Sarcoma mạch dạng biểu mô ở ruột
Giới thiệu: Sarcoma mạch là một khối u mô mềm hiếm gặp, hay xảy ra ở da và mô dưới da nhưng rất
hiếm ở ống tiêu hóa.
Thiết kế: Chúng tôi báo cáo 1 ca sarcoma mạch dạng biểu mô nhiều vi trí gồm ở lưỡi và ruột và xem xét
18 ca báo cáo về sarcoma mạch dạng biểu mô ở ruột.
Báo cáo trường hợp: Bệnh nhân của chúng tôi thiếu máu, đau bụng, đi ngoài phân đen, có khối sùi ở
gốc lưỡi. Sinh thiết khối sùi ở gốc lưỡi chẩn đoán là ung thư biểu mô vảy không sừng hóa. Sau đó nội soi tá
tràng có nhiều khối sùi. Sinh thiết khối sùi ở tá tràng chẩn đoán là ung thư biểu mô tuyến kém biệt hóa. Cuối
cùng bệnh phẩm mổ tá tràng ruột non ra kết quả sarcoma mạch dạng biểu mô.
Kết quả: Bệnh nhân được mổ phần ruột có khối u và truyền albumin, hồng cầu và điều trị hồi sức tích cực,
nhưng đã tử vong sau 4 tuần điều trị.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sarcoma mạch dạng biểu mô ở ruột
GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 211 SARCOMA MẠCH DẠNG BIỂU MÔ Ở RUỘT TẠ VĔN TỜ1, ĐÀO THỊ THÚY HẰNG2, TRẦN THỊ TƯƠI3 TÓM TẮT Giới thiệu: Sarcoma mạch là một khối u mô mềm hiếm gặp, hay xảy ra ở da và mô dưới da nhưng rất hiếm ở ống tiêu hóa. Thiết kế: Chúng tôi báo cáo 1 ca sarcoma mạch dạng biểu mô nhiều vi trí gồm ở lưỡi và ruột và xem xét 18 ca báo cáo về sarcoma mạch dạng biểu mô ở ruột. Báo cáo trường hợp: Bệnh nhân của chúng tôi thiếu máu, đau bụng, đi ngoài phân đen, có khối sùi ở gốc lưỡi. Sinh thiết khối sùi ở gốc lưỡi chẩn đoán là ung thư biểu mô vảy không sừng hóa. Sau đó nội soi tá tràng có nhiều khối sùi. Sinh thiết khối sùi ở tá tràng chẩn đoán là ung thư biểu mô tuyến kém biệt hóa. Cuối cùng bệnh phẩm mổ tá tràng ruột non ra kết quả sarcoma mạch dạng biểu mô. Kết quả: Bệnh nhân được mổ phần ruột có khối u và truyền albumin, hồng cầu và điều trị hồi sức tích cực, nhưng đã tử vong sau 4 tuần điều trị. Từ khóa: Sarcoma mạch dạng biểu mô, ruột. ASTRACT Bowels epitheliod angiosarcoma Background: Angiosarcoma is a rare soft-tissue neoplasm that occurs most often in the skin and the subcutaneous tissues but very rarely in the GI tract. Design: We report a case of multifocal epithelioid angiosarcoma involving tongue and bowel and review the 18 previously reported cases of epithelioid intestinal angiosarcoma. Case report: Our patient presented with anemia, blood in stool, stomachache, one small nodule was present on the base of the tongue. Biopsy specimens of tongue was diagnosed non-keratinized squamous carcinoma. Enteroscopy revealed small nodules in the duodenum. Biopsy specimens of duodenum was diagnosed poorly differentiated adenocarcinoma. Excision specimens of duodenum and small intestine showed epithelioid angiosarcoma. Results: Patients were operated on the intestine with tumors and albumin infusion, red blood cell and active resuscitation treatment, but died after 4 weeks of treatment. Key works: Bowel epithelial angiosarcoma, intestine. 1 PGS.TS. Trung tâm Giải phẫu bệnh - Sinh học phân tử - Bệnh viện K 2 ThS. Đại học Y Hà Nội 3 ThS. Trung tâm Giải phẫu bệnh - Sinh học phân tử - Bệnh viện K GIỚI THIỆU Sarcoma mạch là một khối u hiếm gặp, chiếm 1 đến 2% các loại sarcoma. Chúng hay gặp nhất ở da và mô dưới da, cơ sâu của chi dưới[7]. Trong ổ bụng sarcoma mạch thường gặp ở lách và gan nhưng rất hiếm ở dạ dày ruột. Sarcoma mạch có vài biến thể hình thái, gồm biệt hóa rõ dễ dàng nhận ra cấu trúc mạch, kém biệt hóa tương tự như những khối u không biệt hóa và dạng biểu mô gồm những mảng tế bào với bào tương rộng. Về hình thái, những khối u với dạng biểu mô đứng lan tỏa có thể nhầm lẫn với GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 212 ung thư biểu mô, u hắc tố ác tính, sarcoma cơ trơn dạng biểu mô[6,7]. Điều trị gồm phẫu thuật, thỉnh thoảng có hóa trị, dù vậy, tiên lượng rất tồi. Chúng tôi chẩn đoán một người đàn ông lớn tuổi với nhiều nốt ở ruột và lưỡi, bổ sung vào các báo cáo rất ít về sarcoma mạch dạng biểu mô ở ruột. CA BỆNH Bệnh nhân Vàng Vĕn T, nam, 60 tuổi. Số hồ sơ 183057105. Bệnh sử Một tháng trước khi vào viện, bệnh nhân mệt mỏi, đi ngoài phân đen, nuốt vướng vào viện khám thấy thiếu máu và có khối sùi chảy máu kích thước 2cm ở lưỡi, mảnh sinh thiết nhỏ ở lưỡi chẩn đoán là ung thư biểu mô vảy không sừng hóa. Xét nghiệm thấy Hb 56g/l (bình thường là 140-160g/l), Albumin máu 26,5g/l (bình thường là 38-51g/l). Bệnh nhân được vào viện cho truyền máu và albumin máu. Khi soi tá tràng thấy các nốt sùi nhỏ giống polyp, sinh thiết được chẩn đoán là ung thư biểu mô tuyến kém biệt hóa. Sau đó bệnh nhân đau bụng, chụp X Quang cho kết quả theo dõi lồng ruột, bệnh nhân được mổ cấp cứu, mổ ra thấy tá tràng và ruột non có nhiều polyp kích thước từ 1 đến 2cm, đại tràng không có polyp, bệnh phẩm mổ được làm giải phẫu bệnh (Hình 1). Sau các lần truyền máu và albumin hồng cầu và albumin của bệnh nhân tĕng lên, nhưng sau đó lại xuống thấp, kèm theo đó là bệnh nhân xuất hiện thêm giảm canxi máu (canxi máu toàn phần của bệnh nhân là 1,65mmol/l, bình thường là 2,15-2,55mmol/l), rối loạn đường huyết, điện giải (ban đầu rối loạn Natri, sau đó đến Kali). Bệnh nhân tử vong sau khi vào viện 1 tháng, dù được điều trị hồi sức tích cực. Hình 1. Hình ảnh đại thể: Nhiều polyp kích thước từ 1 đến 2cm. Kết quả giải phẫu bệnh Trên mảnh sinh thiết rất bé ở khối sùi ở lưỡi thấy các tế bào dạng biểu mô nhân lớn, chất nhiễm sắc thô, hạt nhân lớn, nhân chia nhiều đứng thành đám, ngay dưới biểu mô vảy nên chẩn đoán đưa ra là ung thư biểu mô vảy không sừng hóa (Hình 2). Lần 2 sinh thiết khối sùi ở tá tràng thấy các tế bào dạng biểu mô, nhân lớn, chất nhiễm sắc thô, đa hình thái, có hoại tử, nhiều nhân chia, nhân chia không điển hình, chủ yếu thành đám, một số vùng có biệt hóa giống cấu trúc ống nên được chẩn đoán là ung thư biểu mô tuyến kém biệt hóa (Hình 3). Lần thứ 3, bệnh phẩm mổ, các mảnh cắt lớn thấy tế bào u có cấu trúc đám đặc chủ yếu, các tế bào u có bào tương rộng, bắt màu acid nhẹ, nhân đa hình thái, hạt nhân rõ. Dù vậy, trong một số vùng thấy có biệt hóa hình ống tuyến. Trong 1 số ổ nhỏ, những ống tuyến này chứa hồng cầu, đã gợi ý đến biệt hóa mạch (Hình 4, 5, 6). Khối u đã được chẩn đoán sarcoma mạch và chẩn đoán phân biệt với ung thư biểu mô kém biệt hóa, melanoma, các loại sarcoma dạng biểu mô hay gặp ở đường tiêu hóa khác như GIST, sarcoma cơ trơn. Dựa vào hóa mô miễn dịch các tế bào u đã phản ứng dương tính với các marker CD31, Yếu tố VIII, EGFR, CK, CK7, âm tính với các marker P40, CDX2, S100, Melan A, HMB45, CD117, DOG1, Actin, Desmin (Hình 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14). Kết hợp mô bệnh học và hóa mô miễn dịch thì đưa ra kết luận: Sarcoma mạch dạng biểu mô. Hình 2. Hình ảnh vi thể sinh thiết ở lưỡi (vật kính 20). Các tế bào u dạng biểu mô, nhân lớn, chất nhiễm sắc thô, hạt nhân lớn, nhân chia nhiều, đứng thành đám ngay dưới biểu mô vảy (góc trên phải) Hình 3. Hình ảnh vi thể ở mảnh sinh thiết tá tràng (Vật kính 20). Các tế bào u dạng biểu mô nhân lớn, chất nhiễm sắc thô, đa hình thái, tập trung chủ yếu thành đám, có vùng biệt hóa giống cấu trúc ống (mũi tên) GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 213 Hình 4. Hình ảnh vi thể ở bệnh phẩm mổ ở ruột non (vật kính 10). Các tế bào u có cấu trúc đám chủ yếu, một số có biệt hóa ống tuyến Hình 5. Hình ảnh vi thể ở bệnh phẩm mổ ruột non (vật kính 10). Các tế bào u dạng biểu mô, nhân lớn, nhiều nhân chia, bào tương ưa acid, tập trung thành đám chủ yếu, một số có biệt hóa hình ống tuyến, nhưng một số ống có chứa hồng cầu. Hình 6. Hình ảnh vi thể ở bệnh phẩm mổ ruột non (VK 40). Tế bào u dạng biểu mô, bào tương ưa acid, nhân lớn, hạt nhân rõ. Một số tế bào u tạo thành cấu trúc chứa hồng cầu gợi ý mạch máu. Hình 7. Các tế bào u phản ứng dương tính với CD31 (vật kính 20). Hình 8. Các tế bào u phản ứng dương tính với marker CK (vật kính 20). Hình 9. Các tế bào u phản ứng dương tính với marker CK7 (Vật kính 20) Hình 10. Các tế bào u phản ứng dương tính với marker CK7 (Vật kính 20). Hình 11. Các tế bào u phản ứng dương tính với marker Yếu tố VIII (vật kính 20). GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 214 Hình 12. Các tế bào u phản ứng âm tính với marker P40 (vật kính 10) Hình 13. Các tế bào u phản ứng âm tính với marker DOG1 (vật kính 10). Hình 14. Các tế bào u phản ứng âm tính với marker Desmin (vật kính 10) Hình 15. Các tế bào u phản ứng âm tính với marker S100 (vật kính 10) THẢO LUẬN Vị trí nguyên phát của khối u ở bệnh nhân này không rõ ràng. Khối ở lưỡi và ở tá tráng ruột non có kích thước khá giống nhau. Sarcoma dạng biểu mô rất hiếm gặp ở ống tiêu hóa, và chỉ mới có 18 ca được báo cáo trong y vĕn tiếng Anh[2,4,6,7]. 10 bệnh nhân là nam và 8 bệnh nhân là nữ. Tuổi từ 25 đến 85 (trung bình 67,5). 14 ca có ở ruột non, 5 ca có ở đại trực tràng. 12 ca được cho là xuất phát từ ống tiêu hóa. Chủ yếu bệnh nhân có biểu hiện chảy máu ở ống tiêu hóa. Ngoài ra, hầu hết các ca đều có quá trình diễn biến nhanh, tử vong liên quan tới sarcoma mạch xảy ra ở 14 trên 18 bệnh nhân, thời gian sống thêm là từ vài ngày cho tới 2 nĕm sau khi được chẩn đoán. Thời gian sống dài nhất là 27 tháng ở một người phụ nữ 32 tuổi ở trực tràng. Sarcoma mạch ở ruột non thường có biểu hiện điển hình là chảy máu ống tiêu hóa, thiếu máu, hoặc đau bụng. Thật không may là những triệu chứng này thường có liên quan tới khá nhiều bệnh khác. Ngoài ra, các đặc điểm mô bệnh học đa dạng có thể khiến chẩn đoán trở nên khó khĕn. Nhiều sarcoma mạch có song song 2 hình thái: vừa tạo hình thái mạch vừa tạo cấu trúc đặc. Cấu trúc mạch có thể là biệt hóa mạch rõ, dễ dàng nhận ra lòng mạch đến các rãnh mạch máu nối nhau kém phát triển. Rất không may, những khối u có hình thái đám đặc gồm các tế bào hình thoi hoặc tế bào đa diện bào tương rộng dạng biểu mô. Những đặc điêm mô học thỉnh thoảng lại gây ra sự nhầm lẫn với các loại u khác, như ung thư biểu mô kém biệt hóa, u hắc tố ác tính, u trung biểu mô, hoặc sarcoma với đặc điểm dạng biểu mô (đặc biệt là các u mô đệm ống tiêu hóa)[6,7]. Vì vậy, nhuộm hóa mô miễn dịch cho các marker của tế bào nội mô và biểu mô là cần thiết để chẩn đoán xác định[1,5]. Bệnh nhân của chúng tôi không có yếu tố ảnh hưởng nào cho sarcoma mạch, gồm xạ trị, viêm mạn tính, phù mạch huyết mạn tính, nhiễm vinyl chloride hoặc thorium dioxide[4,9,10]. Một ca sarcoma Kaposi đồng xuất hiện với sarcoma mạch đã được báo cáo[8]. Trong trường hợp đó, một người đàn ông da trắng 82 tuổi, HIV âm tính, biểu hiện sarcoma Kaposi nhưng đã phát triển sarcoma mạch ở miệng 12 tháng sau đó. Những đặc điểm mô học của sarcoma mạch này khá khác biệt so với sarcoma Kaposi. Sarcoma mạch thường có tiên lượng xấu. Nake và cộng sự đã tìm ra rằng tuổi trên 50 và kích thước khối u trên 5cm là yếu tố tiên lượng tồi độc lập với tỷ lệ sống sót dưới 2 nĕm[10]. Cắt bỏ hoàn toàn khối u là yếu tố duy nhất liên quan đến tỷ lệ sống không bệnh tật[2]. Mặc dù những bệnh nhân trẻ tuổi vá khối u kích thước nhỏ hơn dường như liên quan tới tỉ lệ sống sót tốt hơn, nhìn tổng thể thì tỉ lệ sống rất kém, và hầu hết các trường hợp tiến diễn rất nhanh, trung bình sống sót 2 tháng sau khi được chẩn đoán[2]. Bởi vì sự xâm lấn và nhiều ổ của loại u ác tính này nên sự phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn là không thể. Vai trò GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 215 của phương pháp tá dươc chưa được xác định; dù vậy, phân tích tập hợp con của một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng hóa trị liệu trong sarcoma cho thấy rằng phác đồ dựa trên doxorubicin có tỷ lệ đáp ứnglà 25%[3]. Vai trò của tá dược xạ trị cũng được kiểm tra trong 1 lần hồi cứu nghiên cứu 67 bệnh nhân và cho thấy liệu pháp xạ trị tá dược có thể cải thiện tỉ lệ sống không có bệnh[9]. Rất cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để thiết lập vai trò của bức xạ tá dược hoặc hóa trị liệu trong điều trị sarcoma mạch. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alles JU, Blsslet K. Immunocytochemistry of angiosarcomas. Am J Clin Pathol 2008; 89: 463- 71. 2. Allison KH, Yoder BJ, Bronner MP, et al. Angiosarcoma involving the gastrointestinal tract: a series of primary and metastatic cases. Am J Surg Pathol 2009; 28: 298-307. 3. Baker L, Frank J, Fine G, et al. Combination chemotherapy using Adriamycin, DTIC, cyclophosphamide, and actinomycin D for advanced soft tissue sarcomas: a randomized comparative trial. A phase III, Southwest Oncology Group Study. J Clin Oncol 1997;5: 851-61. 4. Ben Izhak O, Kerner H, Brenner B, et al. Angiosarcoma of the colon developing in a capsule of a foreign body. Report of a case with associated hemorrhagic diathesis. Am J Clin Pathol 2002; 97: 416-20. 5. Burgdorf WHC, Muaki K, Rosai J. Immunohistochemical identification of factor VIII- related antigen in endothelia cells of cutaneous lesions of alleged vascular nature. Am J Clin Pathol 2002; 75: 167-71. 6. Delvaux V, Sciot R, Neuville B, et al. Multifocal epithelioid angiosarcoma of the small intestine. Virchows Arch 2010; 437: 90-4. 7. Fletcher CD, Hogendoorn P, Mertens F, Bridge J. WHO Classification of Tumours of Soft Tissue and Bone. 4th ed. Lyon, France: IARC Press; 2013. 8. Gambassi G, Semerara R, Suma V, et al. Aggressive behavior of classical Kaposi’s sarcoma and coexistence with angiosarcoma. J Gerontol A Biol Sci Med Sci 2015; 60: 520-3. 9. Mark RJ, Poen JC, Tran LM, et al. Angiosarcoma. A report of 67 patients and a review of the literature. Cancer 2004; 77: 2400-6. 10. Naka N, Ohasawa M, Tomita Y, et al. Prognostic factors in angiosarcoma: a multivariate analysis of 55 cases. J Surg Oncol 2006; 61: 170-6.
File đính kèm:
sarcoma_mach_dang_bieu_mo_o_ruot.pdf

