Sinh học phân tử của Human papillomavirus và các ứng dụng

Vi rút HPV (Human papillomavi rus) được nhắc đến như một tác nhân gây tổn thương biểu mô ở- Cả nam và nữ, nổi bật nhất trong số đó là nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung (UTCTC). Mặc dù đã được phân lập từ năm 1933 bởi Richarch Shope nhưng mãi đến 1976 khi Harald Zur Hausen tìm thấy mối liên quan giữa vi rút HPV và UTCTC thì một kỷ nguyên mới cho việc tầm soát, phát hiện sớm và theo dõi điều trị hiệu quả ung thư này được mở ra

pdf 8 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Sinh học phân tử của Human papillomavirus và các ứng dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sinh học phân tử của Human papillomavirus và các ứng dụng

Sinh học phân tử của Human papillomavirus và các ứng dụng
26
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
SINH HỌC PHÂN TỬ CỦA 
HUMAN PAPILLOMAVIRUS 
VÀ CÁC ỨNG DỤNG
PHẠM HỒ THÚY ÁI *, BÙI CHÍ THƯƠNG**
* BS. Bệnh viện Từ Dũ. DĐ: 0918093412. Email: [email protected]
** TS.BS Bộ môn Sản ĐHYD TPHCM. DĐ: 0913124604. Email: [email protected]
Vi rút HPV (Human papillomavi-rus) được nhắc đến như một tác nhân gây tổn thương biểu mô ở 
cả nam và nữ, nổi bật nhất trong số đó 
là nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử 
cung (UTCTC). Mặc dù đã được phân lập 
từ năm 1933 bởi Richarch Shope nhưng 
mãi đến 1976 khi Harald Zur Hausen tìm 
thấy mối liên quan giữa vi rút HPV và 
UTCTC thì một kỷ nguyên mới cho việc 
tầm soát, phát hiện sớm và theo dõi điều 
trị hiệu quả ung thư này được mở ra. 
1. SINH HỌC PHÂN TỬ 
Theo Ủy ban quốc tế về phân loại vi 
rút (ICTV), trước năm 2001, HPV được 
xếp vào nhóm Papillomavirus thuộc họ 
Papovaviridae nhưng sau đó do số lượng 
tuýp ngày một tăng lên nên Papilloma-
virus được tách ra làm phân nhóm riêng 
và HPV là một trong những vi rút thuộc 
họ này. Papillomavirus có từ 120 đến 150 
tuýp HPV, trong số đó 69 tuýp HPV được 
tìm thấy ở người, các tuýp còn lại tìm thấy 
ở chim và các loài bò sát, một số tuýp vẫn 
chưa xác định được 1. 
Song song với sự phát triển của ngành 
sinh học phân tử cũng như dịch tễ học, số 
tuýp HPV được phát hiện ngày một tăng 
lên. Đến tháng 3 năm 2015, Trung tâm 
tham khảo HPV quốc tế đưa ra 200 tuýp 
HPV khác nhau chia làm 49 phân nhóm ở 
người và 131 tuýp HPV từ 66 phân nhóm 
ở động vật 5. Mặc dù HPV được tìm thấy 
ở nhiều nơi không có sự hiện diện của lớp 
biểu mô như máu, tinh trùng, bánh nhau 
nhưng hàng loạt nghiên cứu chỉ thấy mối 
liên quan mạnh mẽ giữa nhiễm HPV với 
tiền ung thư và UTCTC 11.
Hiện tại các tuýp HPV phụ thuộc vào 5 
chi Papillomavirus là: alpha- papillomavi-
rus (α-PV), beta-papillomavirus (β-PV), 
gama-papillomavirus (γ-PV), mu- papil-
lomavirus (µ-PV), nu- papillomavirus (ʋ-
PV). Trong số đó, α-PV chủ yếu gây bệnh 
ở niêm mạc, β-PV chủ yếu gây bệnh ở da, 
các nhánh còn lại có thể đơn độc hoặc kết 
hợp gây bệnh ở khắp các vùng trong cơ 
thể như da, hậu môn-sinh dục, miệng 5. 
Trong vài năm tới đây các tuýp HPV khác 
sẽ được giải trình tự và công nhận, giúp 
các nhà sinh học và lâm sàng thêm nhiều 
công cụ để định danh và phát hiện HPV 
trong tương lai. 
Cấu trúc HPV không có vỏ bao, đường 
kính khoảng 55nm được bao quanh bởi 
các capsid. Mỗi capsid chứa 72 đơn vị 
protein gọi là capsomer, tạo nên bởi pro-
tein chính L1 (trọng lượng phân tử 54-
58kDa) và một protein phụ L2 (trọng 
lượng phân tử 68-76kDa) 8. Chính cấu 
trúc khác biệt này mà vi rút HPV rất khó 
27
THÔNG TIN CẬP NHẬT
phát triển trong điều kiện nuôi cấy của 
phòng thí nghiệm, chúng được định danh 
căn cứ vào sự hiện diện của Nucleic Acid. 
Khả năng tồn tại của HPV rất lâu ở nhiệt 
độ -200C mà không bị giảm hoạt tính 5. 
Các tính chất này của vi rút được lưu ý 
trong các xét nghiệm cũng như quá trình 
bảo quản mẫu HPV. 
Trong các tuýp HPV nguy cơ cao sinh 
ung thư thì gen E6 đặc biệt được lưu ý 
bởi vì protein được mã hóa từ gen E6 
gồm 151 acid amin với 4 cấu trúc Cys-
X-X-Cys có khả năng gắn với bảng điều 
hòa dịch mã và gây nhiều tác hại cho tế 
bào ký chủ. Chủ yếu là protein E6 sẽ gắn 
kết với protein p53, là một protein ức chế 
sinh ung, làm bất hoạt protein này sẽ làm 
giảm khả năng ức chế khối u của p53. 
Đồng thời kết hợp với protein E7 tăng 
kích thích tế bào chủ phân bào mạnh 
mẽ và liên tục tạo nên một sự tăng sinh 
không có điểm dừng là một đặc tính dẫn 
đến tử vong của bệnh ung thư 5. 
Gen E7 có cấu trúc tương tự gen E6 
nhưng chỉ gồm 98 acid amin, được liên 
kết chặt chẽ với gen E6, tương tác hỗ trợ 
lẫn nhau trong quá trình bất tử hóa tế 
bào ký chủ. Gen này liên kết với tế bào 
ký chủ thông qua liên kết protein-ribo-
some (pRB) khác với gen E6 là liên kết 
thông qua protein p53 nhưng đều cùng 
chung một tác động là ức chế khối u. Đối 
với những tuýp nguy cơ cao ái lực liên 
kết pRB mạnh gấp 10 lần so với các tuýp 
nguy cơ thấp 6.
Ngoài ra các gen E1 giúp cho hoạt 
động tháo xoắn không phụ thuộc ATP 
rất cần thiết cho sự sao chép của vi rút. 
Gen E4 trợ giúp cho sự trưởng thành 
và phóng thích HPV ra khỏi tế bào mà 
không làm tiêu hủy tế bào ký chủ. Bên 
cạnh đó gen E5 sẽ ngăn chặn sự chết 
theo chương trình khi có sự sai sót do 
DNA của vi rút gây ra. Sau nhiễm trùng 
tiên phát, bộ gen HPV vẫn được duy trì. 
Trong UTCTC, HPV DNA thường gắn 
kết vào DNA của ký chủ tại hai vị trí E1 
và E2. Sự chèn DNA vi rút vào bộ gen 
của vật chủ thường làm gián đoạn gen 
E2 sẽ ảnh hưởng đến sự ức chế biểu hiện 
protein của hai gen sinh ung E6, E7 8.
Hình 1.1. Cấu tạo vỏ ngoài và lõi vi rút HPV
Nguồn: Gerardo SL, Luis MD, Julio RL (2015). General 
aspects of structure, classification and replication of human 
papillomavirus. Research Gate, 53(2), pp. 166-171.
Vật liệu di truyền của HPV gồm hai chuỗi 
xoắn kép DNA, 6 gen biểu thị sớm (E1, E2, 
E4, E5, E6, E7) và 2 gen biểu thị trễ (L1 và 
L2). Các gen E mã hóa cho các protein tham 
gia vào quá trình sao chép của siêu vi. Bên 
cạnh đó, các gen L mã hóa tổng hợp protein 
vỏ của siêu vi và có độ bảo tồn cao giữa các 
chủng siêu vi khác nhau, trong 2 vùng này 
thì chỉ có vùng L2 là được phosphoryl hóa 
cao và có khả năng gắn với DNA ký chủ 8. 
Hình 1.2. Cấu trúc bộ gen và vòng đời vi rút HPV
 Nguồn: Alison A, McBride Karl Müngern 
(2018). Expert Views on HPV Infection. Viruses, 10(2), 94.
 Trong số các gen sớm thì gen E2 là nhân 
tố quan trọng trong quá trình phiên mã tế 
bào bằng cách ức chế sự biểu hiện của pro-
tein E6, E7 6. 
28
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
định kỳ cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV chung 
là 14,7%; tỷ lệ nhiễm riêng các tuýp 16,18 
và các tuýp nguy cơ cao còn lại lần lượt là 
2,7%, 0,8% và 11,2% 14.
2. ỨNG DỤNG TRONG XÉT 
NGHIỆM TÌM HPV
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều loại 
xét nghiệm HPV dựa trên cấu trúc sinh học 
phân tử của Human Papillomavirus: HPV 
DNA, HPV RNA, HPV protein, Cellular 
protein, FISH. Mỗi xét nghiệm đều có ưu 
khuyết điểm khác nhau nhưng thông dụng 
nhất vẫn là xét nghiệm HPV DNA.
Như chúng ta đã đề cập đến ở phần 1.1, 
dựa vào các cấu trúc DNA vỏ của HPV bao 
gồm gen L1 và E1 hoặc toàn bộ gen để xác 
định sự có mặt DNA của vi rút trong mẫu 
thử. Đi tiên phong trong lĩnh vực này là xét 
nghiệm Amplicor (Roche), xét nghiệm định 
tính 13hr nguy cơ cao dựa trên sự phát hiện 
gen L1 tổng hợp protein của vỏ vi rút. Phát 
triển hơn nữa là xét nghiệm HPV Cobas4800 
(Roche) cũng dựa trên cơ sở phát hiện gen L1 
nhưng định danh phân nhóm tuýp 16, 18 và 
một nhóm gồm 12 tuýp nguy cơ cao còn lại 
bao gồm 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 
66, 68. Xét nghiệm này đã được sử dụng trong 
một nghiên cứu rất lớn tại Mỹ là nghiên cứu 
ATHENA với cỡ mẫu 42.208 phụ nữ được 
làm tế bào học và HPV DNA và 180.811 mẫu 
xét nghiệm đã được phân tích trong 3 năm 15. 
Từ nghiên cứu quy mô lớn này, tháng 4/2014 
FDA đã phê duyệt xét nghiệm Cobas® HPV là 
xét nghiệm tầm soát UTCTC đầu tay tại Mỹ 
và cũng là xét nghiệm duy nhất được FDA 
công nhận là xét nghiệm tầm soát UTCTC 
đầu tay. Hướng dẫn được soạn thảo bởi Hiệp 
hội soi cổ tử cung và bệnh lý cổ tử cung Hoa 
Kỳ (ASCCP) và Hiệp hội Ung bướu phụ khoa 
(SGO) cùng đại diện của 5 Hiệp hội Y khoa 
khác của Hoa Kỳ. Tháng 8/2015, các Hiệp hội 
này đã đưa ra hướng dẫn: Xét nghiệm Cobas® 
HPV là xét nghiệm đầu tay tầm soát UTCTC 
cho những phụ nữ bắt đầu từ 25 tuổi được 
Hình 1.3. Cấu trúc bộ gen vi rút HPV tuýp 16 (A. Chuỗi 
DNA đôi. B. Giải trình tự gen)
Nguồn: Il-Seok Park et al (2011). Characterization of the 
Methylation Patterns in Human Papillomavirus Type 16 
Viral DNA in Head and Neck Cancers. American associa-
tion for cancer research, 4(2), pp. 207-217. 
Tất cả đều dựa vào kỹ thuật sinh học phân 
tử để phân định tuýp, chủ yếu là sự khác biệt 
ở vùng gen E6, E7, L1, sự khác biệt này nếu 
hơn 10% so với tuýp đã biết trước là có thể 
định một tuýp mới 5. Theo nghiên cứu mới 
nhất tháng 4 năm 2018 của tác giả Nedjai đưa 
ra giả thuyết về mô hình “chuyển đổi phân 
tử” bằng sự methyl hóa gen EPB41L3 và 
các vùng cụ thể HPV16-L1/L2, HPV18-L2, 
HPV31-L1 và HPV33-L2 ở những trường 
hợp CIN3, sự methyl hóa này rất khác biệt 
so với CIN1 và từ một biểu mô bình thường 
tiến triển thành CIN1 rồi đến CIN3 đều bị 
tác động cùng một týp HPV 10. 
HPV được chia thành hai nhóm: nguy cơ 
cao và nguy cơ thấp dựa vào khả năng gây 
ung thư của chúng. Nhóm nguy cơ cao có 
mặt trong hơn 90% các trường hợp UTCTC 
bao gồm các tuýp: 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 
51, 52, 56, 58, 59, 66, 68, 82. Trái lại, nhóm 
nguy cơ thấp bao gồm các tuýp: 6, 11, 40, 42, 
43, 44, 53, 54, 57, 61, 62, 72, 81, 83 lại rất hiếm 
gặp trong các trường hợp ung thư này 13. 
Nhóm nguy cơ cao có khả năng sinh học 
đặc biệt là khi xâm nhập vào tế bào chúng sẽ 
kết hợp một cách ổn định với bộ gen của tế bào 
đó để tồn tại và phát triển 8. Trong đó 2 tuýt 16 
và 18 chiếm tỷ lệ sinh ung cao nhất, hơn 70% 
còn lại chia đều cho các týp khác, có khoảng 
4.4% chưa xác định được nguyên nhân 9.
Ghi nhận một nghiên cứu mới nhất được 
công bố tại Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2018, 
khảo sát trên 33.858 phụ nữ đi tầm soát 
29
THÔNG TIN CẬP NHẬT
xem như thay thế phương pháp hiện nay của 
Hoa Kỳ dựa trên tế bào học 4. 
Xét nghiệm Cobas® HPV bao gồm máy 
cobasx480 và máy phân tích cobas z480. Nó 
có tính năng khai thác acid nucleic hoàn toàn 
tự động kết hợp với công nghệ Real-time 
PCR. Khác biệt đối với các xét nghiệm HPV 
DNA khác là có chứng của beta-globulin của 
người khi không phát hiện được Globulin 
miễn dịch thì xét nghiệm phân loại là không 
hợp lệ, việc xử lý DNA beta-globulin còn có 
chức năng kiểm soát các mẫu vật âm tính là 
do thiếu tế bào hay có mặt các chất ức chế 
PCR trong mẫu xét nghiệm.
Các kỹ thuật xét nghiệm HPV DNA bao 
gồm: PCR (polymerase chain reaction), 
phương pháp lai tạo (Hybrid Capture), Re-
al-Time PCR (là kỹ thuật PCR khuếch đại 
DNA đích hiển thị được ngay sau mỗi chu 
kỳ nhiệt của phản ứng). 
Nguyên tắc Real-time PCR là DNA được 
định lượng đúng thời điểm sau mỗi chu kỳ 
phản ứng, nhờ có các chất nhuộm phát huỳnh 
quang (fluorescent dye) gắn vào DNA mạch 
kép hoặc dùng mẫu dò DNA oligonucleotide 
được biến đổi để phát huỳnh quang khi lai 
với DNA bổ trợ. Chu trình chạy PCR được 
thiết kế bao gồm 18 primer và 13 probe có 
gắn huỳnh quang tối ưu cho các màu FAM, 
HEX, JA270, và CY5.5 trên hệ thống Z480. 
Trong đó, FAM dùng để chỉ thị cho nhóm 12 
tuýp 31; 33; 35; 39; 45; 51; 52; 56; 58; 59; 66; 
68, HEX cho tuýp 16, JA270 cho tuýp 18, và 
CY5.5 chỉ thị cho những mẫu âm tính với 14 
tuýp HPV nguy cơ cao đã nêu trên. Dựa vào 
biểu đồ khuếch đại và màu sắc đã được cài đặt 
cho từng nhóm tuýp HPV mà người xét ng-
hiệm phân tích được kết quả mẫu âm tính hay 
dương tính. Trong trường hợp dương tính, hệ 
thống Cobas® 4800 sẽ chỉ rõ là dương từ 1 đến 
3 nhóm tuýp HPV nguy cơ cao: 16, 18, hay 
một hoặc nhiều tuýp trong nhóm 12 tuýp (31, 
33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66, 68). 
Phương pháp PCR có ưu điểm là độ nhạy 
cao, lượng mẫu nhỏ chỉ cần có một đoạn 
DNA là có thể khuếch đại để chẩn đoán, 
nhưng cũng có nhược điểm là có thể xảy ra 
dương tính giả. Để hạn chế vấn đề này, các 
xét nghiệm có thêm chứng nội (Cobas), bộ 
dụng cụ (kit) riêng biệt cho từng xét nghiệm 
và chúng ta cần tuân thủ đúng quy trình kỹ 
thuật lấy mẫu bảo quản và vận chuyển mẫu để 
tránh lây nhiễm chéo. Kỹ thuật PCR dựa trên 
sự kết hợp hai đoạn oligonucleotic mồi vào 
các chuỗi DNA bổ sung tín hiệu được khuếch 
đại lên bằng các chu kỳ nhiệt. Mỗi chu kỳ có 3 
giai đoạn nhiệt độ: đầu tiên là 940C làm biến 
tính DNA thành sợi đơn, sau đó nhiệt độ sẽ 
được giảm xuống 55-650C để các đoạn mồi 
bắt cặp vào hai đầu sợi đơn, và cuối cùng men 
polymerase dưới tác động của nhiệt độ 720C 
sẽ kéo dài các nucleotic lại với nhau tổng hợp 
sợi bổ sung. Mỗi chu kỳ thành công sẽ làm 
tăng gấp đôi sợi DNA. Nhờ sự lai dắt với các 
đầu dò oligonucleotic được đánh dấu sẽ định 
danh được các DNA của các tuýp HPV 7. 
Dưới thời đại của sinh học phân tử, các kỹ 
thuật ngày càng đi sâu hơn vào cấu trúc nhân 
của vi rút để tăng độ đặc hiệu cho xét nghiệm, 
từ đó các xét nghiệm tìm mRNA ra đời dựa 
vào phát hiện gen E6-E7 mRNA mã hóa cho 
các protein tham gia vào quá trình sao chép 
của siêu vi. Sản phẩm của gen E6-E7 giữ vai 
trò làm thay đổi hình dạng tế bào, protein E6 
kết hợp và bất hoạt động ngăn chặn ung thư 
của gen p53. Do vậy, khi phát hiện gen E6-E7 
có nghĩa là có hiện tượng sao chép gen và vi 
rút đã tấn công vào tế bào ký chủ, có khả năng 
gây biến đổi tế bào chứ không chỉ nhiễm đơn 
thuần 5. Đại diện cho phương pháp này là 
xét nghiệm Aptima HPV nhưng theo nghiên 
cứu của Castle (2015) thì Aptima và Cobas 
đều nhạy với chẩn đoán CIN2+ và sự phân 
tầng nguy cơ nhiễm HPV là như nhau, hệ số 
Kappa là 90,9% nhưng Aptima có độ đặc hiệu 
tăng nhẹ 63,1% so với 59,3%, P≤0,001 2.
Trong một nghiên cứu có 5 xét nghiệm 
HPV được chấp nhận trên lâm sàng HC2, 
Abbott RealTime HR-HPV (Abbott Molec-
ular, Des Plaines, IL, USA), Cobas 4800HPV 
30
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
(Roche Molecular Diagnostics, Pleasanton, 
CA, USA), Aptima HPV (Hologic Inc., Bed-
ford, MA, USA) và Cervista HPV HR (Ho-
logic Bedford, MA, USA) có xét nghiệm 
HPV (+) sau điều trị dao động từ 18% đến 
 Cobas Digene Cervista APTIMA 
 HPV HC2 HP HPV HPV 
Phát hiện HPV DNA + + + 0
Chứng nội + 0 + 0
Không có phản ứng chéo + 0 0 0
Lượng mẫu nhỏ 1ml + 0 0 +
14 tuýp nguy cơ cao + 0 + +
3 kết quả trong 1 xét nghiệm + 0 0 0
Bảng 2.1 So sánh các phương pháp xét nghiệm HPV 12
Bảng 2.2 Các xét nghiệm HPV 13
Dấu ấn Tên xét nghiệm Nhà sản xuất Phân tử đích Týp HP Định danh Kỹ thuật
Amplicor
Care HPV
Cervista
CLART
COBAS4800
eHC
HC2
HPV QUAD
Infinity HPV
InnoLiPA
Linear Array
Multiplex HPV
Papilocheck
RT HPV
Aptima
EasyQ HPV
OncoTect
Pretect Proofer
E6 protein
Cytoectiv
CINtec plus
ProExC
oncoFISH
Roche
QIAGEN
Hologic
Genomica
Roche
QIAGEN
QIAGEN
Autogenomics
Autogenomics
Innogenetic
Roche
Multimetrix
Greiner
Abbott
genProbe
BioMerieux
Invirion
Arbor Vitae
Cytoimmun
Mtm Laboratories
Becton Dickinson
ikinisys
L1
Gen
L1
L1
L1
Gen
Gen
E1
E1
L1
L1
L1
E1
L1
E6/E7mRNA
E6/E7mRNA
E6/E7mRNA
E6/E7mRNA
E6
L1
P16/Ki-67
MCM2/TopA
3q/TERC
13HR
13HR+66
13HR+66
13HR+ 22LR
13HR+66
13HR+66+82
13HR+66
13HR+66
13HR+13LR
13HR+15LR
13HR+24LR
13HR+11LR
13HR+11LR
13HR+66
13HR+66
16,18,31,33,45
13HR
16,18,31,33,45
16,18,45
HR không đặc 
hiệu
n/a
n/a
n/a
Không
Không
16,18,12HR
Có
16,18,12HR
16,18,45
Không
16,18,31,33,45
Có
Có
Có
Có
Có
16,18,12HR
Không
Có
n/a
có
n/a
n/a
n/a
n/a
n/a
PCR
Lai tạo
Lai tạo
PCR
RT-PCR
Lai tạo
Lai tạo
PCR
PCR
PCR
PCR
PCR
PCR
RT-PCR
TMA
NASBA
Lai tạo
NASBA
XN miễn dịch
Tiêm chủng 
miễn dịch
Tiêm chủng 
miễn dịch
FISH
HPV DNA
HPV RNA
Cellular
protein
HPV 
protein
FISH
27% tùy xét nghiệm 3. Trong số đó thì xét 
nghiệm HC2 và HPV Aptima có tỷ lệ dương 
tính thấp hơn (P <0.0001), xét nghiệm Co-
bas và Cervista có tỷ lệ dương tính cao hơn 
(P = 0.0001 và P = 0.0009, tương ứng) 12.
Đa phần các xét nghiệm HPV được sử 
dụng rộng rãi trong lĩnh vực tầm soát và theo 
dõi bệnh lý CTC đều hướng đến các tuýp 
nguy cơ cao có khả năng gây ung thư, một 
số ít xét nghiệm HPV không phổ biến khác 
sẽ định luôn các tuýp nguy cơ thấp gây mụn 
cóc sinh dục. Bên cạnh đó còn có những xét 
nghiệm về miễn dịch đang được nghiên cứu 
và phát triển. Lựa chọn phương pháp xét ng-
hiệm nào dùng trong nghiên cứu tùy thuộc 
vào mục đích nghiên cứu, nguồn lực cơ sở và 
độ tin cậy của xét nghiệm.
31
THÔNG TIN CẬP NHẬT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bernard HU, Burk RD, Chen Z, van Doorslaer K, Zur Hausen H, (2010) “Papillomaviruses (PVs) based 
on 189 PV types and proposal of taxonom”, Virology, 401(1): 70-79.
2. Castle PE, Eaton B, Reid J (2015), “Comparison of human papillomavirus detection by Aptima HPV 
and cobas HPV tests in a population of women referred for colposcopy following detection of atypical 
squamous cells of undetermined significance by Pap cytology”, Journal of Clinical Microbiology, 53(4), 
pp. 1277-1278.
3. Cubie HA., Canham M., Moore C., Pedraza J. et al (2014), “Evaluation of commercial PV assays in 
the context of post-treatment follow-up: Scottish Test of Cure Study (STOCS-H)”, J. Clin. Pathol. 67, pp. 
458–463.
4. Huh W.K., Ault K.A., Chelmow D., et al (2015), “Use of primary high-risk human papillomavirus test-
ing for cervical cancer screening: Interim clinical guidance”, Obstet. Gynecol, 125, pp. 330–337.
5. Kocjan BJ, Bzhalava D, Forslund O, Dillner J, Poljak M (2015), “Molecular methods for identification 
and characterization of novel papillomavirus”, Lin Microbiol Infect, 21(9), pp. 808-816.
6. Lin K, Doolan k, Hung CF, Wu TC. (2010), “Perspective for preventive and therapeutic HPV vac-
cines”, J Formos Med Assoc, 109(1), pp. 4-24.
7. Miao C., Nicholas C., Momo L., Khanh T. (2014), “Clinical Performance of Roche Cobas 4800 HPV 
Test”, J Clin Microbiol, 52(6), pp. 2210–2211.
8. Moody CA, Laimins LA. (2010), “Human papillomavirus oncoproteins: pathways to transformation”, 
Nat Rev Cancer, 10(8), pp. 550-560.
9. Muñoz N, Bosch FX et al (2004), “Against which human papillomavirus types shall we vaccinate and 
screen?”, International journal of cancer, 111(2), pp. 278-285.
10. Nedjai B, Reuter C, Ahmad A, Banwait R, (2018), “Molecular progression to cervical precancer, 
epigenetic switch or sequential model?”, Int J Cancer, 2018 Apr 21, doi: 10.1002/ijc.31549. 
11. Niloofar N, Kimia K, Azam B (2018). “Natural history of HPV infections in cancer development”, 
HPV infection: Diagnosis, Prevention and Treatment, pp. 62-72.
12. Rebolj M, Preisler S., Ejegod D.M, et al (2014), “Disagreement between human papillomavirus 
assays: an unexpected challenge for the choice of an assay in primary cervical screening”, PLoS One 9, 
9(1), e86835.
13. Schiffman M, Wentzensen N et al (2011), “Human Papillomavirus Testing in the Prevention of Cervi-
cal Cancer”, Journal of the National Cancer Institute, 103(5), pp. 368–383.
14. Stoler MH, Wright TC Jr, Parvu V, Vaughan L, et al (2018), “The Onclarity Human Papillomavirus 
Trial: Design, methods, and baseline results”, Gynecol Oncol.149(3), pp. 498-505.
15. Wright TC, Stoler MH et al (2015), “Primary cervical cancer screening with human papillomavirus”: 
end of study results from the
32
33

File đính kèm:

  • pdfsinh_hoc_phan_tu_cua_human_papillomavirus_va_cac_ung_dung.pdf