 2,11 cây/m2; bòng bong dịu và 
bòng bong leo là hai loài có mật độ tương đương 
nhau và thấp nhất, lần lượt là 0,22 cây/m2 và 0,17 
cây/m2. Các loài cây bụi còn lại chiếm tỷ lệ xấp xỉ 
nhau. Về khối lượng, sậy là loài có sinh khối tươi 
cao nhất (2,47 kg/m2 đối với rừng nhỏ hơn 10 tuổi, 
2,41 kg/m2 đối với rừng lớn hơn 10 tuổi), kết quả 
này tương đồng với sự ghi nhận của Nguyễn Xuân 
Đặng và ctv. (2004). 
Bảng 3: Thống kê mật độ, sinh khối tầng cây bụi 
STT Tên thông thường Tên khoa học 
Mật độ (cây/m2) SKT (kg/m2) 
SKK 
(kg/m2) 
10 10 10 
1 Sậy Phramites vallatoria (L.) Veldk. 4,63 4,50 2,47 2,41 0,86 0,84 
2 Dương xỉ Cyclosorus parasiticus (L.) Farw 0,63 1,20 0,69 1,33 0,24 0,46 
3 Vác Cayratia trifolia (L.) Domino 0,38 0,90 0,34 0,82 0,12 0,28 
4 Cỏ 3 cạnh Scleria oblata S. T. Bl. 3,00 1,20 1,13 0,45 0,44 0,18 
5 Cỏ bắc Leersia hexandra Swartz. 0,63 0,90 0,28 0,40 0,10 0,14 
6 Dây choại Stenochlaena palustris (Burm. f.) Bedd 1,00 3,00 1,00 2,99 0,31 0,94 
7 Năng kim Eleochais ochrostchvs Stend 0,13 0,40 0,14 0,44 0,04 0,14 
8 Năng ngọt Eleochais dulcis (Burm. F.) Hensch 0,38 0,30 0,58 0,46 0,22 0,17 
9 Bòng bong dịu Lygodium scandens (L.) Sw. In Schrad 0,38 0,10 0,27 0,07 0,10 0,03 
10 Bòng bong leo Lygodium flexnosum (L.) Sw. 0,13 0,20 0,10 0,15 0,04 0,06 
Trung bình 1,13 1,27 0,70 0,95 2,47 3,24 
* SKT: Sinh khối tươi tầng cây bụi; SKK: Sinh khối khô tầng cây bụi
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần A (2017): 58-65 
 64 
3.1.4 Kết quả khả năng hấp thụ CO2 của 
rừng tràm 
Kết quả nghiên cứu ở Bảng 4 thể hiện sinh khối 
cây tràm đóng vai trò chủ đạo trong việc tích lũy 
cacbon của cả rừng tràm (cây tràm chiếm 97,35% 
đối với rừng nhỏ hơn 10 tuổi và 97,32% đối với 
rừng lớn hơn 10 tuổi); trong khi tầng vật rụng 
chiếm 0,45% và 0,37%, tầng cây bụi chiếm 2,20% 
và 2,31%. 
Trữ lượng cacbon tích lũy của rừng tràm tăng 
theo độ tuổi, giá trị cacbon ở rừng nhỏ hơn 10 tuổi 
(54,60 tấn/ha) thấp hơn rừng lớn hơn 10 tuổi 
(68,13 tấn/ha), tương ứng với lượng CO2 hấp thụ 
lần lượt là 200 tấn/ha và 250 tấn/ha. Đối với tầng 
vật rụng, khả năng hấp thụ CO2 ở lâm phần nhỏ 
hơn 10 tuổi và lớn hơn 10 tuổi lần lượt là 0,92 
tấn/ha và 0,95 tấn/ha. Giá trị hàm lượng CO2 tầng 
cây bụi ở hai cấp tuổi hấp thụ được tương ứng lần 
lượt là 4,53 tấn/ha và 5,94 tấn/ha. 
Bảng 4: Kết quả sinh khối, lượng cacbon tích lũy và CO2 hấp thụ theo hai cấp tuổi 
Tuổi rừng Thành phần SKK (tấn/ha) Cacbon (tấn/ha) CO2 (tấn/ha) 
< 10 tuổi 
Cây tràm 109,15 54,6 200 
Tầng vật rụng 0,5 0,25 0,92 
Tầng cây bụi 2,47 1,24 4,53 
>10 tuổi 
Cây tràm 136,22 68,13 250 
Tầng vật rụng 0,52 0,26 0,95 
Tầng cây bụi 3,24 1,62 5,94 
*SKK: sinh khối khô 
Kết quả ghi nhận giá trị cacbon tích lũy tại 
KBTTN Lung Ngọc Hoàng cao hơn so với các 
nghiên cứu tiến hành ở vùng miền Bắc nước ta 
(Đặng Thịnh Triều, 2008; Mai Sỹ Tuấn và Nguyễn 
Thị Hồng Hạnh, 2009). Điều này có thể được giải 
thích do sự khác biệt về điều kiện ánh sáng tại các 
vùng nghiên cứu, bởi cây xanh hấp thụ CO2 tạo 
sinh khối thông qua quá trình quang hợp dưới tác 
động của ánh sáng mặt trời. Theo Tổng cục Thống 
kê Việt Nam (2013), khu vực ĐBSCL (trạm quan 
trắc Cà Mau) có tổng số giờ nắng khoảng 1.987 
giờ/năm, cao hơn ở Đồng bằng sông Hồng (trạm 
quan trắc Vĩnh Phúc) có tổng số giờ nắng khoảng 
1.219,6 giờ/năm. Mặt khác, rừng Tràm KBTTN 
Lung Ngọc Hoàng sinh trưởng trên đất phèn thuộc 
vùng trũng sông Hậu. Theo Dương Thanh Nhã và 
ctv. (2010), đất phèn vùng trũng sông Hậu có điều 
kiện tích tụ chất hữu cơ cao hơn các vùng phèn 
khác ở ĐBSCL do có độ dày tầng A (tầng đất mặt 
sậm màu hơn tầng bên dưới do tích lũy nhiều mùn, 
chất hữu cơ đã phân hủy) là cao nhất (33,40 cm) 
trong các vùng khảo sát. Ánh sáng đầy đủ và dinh 
dưỡng tốt đã tạo điều kiện cho cây tràm ở Khu bảo 
tồn phát triển mạnh về kích thước, dẫn đến hàm 
lượng cacbon tích lũy cao hơn so với thí nghiệm ở 
các vùng địa hình khác. 
4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 
4.1 Kết luận 
Khả năng hấp thụ CO2 của cây tràm gắn liền 
với sự tăng trưởng về sinh khối của cây. Trung 
bình một hecta lâm phần tràm ở cấp tuổi nhỏ hơn 
10 cung cấp 109,15 tấn sinh khối khô, khả năng 
hấp thụ 200 tấn CO2/ha; lâm phần tràm ở cấp tuổi 
lớn hơn 10 cung cấp 136,22 tấn sinh khối khô, khả 
năng hấp thụ 250 tấn CO2. Tầng thực vật dưới tán 
tràm ghi nhận sự hiện diện của 10 loài thực vật, 
trong đó sậy (Phragmites vallatoria (L.) Veldk) và 
choại (Stenochlaena palustris (Burm. f.) Bedd) là 
những loài chiếm ưu thế. Hàm lượng CO2 tầng cây 
bụi hấp thụ được ở cấp nhỏ hơn 10 tuổi và lớn 10 
tuổi lần lượt là 4,53 tấn CO2 và 5,94 tấn CO2/ha. 
Kết quả của đề tài là cơ sở ban đầu cho các nhà 
quản lý rừng thực hiện công tác chi trả dịch vụ môi 
trường, góp phần hoàn thiện bản đồ cơ chế phát 
triển sạch và đề xuất các phương thức phát triển ổn 
định rừng tràm. 
4.2 Đề xuất 
Tiếp tục làm rõ hàm lượng cacbon tích lũy của 
đất, ảnh hưởng của độ sâu ngập đến sinh khối cây 
tràm. 
Nghiên cứu bổ sung về các loài thực vật khác 
nhau, nhằm xây dựng bảng tra cứu về khả năng hấp 
thụ CO2 của các loài trên những lập điạ khác nhau 
ở các địa phương khác nhau, từ đó xây dựng cơ sở 
dữ liệu cho các đối tượng khi xây dựng các dự án 
cơ chế phát triển sạch. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Clough, B., D.T.Tan, D.X. Phuong and D.C. Buu, 
2000. Canopy leaf area index and litter fall in 
stands of the Mangrove Rhizophora apiculate of 
different age in the Mekong Delta, Vietnam. 
Aquatic Botany (66:4): 311-320. 
Đặng Thịnh Triều, 2008. Khả năng hấp thụ cacbon 
của rừng thông mã vĩ (Pinus massoniana 
Lambert) trồng thuần loài trên các cấp đất khác 
nhau tại vùng Đông Bắc Việt Nam. Tạp chí 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần A (2017): 58-65 
 65 
Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, (2008:11): 
94-99. 
Dương Thanh Nhã, Ngô Ngọc Hưng, Lê Văn Phát, 
Võ Quang Minh và Lê Quang Trí, 2010. Một số 
đặc điểm hình thái phẫu diện của đất phèn ở 
Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí khoa học 
Trường Đại học Cần Thơ (2010:14): 243-249. 
IPCC, 2003. Good practice guidance for land use, 
Land-use change and forestry. Edited by Jim 
Penman, Michael Gytarsky, Taka Hiraishi, 
Thelma Krug, Dina Kruger, Riitta Pipatti, 
Leandro Buendia, Kyoko Miwa, Todd Ngara, 
Kiyoto Tanabe and Fabian Wagner. Institute for 
Global Environmental Strategies (IGES) for the 
IPCC, Kanagawa—Japan, 590 p. 
Lê Bá Toàn, 2009. Đặc điểm lâm sinh học và biện 
pháp kinh doanh rừng tràm bản địa và rừng tràm 
Vườn Quốc gia U Minh Thượng, Kiên Giang. In 
trong Kỷ yếu hội thảo quốc gia "Bảo tồn và phát 
triển bền vững vườn quốc gia U Minh Thượng", 
biên tập Chu Văn Cương, Lương Thanh Hải, 
Lương Trường Giang. Nxb. Nông nghiệp (2011), 
160 trang. 
Lê Minh Lộc, 2005. Phương pháp đánh giá nhanh 
sinh khối và ảnh hưởng của độ sâu ngập lên sinh 
khối rừng tràm (Melaleuca cajuputi) trên đất than 
bùn và đất phèn khu vực U Minh Hạ tỉnh Cà 
Mau. Luận văn Thạc sĩ Trường Đại học Cần 
Thơ, thành phố Cần Thơ. 
Mai Sỹ Tuấn và Nguyễn Thị Hồng Hạnh, 2009. Khả 
năng tích lũy cacbon của rừng trang (Kandelia 
obovata Sheue) trồng ven biển huyện Giao Thủy, 
tỉnh Nam Định. Tạp chí Sinh học (31:2):57-65. 
Nguyễn Thị Thanh Trúc và Lê Anh Tuấn, 2015. Ước 
lượng khả năng hấp thụ CO2 của cây dừa qua 
sinh khối tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. 
Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Phần 
Môi trường 2015(2015): 193-199. 
Nguyễn Xuân Đặng, Phạm Trọng Ảnh, Nguyễn Văn 
Sáng, Nguyễn Minh Tâm, Lê Xuân Huệ, Đặng 
Thị Đáp, Trần Triết, Bùi Hữu Mạnh, Nguyễn 
Phúc Bảo Hòa, Benjamin Hayes, Bryan Stuart, 
2004. Đa dạng sinh học Vườn Quốc gia U Minh 
Thượng, Việt Nam. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 
TP. Hồ Chí Minh. 
Perry, 1982. The ecology of tree roots and the 
practical significance thereof. Journal of 
Arboriculture, 8:197 -211. 
Phạm Tuấn Anh, 2007. Dự báo năng lực hấp thụ 
CO2 của rừng tự nhiên lá rộng thường xanh tại 
huyện Tuy Đức, tỉnh Dăk Nông. Luận Văn Thạc 
Sĩ Khoa học lâm nghiệp, Trường Đại học Lâm 
Nghiệp. 
Phạm Xuân Quý, 2010a. Xây dựng biểu cấp đất rừng 
tràm (Melaleuca cajuputi) ở khu vực Tây Nam 
Bộ. Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển nông thôn 
(2010:4):103-108. 
Phạm Xuân Quý, 2010b. Xây dựng mô hình dự đoán 
sinh khối rừng tràm (Melaleuca cajuputi) ở khu 
vực Tây Nam Bộ. Tạp chí Nông nghiệp & Phát 
triển nông thôn (2010:5):36-46. 
Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2013. Tổng số giờ 
nắng tại một số trạm quan trắc. 
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=713, 
truy cập ngày 15/6/2015. 
Tran B. Da, Paul Dargusch, Patrick Moss, Hoang V. 
Tho, 2012. An assessment of potential responses 
of Melaleuca genus to global climate change. 
Mitigation and Adaptation Strategies for Global 
Change, (2013, 8:6): 851–867. 
Trần Thị Kim Hồng, Quách Trường Xuân, Lê Thị 
Ngọc Hằng, 2015. Sinh khối rừng tràm Vườn 
Quốc gia U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang. Tạp 
chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 
37(2015): 63-68. 
Trương Hoàng Đan, Lê Hoàng Tất và Bùi Trường 
Thọ, 2014. Đánh giá lượng cacbon tích lũy của 
sinh khối rừng tràm trên nền đất sét tại Vườn 
Quốc gia U Minh Thượng. Tạp chí khoa học 
Trường Đại học Cần Thơ, 31(2014):125 – 135. 
Vũ Tấn Phương và Võ Đại Hải, 2011. Cấu trúc sinh 
khối của rừng thông ba lá thuần loại tại Lâm 
Đồng. Tạp chí khoa học Lâm nghiệp, 2:1812 – 
1827. 
Vũ Tiến Hinh, 2003. Sản lượng rừng. Giáo trình 
Trường Đại học Lâm nghiệp, Hà Nội. 
UN-REDD Viet Nam Programme, 2012. Guidelines 
on Destructive Measurement for Forest Biomass 
Estimation. Version for Technical Staff Use, 35p.

File đính kèm:

  • pdfsinh_khoi_va_kha_nang_hap_thu_co2_cua_rung_tram_khu_bao_ton.pdf