Sanh con sống sau ghép tử cung
Tóm tắt
Cấy ghép tử cung (TC) là điều trị cần thiết cho vô sinh không TC, hoặc có TC nhưng vì bệnh
lý không có khả năng sinh sản. Đã có 11 TC được cấy ghép thực hiện trên toàn thế giới nhưng
không có ca sanh sống nào được báo cáo cho đến tháng 10 năm 2014. Đến nay đã có 3 ca sanh
sống sau ghép TC, tất cả đều tại Thụy Điển trong năm 2014, ca đầu tiên sanh tháng 9, 2 ca còn
lại sanh tháng 11.
Trường hợp đầu tiên thành công sanh con sống sau ghép TC trên một phụ nữ 35 tuổi với không
có TC (hội chứng Rokitansky) đã trải qua cấy ghép TC tại bệnh viện Đại học Sahlgrenska,
Gothenburg, Thụy Điển, do giáo sư Mats Brännström và cộng sự thực hiện trong năm 2013.
TC đã được tặng từ một phụ nữ 61 tuổi, sống có hai con. Với phôi thụ tinh trong ống nghiệm
(TTON) từ của bệnh nhân (BN) và chồng đã được thực hiện trước khi cấy ghép để chuyển vào
TC.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sanh con sống sau ghép tử cung
1TỔNG QUAN Y VĂN Sanh con sống sau ghép tử cung Phan Văn Quyền * * BV. Từ Dũ Tóm tắt Cấy ghép tử cung (TC) là điều trị cần thiết cho vô sinh không TC, hoặc có TC nhưng vì bệnh lý không có khả năng sinh sản. Đã có 11 TC được cấy ghép thực hiện trên toàn thế giới nhưng không có ca sanh sống nào được báo cáo cho đến tháng 10 năm 2014. Đến nay đã có 3 ca sanh sống sau ghép TC, tất cả đều tại Thụy Điển trong năm 2014, ca đầu tiên sanh tháng 9, 2 ca còn lại sanh tháng 11. Trường hợp đầu tiên thành công sanh con sống sau ghép TC trên một phụ nữ 35 tuổi với không có TC (hội chứng Rokitansky) đã trải qua cấy ghép TC tại bệnh viện Đại học Sahlgrenska, Gothenburg, Thụy Điển, do giáo sư Mats Brännström và cộng sự thực hiện trong năm 2013. TC đã được tặng từ một phụ nữ 61 tuổi, sống có hai con. Với phôi thụ tinh trong ống nghiệm (TTON) từ của bệnh nhân (BN) và chồng đã được thực hiện trước khi cấy ghép để chuyển vào TC. Sau phẫu thuật ghép TC người nhận phục hồi tốt. Kinh nguyệt đầu tiên của người nhận xảy ra 43 ngày sau khi cấy ghép và BN tiếp tục có kinh nguyệt đều đặn từ 26 đến 36 ngày (trung bình 32 ngày). Một năm sau khi cấy ghép, người nhận được chuyển phôi duy nhất của mình, và kết quả đã mang thai. Sau đó, BN đã được điều trị 3 loại thuốc ức chế miễn dịch (tacrolimus, azathioprine, và corticosteroids), duy trì tiếp tục trong suốt thai kỳ. BN bị 3 đợt bị thải ghép nhẹ, một lần xảy ra trong khi mang thai. Những đợt bị thải ghép đã điều trị thành công bằng corticosteroid. Các chỉ số tăng trưởng của thai nhi và lưu lượng máu của động mạch TC và dây rốn diễn tiến bình thường trong suốt thai kỳ. Vào tuần 31 và 5 ngày, BN được nhập viện với dấu hiệu tiền sản giật và sau đó 16 giờ đã được sinh mổ vì tim thai bất thường. Một bé trai với trọng lượng sơ sinh bình thường so với tuổi thai (1.775 g) và với chỉ số Apgar 9, 9, 10 được sinh ra. Trường hợp sanh sống đầu tiên sau khi cấy ghép TC cho thấy tính khả thi của ghép TC, thậm chí từ một người hiến tặng TC đã mãn kinh. Hình 1. Thành viên chính nhóm ghép TC thành công, GS. Mats Brännström (giữa). Hình 2. Bé trai sinh mổ sau ghép TC. 2THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 1, Tháng 01 – 2015 Giới thiệu Vô sinh tuyệt đối do TC là lý do duy nhất vô sinh nữ mà vẫn còn được xem như là không thể chữa được. Các nguyên nhân chính thường do thiếu TC bẩm sinh (hội chứng Rokitansky, còn gọi là hội chứng Mayer- Kuster-Hauser Rokitansky), do cắt bỏ TC trước đó, và viêm dính nặng TC.1-4 Chỉ riêng tại Anh, hơn 12.000 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ bị vô sinh tuyệt đối do TC.5 Các phụ nữ bị bệnh lý này thường phải xin con nuôi, hoặc nhở mang thai hộ để vẫn giữ được di truyền của cha mẹ. Tuy nhiên, việc mang thai hộ không được phép ở nhiều nước vì lý do đạo đức, luật pháp, hay tôn giáo. Trên thế giới có nhiều nhóm nghiên cứu ghép TC, đã có 11 ca ghép TC được thực hiện. Ca ghép TC đầu tiên tại Ả rập Saudi năm 2000, sau 99 ngày bị thuyên tắc mạch tử cung cấp tính phải cắt TC. Ca thứ nhì năm 2011 tại Thổ Nhĩ Kỳ báo cáo 1 ca, sau ghép 18 tháng đã được chuyển phôi và hai lần mang thai nhưng bị sẩy thai lúc được 6 tuần.6 Tại Thụy Điển đã thực hiện ghép TC 9 ca thành công năm 2012-2013 và tháng 10/2014 đã báo cáo ca đầu tiên sanh sống sau ghép TC. Giáo sư Mats Brännström và cộng cự (cs.) (hình 1) đã nghiên cứu chuẩn bị ghép TC mất hơn một thập kỷ, phát triển nghiên cứu từng bước, bắt đầu từ loài gặm nhấm đến linh trưởng.7,8 Brantrom và cs. đã thực hiện ghép TC trên 9 phụ nữ. Hai trong 9 người được ghép đã phải cắt bỏ TC trong những tháng đầu, với nguyên nhân là huyết khối động mạch TC và nhiễm trùng TC nặng.9 Trường hợp đầu tiên dẫn đến hoại tử TC nặng trong những tháng đầu, và TC hoàn toàn hoại tử đã được cắt bỏ 3 tháng sau ghép.10 Trường hợp thứ hai liên quan đến TC từ một người hiến đã chết được ghép vào một BN với hội chứng Rokitansky.11 Bảy phụ nữ còn lại bắt đầu kinh nguyệt trong 2-3 tháng đầu và ghép có kết quả, với chu kỳ kinh nguyệt thường xuyên trong đầu năm sau cấy ghép. Vài ca bị thải ghép nhẹ đã được phát hiện trên sinh thiết cổ TC, đã được điều trị hiệu quả bằng các thuốc ức chế miễn dịch. Báo cáo này mô tả trường hợp ghép TC đầu tiên đã dẫn đến sanh sống một bé trai. Chuẩn bị bệnh nhân và người hiến TC Trong năm 2013, một BN 35 tuổi đã trải qua cấy ghép TC tại Bệnh viện Đại học Sahlgrenska, Gothenburg, Thụy Điển. Nghiên cứu này được sự chấp thuận của Hội đồng đạo đức trong khu vực của Đại học Gothenburg. Các người hiến, người nhận (BN), và chồng của BN đã đồng ý bằng văn bản. Các kết quả sau 6 tháng ghép TC đã được công bố.8 Người nhận (nhóm máu O+) bị hội chứng Rokitansky không điển hình,12 từ khi sinh ra với chỉ có một thận và không có âm đạo và TC. Một âm đạo tân tạo chức năng đã được tạo bằng nong. BN là người không hút thuốc, không dị ứng với thuốc, và có chỉ số khối cơ thể (BMI) của 21 kg/m². Trước khi cấy ghép và trong khoảng thời gian sau cấy ghép, BN được tư vấn khả năng phải cắt bỏ TC sau đó vì lý do y khoa: do thải ghép, biến chứng phẫu thuật mổ lấy thai, hoặc tác dụng phụ của ức chế miễn dịch. Hội đồng đạo đức đã phê duyệt và đồng ý cho ghép TC và sau đó TC nên được cắt bỏ sau tối đa là hai lần mang thai thành công. Người hiến TC cùng nhóm máu O+ là bạn của gia đình người nhận. Lúc phẫu thuật, người hiến đã 61 tuổi, có hai con sanh thường đủ tháng, lúc 26 tuổi (cân nặng 3.000 g) và 29 tuổi (cân nặng 3.250 g). Người hiến cũng không hút thuốc, khỏe mạnh và chỉ số BMI là 20 kg/m². Người hiến đã mãn kinh khoảng 7 năm trước khi hiến tặng TC. Để xác định chức năng kinh nguyệt của TC được trước khi cấy ghép và khả năng có thể làm tăng lưu lượng máu động mạch TC trước phẫu thuật, người 3TỔNG QUAN Y VĂN hiến đã được điều trị trong 3 tháng với uống thuốc tránh thai, có chứa ethinylestradiol (30-40 µg mỗi ngày) và levonorgestrel (50- 125 mg hàng ngày). Việc có kinh lại đã xảy ra như mong đợi. Chuẩn bị trước thụ tinh ống nghiệm (TTON) TTON đã được thực hiện từ 6 tới 18 tháng trước khi ghép TC. BN bị hội chứng Rokitansky nên không có kinh và được kích thích buồng trứng bằng gonadotrophin. BN đã trải qua ba đợt kích thích với gonadotrophin. Các đợt ức chế tuyến yên buồng trứng trong 2-3 tuần bằng sịt mũi buserelin (GnRH đồng vận) ba lần mỗi ngày với liều 300 μg, điều trị này bắt đầu 7-9 ngày sau khi xét nghiệm nước tiểu luteinizing hormone (LH), cho thấy gonadotrophin tăng cao. Siêu âm với đầu dò bụng và xét nghiệm máu oestradiol để đánh giá sự trưởng thành nang trứng. Rụng trứng được kích hoạt bằng cách tiêm 250 mg HMG tái tổ hợp. Chọc hút trứng được thực hiện qua ngã bụng dưới hướng dẫn siêu âm. Các tế bào trứng được thụ tinh bằng tiêm tinh trùng vào bào tương. Chuyển phôi được thực hiện khoảng 12 tháng sau khi cấy ghép TC thành công, trong 1 chu kỳ kinh nguyệt tự nhiên. Hình 3. TC của người hiến tặng Hình 4. TC đã ghép vào người nhận đang phục hồi Hình 5. Ghép TC và các mạch máu 4THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 1, Tháng 01 – 2015 Phẫu thuật Các thủ tục phẫu thuật (PT) của người hiến và người nhận, gây mê, được mô tả chi tiết.8 PT tách rời TC người hiến tặng cần phải lấy các bó mạch máu dài 2 bên cả tĩnh mạch và động mạch (hình 3), để TC đông lạnh trong histidine-tryptophan. PT phức tạp vì phải bóc tách rộng hệ mạch máu TC, đến gần gốc các tĩnh mạch chậu trong và động mạch chậu trong. Khi ghép cho người nhận, hai tĩnh mạch và động mạch lớn mỗi bên được nối với tĩnh mạch và động mạch chậu ngoài của người nhận (hình 5) khâu liên tục bằng chỉ (8-0 polypropylene). Một giờ trước khi lấy TC từ người hiến, PT để chuẩn bị cho việc cấy ghép cho người nhận đã được bắt đầu trong một phòng mổ kế cận. Thông qua một vết rạch đường giữa, các mạch chậu ngoài đã được bộc lộ và chuẩn bị cho khâu nối. Vòm âm đạo được tách ra từ bàng quang và trực tràng. Để cố định TC bên bằng khâu nối các dây chằng tròn, dây chằng TC cùng, khâu phúc mạc bàng quang của người hiến với của bàng quang của người nhận và các mô liên kết cạnh TC. TC được đưa vào vùng chậu và nối các mạch máu, khâu nối các tĩnh mạch TC đến các tĩnh mạch chậu ngoài (với chỉ khâu 8-0 polypropylene) và các của động mạch TC với các động mạch chậu ngoài (với 7-0 khâu polypropylene) hai bên (hình 3-5). Sau đó cho máu đến TC và xác định chắc chắn có máu chảy qua các khâu nối động mạch và các mô TC thay đổi từ màu nhạt đến đỏ. Để đánh giá lưu lượng máu qua động mạch TC tiếp tục trong những ngày sau cấy ghép đầu tiên, bằng cách đặt đầu dò siêu âm 20- MHz Doppler, cạnh động mạch TC trái . Các tín hiệu được truyền ra qua dây cáp mỏng, được đưa ra qua vết rạch đường giữa thành bụng. Bộ phận thăm dò này sau đó có thể dễ dàng lấy ra sau thời gian quan sát 3 ngày. Các ca PT trên người hiến và người nhận tiến hành không tai biến. Tổng thời gian PT đến khi đóng bụng là 10 giờ 7 phút đối với người hiến tặng và 4 giờ 55 phút cho người nhận. Các vị trí nối sau khi mở kẹp cho tái tưới máu. Đo lưu lượng máu qua động mạch TC ngay sau đó bằng siêu âm Doppler ghi nhận được 40 mL mỗi phút. Mất máu khi PT là 0,6 L phía người cho và 0,75 L ở người nhận. Tổng thời gian thiếu máu cục bộ của ghép TC là 2 giờ 19 phút (thời gian ướp lạnh: 1 giờ 6 phút; thời gian ủ ấm: 1 h 13 min). Có tụ máu nhỏ sau phúc mạc ở người nhận vào ngày hậu phẫu thứ hai và BN đã được truyền với hai đơn vị máu. Cả hai người hiến và người nhận đã được xuất viện sau 6 ngày chăm sóc hậu phẫu. Người nhận được theo dõi thường xuyên trên lâm sàng và xét nghiệm, thời gian đầu hai lần/tuần trong tháng đầu tiên sau PT và sau đó mỗi 2 tuần trong tháng thứ 2-6. Sau đó, BN đã được XN hàng tháng. Việc kiểm tra lâm sàng gồm khám phụ khoa với kiểm tra cổ TC được cấy ghép, nuôi cấy vi khuẩn từ ống TC, cổ TC và sinh thiết cổ TC. Siêu âm với đầu dò âm đạo và bụng đã được thực hiện để đánh giá kích thước TC, và độ dày nội mạc TC. Đánh giá lưu lượng máu qua động mạch TC hai bên được bằng siêu âm Doppler với đầu dò bụng đặt ngay phía trên dây chằng bẹn. Sinh thiết cổ TC được thực hiện tại các thời điểm ấn định trước (lúc 1, 2, và 4 tuần, và sau đó mỗi tháng) và trong trường hợp có dấu hiệu bệnh lý (dịch tiết âm đạo bất thường, sốt, cổ TC bị đổi màu, hoặc đau bụng) có thể liên quan đến nhiễm trùng tại chỗ hoặc nguy cơ thải ghép. Sinh thiết cổ TC được dùng để đánh giá mức độ thải ghép TC.13 Khi phát hiện hiện diện của tân sinh trong biểu mô cổ TC sẽ được thực hiện các xét nghiệm HPV. Theo dõi trên lâm sàng bao gồm huyết áp và trọng lượng cơ thể, và các xét nghiệm: creatinine huyết thanh và men gan; hemoglobin trong máu, bạch cầu, tiểu cầu, 5TỔNG QUAN Y VĂN nồng độ sắt và đường trong máu, albumin hoặc creatinine nước tiểu; nồng độ thuốc chống thải ghép tacrolimus, mycophenolate mofetil trong máu. Trong khi mang thai, BN được theo dõi thường xuyên tại Bệnh viện Đại học Sahlgrenska, với thăm khám sản khoa định kỳ (2-3 tuần) để các chuyên gia lưu ý nguy cơ thải ghép và diễn biến thai. Siêu âm động mạch TC và động mạch rốn và phát triển của thai cho thấy tiến triển bình thường.14,15 Kết quả Chu kỳ kinh nguyệt đầu tiên xảy ra tự nhiên 43 ngày sau cấy ghép và kéo dài 4 ngày. Sau đó, BN đã có kinh nguyệt thường xuyên với một khoảng cách trung bình 32 ngày (26-36 ngày). Nội mạc TC cho thấy những thay đổi điển hình trung bình (tối đa 11,3 mm; [7,9- 15,3 mm]). Lưu lượng máu trong các động mạch TC 2 bên đều nằm trong phạm vi thấp bình thường trong suốt thời gian quan sát. Hai đợt thải ghép nhẹ (một sau 9 ngày và 1 lúc 6 tháng và 24 ngày) và một đợt giáp biên (2 tháng và 28 ngày) được chẩn đoán bằng sinh thiết cổ TC. BN không có bất kỳ triệu chứng lâm sàng nào. Việc chẩn đoán thải ghép dựa trên thay đổi mô học với mức tăng trung bình trong mật độ tế bào lympho trong màng căn bản và biểu mô, với một số hình ảnh xoang sốp ở màng đáy của biểu mô. Các tế bào tự hủy thỉnh thoảng thấy được ở màng cơ bản cùng với những thay đổi phản ứng trong biểu mô bề mặt. Các đợt thải ghép được điều trị thành công bằng corticosteroid. Sinh thiết cổ TC lúc 8 tháng và 12 ngày sau khi cấy ghép cho thấy có loạn sản trung bình trong biểu mô. U nhú xác định do HPV subtype 31, theo dõi sinh thiết 2 tuần sau đó trở lại bình thường và không còn loạn sản. Nồng độ thuốc chống thải ghép tacrolimus trong máu trung bình trước khi mang thai là 9,8 ng/mL (3,0-12,0). Nồng độ thuốc mofetil mycophenolate là 51,3 mg,h/L (36,5- 96,7) trong 10 tháng điều trị. Đợt thải ghép nhẹ đầu tiên (ngày 9) được điều trị bằng methylprednisolone 500 mg tiêm tĩnh mạch trong 3 ngày, tiếp theo là prednisolone uống (liều bắt đầu 10 mg hai lần mỗi ngày) trong 4 tuần rồi giảm dần. Đợt thải ghép giáp biên (2 tháng và 28 ngày) thì chỉ được điều trị bằng prednisolone đường uống trong 4 tuần. Đợt thải ghép nhẹ thứ hai (lúc 6 tháng và 24 ngày) ban đầu được điều trị như đợt nhẹ đầu tiên, sau đó BN vẫn tiếp tục với prednisolone uống liều thấp hơn (5 mg mỗi ngày) như trước khi mang thai. Khi người nhận bị thải ghép qua hai đợt có liên quan với điều trị mycophenolate mofetil, nên mycophenolate mofetil đã được duy trì tổng cộng 10 tháng và azathioprine (2 mg/kg mỗi ngày). Huyết áp và nồng độ hemoglobin trong năm đầu sau cấy ghép ổn định ở mức khoảng 120/70 mm Hg và 100 g/L. Chuyển phôi được thực hiện 1 năm sau khi cấy ghép TC. Ba ngày sau khi thử LH/nước tiểu, 1 phôi được giải đông và được chuyển vào TC. BN đã được điều trị liên tục với 75 mg acid acetylsalicylic mỗi ngày một lần kể từ khi cấy ghép. BN được điều trị với acid folic uống (250 mg hai lần mỗi ngày) từ 2 tuần trước khi chuyển phôi và progesterone âm đạo 100 mg ba lần mỗi ngày trong 9 tuần sau khi chuyển phôi. Xét nghiệm thử thai dương 3 tuần sau khi chuyển phôi và 2 tuần sau đó, tim thai được phát hiện bằng siêu âm. Thai tiến triển bình thường từ 8 đến 31 tuần, người phụ nữ mang thai tăng cân 8 kg, chiều dài cổ TC trong khoảng 43 mm và 50 mm, hemoglobin là 100 g/L, huyết áp và đường trong máu bình thường, và không có protein niệu xảy ra. Nồng độ creatinin, ở BN này với một quả thận duy nhất, phần nào đã được lưu ý từ giai trước khi mang thai (trung bình 94 mmol/L [phạm vi 80-111]) và đã tăng cao hơn trong khi mang thai (106 mmol/L [86-147]) , với nồng độ creatinine liên tục cao hơn 100mmol/ 6THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 1, Tháng 01 – 2015 L từ tuần thai 27. Siêu âm kiểm tra sau đó cho thấy có ứ nước nhẹ trong thận duy nhất. BN vẫn làm việc toàn thời gian cho đến ngày trước khi sanh. Trong thai kỳ, sự tăng trưởng chiều dài xương đùi, đường kính lưỡng đỉnh, đường kính bụng, và trọng lượng của thai nhi trong giới hạn bình thường. Lưu lượng máu trong các động mạch TC trong phạm vi bình thường. Các chỉ số của động mạch rốn là bình thường trong suốt thai kỳ. BN được nhập viện bệnh viện Đại học Sahlgrenska vào lúc 31 tuần và 5 ngày vì tiền sản giật, với huyết áp 180/120 mmHg, nhức đầu nhẹ, protein niệu 18 mg/L, tiểu cầu giảm 96x109/L. BN đã được điều trị hạ áp bằng labetalol (200 mg ba lần mỗi ngày) và nifedipine (10 mg hai lần mỗi ngày). Betamethason (12 mg tiêm tĩnh mạch) được dùng để dự phòng hội chứng suy hô hấp. Do BN có các cơn co TC ngày càng tăng và theo dõi monitor cho thấy nhịp giảm thường xuyên từ khoảng 10 giờ sau khi nhập viện. Sinh mổ đã được thực hiện 16 giờ sau khi nhập viện. Mổ lấy thai theo đường giữa đã được thực hiện dưới gây tê tủy sống. Chỉ có dính nhẹ, sau khi bóc tách cẩn thận phúc mạc bàng quang, với lưu ý các mạch máu TC lớn, TC được rạch thấp ngang đoạn dưới. Đứa trẻ ở vị trí ngôi mông và đã được lấy ra 26 phút sau khi rạch da. Nhau thai (trọng lượng 375 g) được lấy ra ngay sau đó. Kiểm tra mô học của bánh nhau cho thấy dây rốn bình thường và không viêm. Bánh nhau có hình ảnh đặc hiệu của tiền sản giật như mao mạch nhỏ có tụ fibrin và dấu hiệu huyết khối trong các mao mạch, không nhìn thấy hình ảnh viêm. Sau khi sinh, TC thu hồi tốt với oxytocin truyền tĩnh mạch (10 IU). Vết rạch TC được khâu hai lớp. Sinh thiết cơ TC được lấy từ đáy TC có kết quả bình thường. Cân nặng của trẻ sơ sinh là 1.775 g, chiều dài là 40 cm và chu vi vòng đầu 28,5 cm (hình 2). Chỉ số Apgar là 9, 9, 10. Các tuần sau khi sinh bé ổn và trong tình trạng tốt, cần chiếu đèn. Người mẹ đang trong tình trạng tốt ngày sau khi sinh và huyết áp trở lại bình thường tự nhiên, không cần điều trị thêm. BN đã được xuất viện 3 ngày sau mổ lấy thai và được theo dõi tái khám ngoại trú định kỳ. Nồng độ creatinine đã giảm từ 143 mmol/L vào ngày sanh xuống còn 98 mmol/L 5 ngày sau đó. Em bé được xuất viện sức khỏe tốt 16 ngày sau sinh và trọng lượng 21 ngày với cân nặng 2.040 g. Trong khi mang thai, người nhận tiếp tục điều trị ức chế miễn dịch với ba thuốc gồm tacrolimus, azathioprine, và prednisolone. Nồng độ tacrolimus giảm trong tam cá nguyệt đầu tiên và tăng dần đến 40% liều dùng trước khi mang thai (10 mg mỗi ngày) để đạt được nồng độ trong máu có nồng độ 8-10 ng/mL. Nồng độ tacrolimus trung bình trong suốt thời gian mang thai là 7,3 ng/mL (4,6-13,0). Trong tam cá nguyệt đầu tiên, BN có giảm bạch cầu và thiếu máu, và liều azathioprine do đó đã giảm từ 2 mg/kg mỗi ngày xuống 1,2 mg/kg mỗi ngày trong khoảng thời gian 4 tuần. Khi thai được 18 tuần và 2 ngày , sinh thiết cổ TC cho thấy dấu hiệu thải ghép nhẹ nhưng không có triệu chứng lâm sàng. Có hình ảnh viêm trong mô đệm dưới biểu mô và trong các lớp màng cơ bản của biểu mô lát. BN được điều trị với methylprednisolone tĩnh mạch trong 3 ngày (250 mg/ngày), sinh thiết sau 30 tuần thai và 6 ngày kết quả bình thường. Azathioprine sau đó đã được tăng lên đến liều ban đầu của nó (2 mg/kg ngày) và tiếp tục liều này cho đến khi sanh. Nồng độ trong máu của tacrolimus trong khi mang thai cũng tương tự như trong năm đầu sau cấy ghép (trung bình 8,1 ng/mL [6,1-13,0]). Nồng độ hemoglobin 3 ngày trước khi chuyển phôi là 101 g/L và BN được điều trị uống sulphat sắt 100 mg hai lần mỗi ngày. Trong tuần thai thứ 8, hemoglobin giảm xuống 84 g/L mặc dù điều trị sulphat sắt. BN được điều trị bằng carboxymaltose sắt 1 liều 7TỔNG QUAN Y VĂN 500 mg tiêm tĩnh mạch và darbepoetinalfa 60 mg/tuần dưới da. Bàn luận Mặc dù có những tiến bộ đáng kể trong điều trị vô sinh từ khi ra đời em bé đầu tiên TTON năm 1978.16 Trước đây các ca vô sinh thể nặng do TC vẫn chưa chữa được. Với một ca sanh sống sau khi cấy ghép TC ở phụ nữ không có TC đã cho thấy vô sinh tuyệt đối do yếu tố không TC đã có khả năng điều trị. Ca sanh sống đầu tiên này sau cấy ghép TC con người đến sau hơn một thập kỷ nghiên cứu công phu của một trong nhiều nhóm nghiên cứu trên toàn thế giới. Các vấn đề đạo đức xung quanh việc cấy ghép TC rất phức tạp. Nghiên cứu ghép TC đã bắt đầu 1 thời gian ngắn sau khi cấy ghép bàn tay con người đầu tiên trong năm 1998.17 Trong nghiên cứu này, người hiến TC trực tiếp là một người bạn gia đình của người nhận, khác với các ca khác người hiến thường là thành viên của gia đình. Lựa chọn đầu tiên người hiến là mẹ BN, nhưng do nhóm máu không tương thích bà không thể tham gia vào nghiên cứu. TC từ các người hiến trực tiếp góp thêm một yếu tố quan trọng vào khó khăn và lợi ích liên quan đến TC ghép.18 TC hiến tặng từ một người hiến đã chết rõ ràng sẽ làm giảm đáng kể những khó khăn chung và phức tạp của các thủ tục phẫu thuật. Trong ca ghép TC đã được thực hiện ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 2011, TC hiến là từ một phụ nữ 22 tuổi, đã chết não nhưng tim còn đập, và người hiến chưa có thai lần nào. Với tuổi trẻ của TC hiến và mạch máu dễ nở rộng sẽ có lợi nhưng điều này không lợi ích bằng của ghép 1 TC đã từng mang thai bình thường. Hơn nữa, người hiến trực tiếp cho phép đánh giá tỉ mỉ chẩn đoán của TC hiến tặng tránh được các bệnh lý có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản, chẳng hạn như adenomyosis và polyp nội mạc TC. Quan tâm cụ thể với TC được hiến là phải loại trừ các bệnh lý của TC có liên quan đến tiền ung thư. Cả hai người hiến và người nhận là không bị nhiễm HPV khi khảo sát trước ghép và sự hiện diện của loạn sản cổ TC có HPV (+) tại 9 tháng sau khi cấy ghép là điều bất ngờ và chưa giải thích được. Việc thực hiện TTON trước khi ghép TC là cần thiết để chắc chắn khả năng sinh sản của cặp vợ chồng. Hơn nữa, TTON sau khi cấy ghép sẽ khó khăn hơn nhiều trước khi cấy ghép vì các bó mạch máu TC cây ghép mới bất thường có nhiều mạch nối nhiều mà có thể làm tăng nguy cơ chảy máu khi lấy trứng thêm vào đó BN đang điều trị suy giảm miễn dịch có nguy cơ cao nhiễm trùng vùng chậu. Hội chứng Rokitansky thể không điển hình thường đáp ứng kém TTON và có một tỷ lệ thụ tinh thấp hơn so với những phụ nữ thể điển hình.19 BN trong báo cáo này mang thai ngay tại chuyển phôi đầu tiên với một phôi đông lạnh rã đông. Cơ hội thành công trong nhóm tuổi của BN chỉ khoảng 16%.20 Chỉ chuyển 1 phôi duy nhất để tránh nguy cơ của đa thai trên TC ghép. Đã có 1 đợt thải ghép nhẹ trong khi mang thai. Các dấu hiệu thải ghép trên mô học của cổ TC khỏi sau điều trị ngắn hạn của tăng corticosteroid. Thời gian mang thai của BN diễn tiến bình thường trong 31 tuần đầu tiên. Vận tốc máu dây rốn bình thường trong suốt thai kỳ. Chỉ số tưới máu của động mạch TC đều nằm trong phạm vi bình thường tới thấp. Một chỉ số thấp hơn cho thấy giảm sức đề kháng mạch máu, mà cũng có thể do ghép TC làm mất dây thần kinh gây co mạch. Với chỉ số bình thường tới thấp của động mạch TC lẽ ra sẽ nguy cơ thấp, chứ không phải là cao gây ra hội chứng tiền sản giật. Tuy nhiên, lượng máu cung cấp từ động chậu mạch ngoài tới TC cấy ghép cũng có thể giảm. Vì thế lý do sự phát triển của tiền sản giật trong trường hợp này không rõ, 8THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 1, Tháng 01 – 2015 nhưng một vài giải thích đáng lưu ý như: ức chế miễn dịch có thể làm tăng nguy cơ tiền sản giật, như sau khi ghép thận tỷ lệ tiền sản giật tăng cao như 22%.21 Tình trạng này cũng tương tự với BN ghép TC, hơn nữa chỉ có một quả thận và đang điều trị ức chế miễn dịch. Với 1 thận duy nhất cũng có thể là một yếu tố gây ra tiền sản giật bởi thực tế là tỷ lệ tiền sản giật là trong các người hiến thận khi mang thai cao hơn khoảng hai lần so với trước hiến thận.22 Yếu tố khác có thể là cơ sở cho sự phát triển của tiền sản giật là tuổi già của TC được hiến, biểu hiện bằng tỷ lệ tăng gấp bảy lần tiền sản giật ở phụ nữ 50-60 tuổi mang thai với nhận trứng được hiến.23 Tuy nhiên, có hoặc không tăng tỷ lệ này là do các yếu tố TC là không rõ ràng vì nó cũng có thể được gây ra bởi những thay đổi liên quan đến tuổi ở các cơ quan khác. Hơn nữa, tiền sản giật cũng phổ biến hơn ở trong thụ tinh ống nghiệm24 so với mang thai tự nhiên, và nói chung, với một TC hiến tặng hay trứng được tặng, có thể làm tăng nguy cơ tiền sản giật.25 BN đã có thời gian thiếu máu, giảm bạch cầu, và tăng creatinin trong khi mang thai, mà có lẽ là tác dụng phụ do ức chế miễn dịch. Như vậy, tác dụng phụ của thuốc ức chế miễn dịch, trên thận (tacrolimus), nhiễm độc tủy xương (azathioprine), hiệu ứng gây ra bệnh tiểu đường (corticosteroid và tacrolimus) cần được lưu ý trong chuẩn bị thực hiện mang thai sau khi cấy ghép TC, để quyết định thời gian tốt nhất có thể cho chuyển phôi. Ghép TC chỉ tạm thời không thể sử dụng suốt đời. TC cần được cắt bỏ sau khi đã sinh một hoặc hai con, để giảm tác dụng phụ gây ra bởi các loại thuốc ức chế miễn dịch. BN trong nghiên cứu này đã được thông báo có thể cần cắt bỏ TC trước khi thử mang thai lần thứ hai nếu có tác dụng phụ nặng bất kỳ do ức chế miễn dịch. Một quyết định như vậy không nên được thực hiện trong vài tháng đầu sau khi sinh, vì các tác dụng phụ có thể giảm sau sanh mà khi mang thai có thể bị nặng hơn. Hơn nữa, sự trì hoãn này sẽ có thêm thời gian theo dõi để bảo đảm rằng em bé đã sanh lành mạnh và cho phép TC thu hồi trở lại kích thước bình thường của nó. Quyền quyết định của BN cần được tôn trọng và bất kỳ quyết định trong tương lai để PT cắt bỏ TC cần phải được thực hiện trong sự đồng thuận với người nhận và chồng của họ. Tóm lại, với ca sanh sống đầu tiên sau khi cấy ghép TC mở ra khả năng để điều trị những phụ nữ trẻ với yếu tố vô sinh do TC đã thay đổi trên toàn thế giới. Tham khảo 1. Marshall LM, Spiegelman D, Barbieri RL, et al. Variation in the incidence of uterine leiomyoma among premenopausal women by age and race. Obstet Gynecol 1997; 90: 967–73. 2. Al-Inany H. Intrauterine adhesions. An update. Acta Obstet Gynecol Scand 2001; 80: 986–93. 3. Grimbizis GF, Camus M, Tarlatzis BC, Bontis JN, Devroey P. Clinical implications of uterine malformations and hysteroscopic treatment results. Hum Reprod Update 2001; 7: 161–74. 4. Saravelos SH, Cocksedge KA, Li TC . Prevalence and diagnosis of congenital uterine anomalies in women with reproductive failure: a critical appraisal. Hum Reprod Update 2008; 14: 415–29. 5. Sieunarine K, Zakaria FB, Boyle DC, et al. Possibilities for fertility restoration: a new surgical technique. Int Surg 2005; 90: 249–56. 6. Erman Akar M, Ozkan O, Aydinuraz B, et al. Clinical pregnancy after uterus transplantation. Fertil Steril 2013; 100: 1358–63. 7. Brannstrom M, Wranning CA, AlTC hek A. Experimental uterus transplantation. Hum Reprod Update 2010; 16: 329–45. 8. Diaz-Garcia C, Johannesson L, Enskog A, Tzakis A, Olausson M, Brannstrom M. Uterine transplantation research: laboratory protocols for clinical application. Mol Hum Reprod 2012; 18: 68–78. 9. Brannstrom M, Johannesson L, Dahm-Kahler P, et al. First clinical uterus transplantation trial: a six- month report. Fertil Steril 2014; 101: 1228–36. 10. Fageeh W, Raffa H, Jabbad H, Marzouki A. Transplantation of the human uterus. Int J Gynaecol Obstet 2002; 76: 245–51. 11. Ozkan O, Akar ME, Ozkan O, et al. Preliminary 9TỔNG QUAN Y VĂN results of the first human uterus transplantation from a multiorgan donor. Fertil Steril 2013; 99: 470–76. 12. Strubbe EH, Willemsen WN, Lemmens JA, Thijn CJ, Rolland R. Mayer-Rokitansky-Kuster- Hauser syndrome: distinction between two forms based on excretory urographic, sonographic, and laparoscopic findings. AJR Am J Roentgenol 1993; 160: 331–34. 13. Johannesson L, Enskog A, Molne J, et al. Preclinical report on allogeneic uterus transplantation in non- human primates. Hum Reprod 2013; 28: 189–98. 14. Nicolaides KH, Rizzo G, Hecher K, Ximenes R. Doppler in obstetrics. London: The Fetal Medicine Foundation, 2002. 15. Marsal K, Persson PH, Larsen T, Lilja H, Selbing A, Sultan B. Intrauterine growth curves based on ultrasonically estimated foetal weights. Acta Paediatr 1996; 85: 843–48. 16. Steptoe PC, Edwards RG. Birth after the reimplantation of a human embryo. Lancet 1978; 2: 366. 17. Dubernard JM, Owen E, Lefrancois N, et al. First human hand transplantation. Case report. Transpl Int 2000; 13 (suppl 1): S521–24. 18. Olausson M, Johannesson L, Brattgard D, et al. Ethics of uterus transplantation with live donors. Fertil Steril 2014; 102: 40–43. 19. Raziel A, Friedler S, Gidoni Y, Ben Ami I, Strassburger D, Ron-El R. Surrogate in vitro fertilization ouTC ome in typical and atypical forms of Mayer-Rokitansky-Kuster-Hauser syndrome. Hum Reprod 2012; 27: 126–30. 20. Dahm-Kahler P, Wranning C, Lundmark C, et al. Transplantation of the uterus in sheep: methodology and early reperfusion events. J Obstet Gynaecol Res 2008; 34: 784–93. 21. Kallen B, Westgren M, Aberg A, Olausson PO. Pregnancy ouTC ome after maternal organ transplantation in Sweden. BJOG 2005; 112: 904– 09. 22. Reisaeter AV, Roislien J, Henriksen T, Irgens LM, Hartmann A. Pregnancy and birth after kidney donation: the Norwegian experience. Am J Transplant 2009; 9: 820–24. 23. Paulson RJ, Boostanfar R, Saadat P, et al. Pregnancy in the sixth decade of life: obstetric ouTC omes in women of advanced reproductive age. JAMA 2002; 288: 2320–23. 24. Sazonova A, Kallen K, Thurin-Kjellberg A, Wennerholm UB, Bergh C. Obstetric ouTC ome in singletons after in vitro fertilization with cryopreserved/thawed embryos. Hum Reprod 2012; 27: 1343–50. 25. Levron Y, Dviri M, Segol I, et al. The ‘immunologic theory’ of preeclampsia revisited: a lesson from donor oocyte gestations. Am J Obstet Gynecol 2014; published online March 19. DOI:10.1016/j. ajog.2014.03.044.
File đính kèm:
- sanh_con_song_sau_ghep_tu_cung.pdf