Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy văn bản nghị luận trung đại trong chương trình Ngữ Văn 11

PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VĂN BẢN

 NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Ngữ Văn là môn học gắn với cái đẹp. Học Ngữ Văn (nhất là phân môn Giảng văn) là học cách khám phá cái đẹp của thế giới tự nhiên, của cuộc sống và con người. Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng bộ môn, cho nên mối quan tâm của giáo viên Ngữ Văn nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ, khơi gợi niềm say mê hứng thú học tập bộ môn Ngữ Văn cho học sinh.

 

doc 18 trang phuongnguyen 10040
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy văn bản nghị luận trung đại trong chương trình Ngữ Văn 11", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy văn bản nghị luận trung đại trong chương trình Ngữ Văn 11

Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy văn bản nghị luận trung đại trong chương trình Ngữ Văn 11
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT NGUYỄN HỮU CẢNH
	Mã số: ................................
	 (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
 VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11
	Người thực hiện: NGÔ XUÂN SƠN
Lĩnh vực nghiên cứu: 
- Quản lý giáo dục: 1
- Phương pháp dạy học bộ môn: NGỮ VĂN 1
- Lĩnh vực khác: ................................................. 1
	Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN 1 Mô hình	1 Phần mềm	1 Phim ảnh	1 Hiện vật khác
Năm học: 2011- 2012
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: NGÔ XUÂN SƠN
2. Ngày tháng năm sinh: 22- 7 -1978
3. Giới tính: Nam
4. Địa chỉ: 29/142B, Khu phố 3, Phường Tân Mai, Biên Hòa, Đồng Nai
5. Điện thoại: 0613834289 (CQ)/ 0613812913 (NR); ĐTDĐ: 0909383022
6. E-mail: xuanson@nhc.edu.vn
7. Chức vụ: giáo viên tổ Ngữ văn.
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh.
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị cao nhất: Cử nhân.
- Năm nhận bằng: 2000.
- Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn.
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC	
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy môn Ngữ văn.
- Số năm có kinh nghiệm: 12 năm.
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
CHUYÊN ĐỀ NGOẠI KHÓA VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VĂN BẢN
 NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngữ Văn là môn học gắn với cái đẹp. Học Ngữ Văn (nhất là phân môn Giảng văn) là học cách khám phá cái đẹp của thế giới tự nhiên, của cuộc sống và con người. Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng bộ môn, cho nên mối quan tâm của giáo viên Ngữ Văn nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ, khơi gợi niềm say mê hứng thú học tập bộ môn Ngữ Văn cho học sinh. 
Trước đây, văn bản nghị luận ít được đưa vào chương trình phổ thông do nhiều người cho rằng đây là thể loại thường đề cập đến những tư tưởng trừu tượng, diễn đạt khô khan nên không gây được sự hứng thú, hấp dẫn đối với học sinh.
Hiện nay, văn nghị luận đã được đánh giá đúng với vai trò, ý nghĩa đích thực của nó. Văn nghị luận không chỉ có ý nghĩa đối với những vấn đề lớn lao của đất nước, thời đại như công cuộc dựng nước, giữ nước, canh tân đất nước, mà còn rất gần gũi và có ý nghĩa trong đời sống công dân hiện nay. 
Xét theo tiêu chí nội dung luận bàn, người ta phân văn nghị luận thành hai thể:
- Văn chính luận (luận bàn về các vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức...) như Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh, Về luân lý xã hội ở nước ta (trích “Đạo đức và luân lí Đông Tây”) – Phan Châu Trinh, Tiếng mẹ đẻ, nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức – Nguyễn An Ninh
- Văn phê bình văn học (luận bàn các vấn đề văn học nghệ thuật) như Một thời đại trong thi ca – Hoài Thanh, Mấy ý nghĩ về thơ – Nguyễn Đình Thi.
Xét theo tiêu chí hình thức thể loại, người ta chia ra: văn nghị luận thời trung đại (chiếu, cáo, hịch, bình sử, điều trần, ...) và văn nghị luận hiện đại (tuyên ngôn, lời kêu gọi, phê bình, xã luận....)
Mặc dù khác nhau về thời điểm ra đời, về thể loại, về nội dung luận bàn nhưng các văn bản nghị luận đều có điểm chung là bộc lộ tính trí tuệ uyên bác, tình cảm sâu sắc của người viết.
Sau đây là bảng hệ thống các văn bản nghị luận phần văn học Việt Nam trong chương trình Ngữ văn (ban cơ bản) ở trường THPT:
STT
Văn bản
Tác giả
Thể loại
Lớp
01
Đại cáo bình Ngô 
Nguyễn Trãi
Cáo
10
02
Tựa “Trích diễm thi tập”
Hoàng Đức Lương
Tựa
10
03
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia (trích “Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba”)
Thân Nhân Trung
Bia
10
04
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (trích “Đại Việt sử kí toàn thư”)
Ngô Sĩ Liên
Sử kí trung đại
10
05
Thái sư Trần Thủ Độ (trích “Đại Việt sử kí toàn thư”)
Ngô Sĩ liên
Sử kí trung đại
10
06
Chiếu cầu hiền 
Ngô Thì Nhậm
Chiếu
11
07
Xin lập khoa luật (trích “Tế cấp bát điều”)
Nguyễn Trường Tộ
Điều trần
11
08
Về luân lý xã hội ở nước ta (trích “Đạo đức và luân lí Đông Tây”)
Phan Châu Trinh
Văn nghị luận hiện đại
11
09
Tiếng mẹ đẻ, nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức 
Nguyễn An Ninh
Văn nghị luận hiện đại
11
10
Một thời đại trong thi ca (trích)
Hoài Thanh
Văn nghị luận hiện đại
11
11
Tuyên ngôn Độc lập
Hồ Chí Minh
Tuyên ngôn
12
12
Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Phạm Văn Đồng
Văn nghị luận hiện đại
12
13
Mấy ý nghĩ về thơ (trích)
Nguyễn Đình Thi
Văn nghị luận hiện đại
12
14
Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (trích “Đến hiện đại từ truyền thống”)
Trần Đình Hượu
Văn nghị luận hiện đại
12
Các văn bản nghị luận thường khô khan, đặc biệt các tác phẩm nghị luận trung đại ra đời trong bối cảnh văn hoá, xã hội phong kiến nên chịu sự chi phối của hệ tư tưởng chính thống, quan niệm văn chương của thời đại nên học sinh tiếp nhận tác phẩm rất khó khăn. Khi giảng dạy, giáo viên cần kết hợp nhiều phương pháp dạy học tích cực để học sinh trở thành chủ thể tiếp nhận trong việc tìm hiểu cái hay, cái đẹp của tác phẩm về nội dung, quan điểm tư tưởng và hình thức nghệ thuật. 
Trong phạm vi của đề tài, tôi xin trao đổi về “Phương pháp giảng dạy văn bản nghị luận trung đại trong chương trình Ngữ Văn 11”.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận:
Theo lý luận dạy học cộng tác của G.S Nguyễn Ngọc Quang, quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn gồm: khái niệm khoa học, học và dạy.“Học là quá trình tự điều khiển việc chiếm lĩnh khái niệm khoa học dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên”. Còn “dạy là sự điều khiển tối ưu hóa quá trình người học chiếm lĩnh nội dung học (...) làm sao cho người học đi tới đích là chiếm lĩnh khái niệm khoa học một cách tự giác, tích cực, tự lực” (Bản chất quá trình dạy học - sách GD học đại học Hà Nội, năm 2000).
Mỗi giáo viên khi giảng dạy các tiết đọc văn đều vận dụng sáng tạo, linh hoạt, kết hợp nhiều phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. 
Mỗi tác phẩm văn chương có một số yếu tố nghệ thuật đặc biệt quan trọng theo đặc trưng thể loại vì đó là một chỉnh thể nghệ thuật, nghĩa là một thế giới hình tượng bao gồm nhiều yếu tố quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau, tạo cho tác phẩm tính chỉnh thể sống động và thống nhất. Do hình tượng văn học mang tính cảm tính, cụ thể, khái quát nên tư duy người cảm thụ là tư duy tổng hợp. Khi giảng dạy, giáo viên cần định hướng cho học sinh cảm nhận, khám phá, chiếm lĩnh được hình tượng nghệ thuật và giá trị nội dung, tư tưởng, cái đẹp của hình thức nghệ thuật văn bản.
Còn nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật). Là sản phẩm của tư duy lô gíc, văn nghị luận“viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, kinh tế, triết học, văn hóa Mục đích của văn nghị luận là bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định Đặc trưng cơ bản của văn nghị luận là tính chất luận thuyết – khác với văn học nghệ thuật, văn chương nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lý lẽ” (Từ điển thuật ngữ Văn học - Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) - NXB Đại học Quốc gia, 1999). Khi giảng dạy các văn bản nghị luận, giáo viên không chỉ giúp học sinh khám phá bằng lí trí những tư tưởng, đạo lí  được thể hiện mà quan trọng hơn là phải giúp học sinh cảm nhận được vẻ đẹp ấy bằng cả tâm hồn. 
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Vẻ đẹp của văn nghị luận được bộc lộ ở sự sâu sắc của tư tưởng, sự mạch lạc trong lập luận, sự chặt chẽ trong lí lẽ, sự xác thực trong chứng cứ, sự chính xác, hàm súc trong ngôn từ, giọng điệu thuyết phục. Dạy văn nghị luận giáo viên cần nắm vững đặc trưng của từng thể loại, khai thác những thông tin ngoài văn bản, liên văn bản như tiểu sử tác giả, ngữ cảnh sản sinh văn bản, so sánh các văn bản cùng thể loại, cùng đề tài để soi chiếu vào nội dung tác phẩm, góp phần giải mã các lớp ý nghĩa tiềm ẩn trong văn bản.
Sau đó phân tích văn bản dựa trên yêu cầu chung của văn nghị luận (thao tác quan trọng nhất):
Về nội dung: phải nêu rõ vấn đề đang được bàn tới; phân tích mặt đúng, mặt sai, mặt lợi, mặt hại; chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến nhận định của người viết và quan điểm, thái độ tư tưởng, tình cảm của tác giả. 
Về hình thức: hệ thống luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, lập luận sắc bén, lời văn sinh động, thuyết phục 
Cuối cùng đánh giá được những đóng góp cơ bản của tác phẩm về nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật biểu hiện.
2.1. Tìm hiểu những điều ngoài văn bản có liên quan đến tác phẩm:
    Nếu người tiếp nhận không hiểu ngữ cảnh sẽ không cắt nghĩa được mạch ngầm văn bản, đặc biệt là các văn bản trung đại thường có tính chất giáo huấn, ngôn chí sâu sắc (vì có sự gián cách về thời gian và môi trường văn hóa tiếp nhận). Soi chiếu vấn đề từ ngoài văn bản kết hợp với góc nhìn bên trong văn bản sẽ mang lại một hiệu ứng tổng hợp, toàn diện đối với thông điệp tác giả muốn hướng tới người tiếp nhận.
2.1.1.Văn bản “Chiếu cầu hiền” – Ngô Thì Nhậm.
Với văn bản nghị luận khá đặc biệt như “Chiếu cầu hiền” cần lưu ý: nội dung tư tưởng, chủ trương cầu hiền tài (tập hợp trí thức) để xây dựng đất nước là của vua Quang Trung, một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử nước ta nhưng người soạn thảo văn bản này là Ngô Thì Nhậm nên trước khi học văn bản, GV yêu cầu học sinh thảo luận nhóm ngoài giờ học (4 nhóm) với đề tài “Vai trò của vua Quang Trung trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và triều đại Tây Sơn”, thời gian chuẩn bị cho đề tài là 7 ngày.
Đến tiết học văn bản “Chiếu cầu hiền”, 2 nhóm sẽ cử đại diện lên thuyết trình ngắn gọn về đề tài, các nhóm còn lại sẽ nhận xét, bổ sung.
Mục đích của việc thuyết trình là giúp học sinh hiểu được tư tưởng, tài năng và tấm lòng của một vị vua sáng. Trong quá trình tìm tư liệu thì học sinh sẽ nắm được hoàn cảnh ra đời của “Chiếu cầu hiền” để hiểu được vì sao vua Quang Trung lại quan tâm tới vấn đề cầu hiền, tầm quan trọng và ý nghĩa của việc cầu hiền tại thời điểm bàn luận. Sau đó giáo viên chốt lại vấn đề thuyết trình thật ngắn gọn.
- Ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn lật đổ chế độ phong kiến nhà Nguyễn ở Đàng trong, đánh tan quân xâm lược Xiêm và thế lực của Nguyễn Ánh (1784 – 1785), lãnh đạo nghĩa quân lật đổ chế độ phong kiến họ Trịnh ở Đàng ngoài, xóa bỏ triều đại phong kiến nhà Lê mục nát (1786). Trước sự xâm lược của phong kiến Mãn Thanh, ngày 22-12-1788 (25-11 Mậu Thân), tại kinh đô Phú Xuân (Huế), Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, thống lĩnh quân đội mở cuộc hành quân thần tốc ra Thăng Long. Đến đầu xuân Kỷ Dậu (1789), quân đội của Hoàng đế Quang Trung đã quét sạch 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh ra khỏi bờ cõi, khôi phục nền độc lập, thống nhất của nước ta làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử. Chiến thắng Đống Đa và những chiến công hiển hách khác luôn gắn liền với tên tuối của người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài Quang Trung - Nguyễn Huệ. Từ 1788-1792, vua Quang Trung đã ban 4 chiếu quan trọng: “Chiếu cầu hiền, Chiếu dụ các quan văn võ triều Lê, Chiếu lập học và Chiếu mở khoa thi”. Cả 4 chiếu này đều hướng đến lựa chọn, bồi dưỡng người tài làm nền tảng của triều đại.
- Không phải ngẫu nhiên mà Quang Trung có thể tập hợp quanh mình những trí thức tài năng, thành tâm theo đuổi sự nghiệp “giúp dân dựng nước”. Chính sách cầu hiền của Quang Trung tranh thủ được sự đóng góp của nhiều sĩ phu yêu nước có tư tưởng tích cực, tiến bộ trong xã hội đương thời. Thái độ cầu hiền chân thành, mềm mỏng của Quang Trung thể hiện rõ nhất là đối với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp - thiếu một tấm lòng chân thành, thiếu một suy nghĩ sâu xa, có lẽ Quang Trung đã không thể đưa Nguyễn Thiếp trở lại với đời và đem hết tài năng ra phục vụ đất nước. Quang Trung ra lệnh sử dụng chữ Nôm làm văn tự chính thức trong các chiếu chỉ và giao cho Viện trưởng Sùng chính viện – Nguyễn Thiếp – tổ chức dịch các sách vở kinh điển từ Hán sang Nôm. Ông còn ghi nhận công lao, trọng dụng nhiều hiền tài khác như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, .. Với chính sách cầu hiền, Quang Trung đã tập hợp sức mạnh toàn dân tộc làm nên những trang sử hào hùng của thế kỉ XVIII. 
Mặt khác, người viết “Chiếu cầu hiền” là Ngô Thì Nhậm nên giáo viên cần nhấn mạnh để học sinh hiểu rằng Ngô Thì Nhậm làm quan dưới triều Lê - Trịnh. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh "cầu hiền" tìm kiếm quan lại của triều cũ. Thời điểm này cả vua Lê, chúa Trịnh đều đã sụp đổ thì Ngô Thì Nhậm cùng vài trí thức có tư tưởng tiến bộ ra làm quan cho triều Tây Sơn. Ông có nhiều đóng góp cho triều Tây Sơn, đặc biệt soạn thảo nhiều văn bản giấy tờ quan trọng.
Tiếp đó, học sinh trình bày hoàn cảnh ra đời của “Chiếu cầu hiền”: Sau khi Lê Chiêu Thống và tàn quân chạy theo Tôn Sĩ Nghị, triều Lê sụp đổ. Trước sự kiện trên, một số bề tôi của nhà Lê hoặc mang nặng tư tưởng trung quân, hoặc sợ hãi nên nhiều người trốn tránh, hoặc đi ở ẩn Khát vọng xây dựng một Nhà nước hùng mạnh về mọi mặt đã thôi thúc Quang Trung chú ý đến vai trò quan trọng của giới nho sĩ, trí thức. Quang Trung giao cho Ngô thì Nhậm thay mình viết “Chiếu cầu hiền” nhằm mục đích thuyết phục các danh sĩ Bắc Hà hiểu được nhiệm vụ xây dựng đất nước mà triều Tây Sơn đang dự kiến thực hiện để mời họ ra cộng tác với nhà Tây Sơn.
2.1.2. Văn bản “Xin lập khoa luật” (trích “Tế cấp bát điều”) – Nguyễn Trường Tộ:
Giáo viên giao các nhóm thảo luận ngoài giờ học (4 nhóm) với đề tài “Tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ”, thời gian chuẩn bị cho đề tài là 5 ngày.
Đến tiết học văn bản “Xin lập khoa luật”, 2 nhóm cử đại diện lên thuyết trình ngắn gọn về đề tài, các nhóm còn lại sẽ nhận xét, bổ sung.
Mục đích của việc thuyết trình là giúp học sinh hiểu được tư tưởng, tấm lòng yêu nước của Nguyễn Trường Tộ. Giáo viên chốt lại vấn đề thuyết trình thật ngắn gọn.
- Tầm nhìn xa trông rộng và tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ rất đáng trân trọng, bộc lộ lòng yêu nước của một trí thức có tư tưởng tiến bộ muốn đem tất cả sức lực, trí tuệ của mình cống hiến cho đất nước. Gần 60 bản di thảo của ông bộc lộ sự am hiểu sâu sắc trên nhiều lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, quốc phòng, ngoại giao. Ông đề nghị trong hoạt động giáo dục phải có các môn học thiết thực như khoa nông nghiệp, khoa địa lý, khoa thiên văn  Ví dụ ngành nông chính, sau khi đã xác định tầm quan trọng của nông nghiệp, ông kiến nghị xuất bản bộ sách “Nông chính toàn thư” ghi chép tất cả những kinh nghiệm hay trong dân gian cũng như ở các nước về trồng cấy, chăn nuôi, chế tạo công cụ. Đề nghị lập Bộ canh nông chăm lo phát triển nông nghiệp, cử quan chuyên trách về nông nghiệp khảo cứu đất đai, đặc biệt phải dạy cho dân biết trồng cấy, chăn nuôi. Ông đề nghị phải lo trồng rừng để phòng chống lũ lụt, giao đất cho dân trồng cấy, chăm sóc.
Đặc biệt, Nguyễn Trường Tộ đề xướng việc dùng Quốc âm trong học tập và giảng dạy. Ông khẳng định “Nước nào cũng có chữ củ ... iến rộng lớn này, há trong đó không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?” vì trọng trách quốc gia không chỉ một mình vua gánh vác được. Như vậy, tác giả đề cao vai trò của hiền tài trong việc trị nước; mặt khác lại đánh vào tâm lý, khơi gợi lòng tự trọng của họ. Lời văn nhẹ nhàng mà lí lẽ, lập luận thì sắc sảo, có sức thuyết phục cao vừa lay động chí, vừa chuyển tâm ý của người hiền tài. Hòa quyện trong mỗi lời văn là tình và lí: một bên là sự cần thiết của nước nhà, một bên là tấm lòng ưu ái của nhà vua dành cho các bậc hiền tài.
Đoạn 3,4 có chung một cấu trúc: kể, liệt kê thực trạng để tìm cách khơi gợi, kích động những người hiền tài. Từ đó kết đoạn là những câu hỏi tu từ xoáy sâu, nhấn mạnh, khích lệ họ hãy nhanh chóng ra giúp dân giúp nước. Giọng điệu linh hoạt, khi mạnh mẽ (gợi cái tầm thường trong cuộc sống ẩn dật), khi thì lắng lại, khiêm nhường, thành tâm; khi thì khích lệ, cổ vũ người hiền ra giúp chính quyền buổi đầu
Phần 3 (đoạn 5, 6) nêu lên chính sách cầu hiền cụ thể, công bằng, mở rộng cửa cho người hiền giúp vua, giúp nước.
Đối với người có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, lời nói nào dùng được thì cất nhắc, không kể thứ bậc, không dùng thì gác lại không bắt tội. Đối với người có nghề hay nghiệp giỏi, cho phép quan văn, quan võ tiến cử, tuỳ tài sử dụng. Đối với những người tài năng còn bị che kín thì dâng sớ tự tiến cử
Quan điểm về hiền tài của vua Quang Trung thật tiến bộ, hợp lòng dân, tạo con đường rộng mở cho người tài ra phò vua trị nước.
Lời kêu gọi ở đoạn 6 của tác giả sôi nổi, nhiệt thành nhấn mạnh lại cơ hội lập danh, lập thân của người hiền thực sự đã đến làm nức lòng hiền tài bốn bể. 
Như vậy, trong văn nghị luận, lí lẽ, hình ảnh, cảm xúc và giọng điệu thường hòa quyện chặt chẽ đem lại sự thuyết phục cả về lý trí và tình cảm đối với người đọc, người nghe. "Chiếu cầu hiền" đã kích thích niềm tự tôn, tự hào của các nhân tài, động viên họ đem đức tài ra giúp dân, giúp nước. Có thể nói vua Quang Trung đã không nhầm khi đánh giá cao năng lực và giao cho Ngô Thì Nhậm trọng trách chấp bút thay mình để cầu hiền trong thiên hạ.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi thảo luận nhóm:
Bài học mà chúng ta rút ra được từ nghệ thuật ứng xử của vua Quang Trung và Ngô Thì Nhậm?
Bài học về cách ứng xử ở đời: lấy chí để thuyết phục chí, lấy tâm để thuyết phục tâm, lấy sự công bằng, dân chủ để thuyết phục nhân, đây cũng là nghệ thuật ứng xử của con người trong mọi thời đại.
Hoặc có thể tạo ra tình huống có vấn đề cần so sánh, đối chiếu:
Sau khi học “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” – Thân Nhân Trung (lớp 10) và “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm, em nhận xét về điểm giống và khác giữa hai văn bản ?
Để giải quyết tình huống này, học sinh nêu những nhận xét, đánh giá riêng. Từ đó học sinh nhận thức rằng dù ở bất cứ thời đại nào, nhân tố con người phải luôn được coi trọng, những nhân tài cần được tạo mọi cơ hội để có thể đem hết sức mình cống hiến cho đất nước.
2.2.2. Văn bản “Xin lập khoa luật”:
Giáo viên cần phân tích hệ thống luận điểm và cách lập luận của bài điều trần học sinh hiểu được tầm quan trọng của luật đối với sự nghiệp canh tân đất nước và thấy được lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trường Tộ.
Giáo viên có thể nêu câu hỏi gợi dẫn để xác định luận điểm: 
Tại sao Nguyễn Trường Tộ lại đề xuất “Xin lập khoa luật” ?
 Luận điểm 1 "Bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nướcAi giỏi luật sẽ được làm quan" để nói về tầm quan trọng của “luật”.
Luận điểm 2 "Quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật" chỉ ra tác dụng của luật.
Việc Nguyễn Trường Tộ đề xuất với triều đình "lập khoa luật" đã nói lên sự quan tâm của ông đến "kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia" để khẳng định khả năng bao quát của luật đối với xã hội, khẳng định vai trò của luật đối với việc trị dân của vua có nghĩa là luật bao trùm cả vấn đề đạo đức và trách nhiệm.
Tác giả cũng đề cập đến vấn đề dân chủ trong việc thi hành luật pháp, chỉ có nhà nước pháp quyền mới đảm bảo nền dân chủ công bằng xã hội. Muốn làm tốt điều này thì "phàm những ai đã nhập ngạch Bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao giờ bị biếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc. Như vậy là để giúp cho các vị này được thong dong trong việc chấp hành luật pháp không bị một bó buộc nào cả". Đây chính là thể hiện rõ quan điểm tam quyền phân lập. Giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải đảm bảo tính độc lập khách quan “thế là để cho dân chúng thấy rõ đạo công bằng".
Và giáo viên có thể nêu tình huống có vấn đề so sánh, đối chiếu:
Theo em, quan điểm này của Nguyễn Trường Tộ có gì khác so với tư tưởng pháp trị phong kiến lúc bấy giờ? Trong xã hội ngày nay, nhà nước ta chủ trương thực hiện đường lối chính sách pháp luật như thế nào? 
Với tình huống này, học sinh dựa vào những hiểu biết về vấn đề hành pháp ở thời phong kiến để rút ra nhận xét. Sau đó liên hệ xã hội hiện tại để nhận thấy tư tưởng tiến bộ vượt thời đại của Nguyễn Trường Tộ.
Nguyễn Trường Tộ nhấn mạnh sự bình đẳng của luật pháp. Quan và dân, quân và thần đều bình đẳng trước pháp luật, đây là điểm tiến bộ rõ rệt so với tư tưởng pháp trị phong kiến vì ông chú ý đến quyền lợi của nhân dân trước pháp luật. Từ đó học sinh nhận thấy hiện nay nhà nước ta luôn nêu cao khẩu hiệu "sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật". Nhà nước và nhân dân ta đang ngày càng nêu cao vai trò trách nhiệm của ngành tư pháp là phải xử đúng luật, đúng người, đúng tội, tránh xử oan sai. 
Phần 2 (đoạn 2, 3) tác giả khẳng định vai trò của luật. Giáo viên có thể nêu câu hỏi gợi mở thảo luận nhóm:
Nguyễn Trường Tộ dùng đạo nghĩa của Nho gia “trung hiếu”, “lễ nghĩa” để làm điểm tựa cho lập luận nhưng ông phê phán các sách Nho chỉ nói suông trên giấy”, rồi lại kết bằng lời của Khổng Tử “Ta chưa hề thấy ai nhận được lỗi của mình mà biết tự trách phạt” và “Chép những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm việc”. Phương pháp lập luận của ông nhằm mục đích gì?
Nho gia giáo dục con người bằng chuẩn mực đạo đức, bằng những tấm gương đạo đức của quá khứ nên nặng tính lí thuyết suông, không có đủ khả năng làm cho mọi người tự giác sửa mình. Đưa ra những nhược điểm của việc trị dân bằng lí thuyết nhà nho, tác giả không nhằm hướng đến mục đích phê phán sách Nho mà để khẳng định luật cần thiết đối với sự ổn định của xã hội. 
Cuối mỗi điều phê phán, Nguyễn Trường Tộ kết lại bằng lời của Khổng Tử khiến cho lí lẽ của ông càng thuyết phục người nghe, nhất là các nhà nho vốn rất bảo thủ. Đó là phương pháp “gậy ông đập lưng ông”. Cách lập luận của tác giả vừa sắc sảo vừa chặt chẽ, vừa ngắn gọn, vừa mang tính chiến đấu mạnh mẽ. “Nguyễn Trường Tộ () đem hình thức đối thoại vào bài văn, luôn luôn đặt giả thuyết, đặt câu hỏi để lật lại vấn đề, và tự mình phản bác cặn kẽ những câu hỏi mình nêu ra, làm cho vấn đề càng thêm sáng tỏ. Nhưng điều quan trọng hơn là ông đã nghị luận bằng tất cả nhiệt huyết và lòng tin vào chân lí () Chính phong cách chính luận – trữ tình này đã tạo nên một giọng điệu riêng, một khả năng cuốn hút đặc biệt đối với đối tượng mà ông cần thuyết phục” (Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi).
Hoặc giáo viên có thể tạo ra tình huống có vấn đề dung hòa:
 Theo em, làm thế nào để vừa có thể vừa bảo vệ đạo làm người vừa dùng luật?
Cần xây dựng nhà nước pháp quyền, đề cao tư tưởng pháp trị, Trong xã hội vấn đề khen thưởng, xử phạt phải kịp thời, đúng mức thì mới có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của xã hội, sự tiến bộ của mọi người. 
Liên hệ với hiện tại, học sinh sẽ nhận thấy nhà nước ta đang thực hiện tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, các cơ quan lập pháp đang soạn thảo thêm các điều luật và chỉnh sửa luật cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong thời đại mới. 
Phần 3 (đoạn 4), Nguyễn Trường Tộ đã lí giải thấu đáo vai trò của luật, đồng thời giải quyết triệt để những nghi ngờ về khả năng của luật. Ông dùng lập luận để bác bỏ quan điểm “luật chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi”. Ông khẳng định “trái luật là tội, giữ đúng luật là đức”, nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa pháp trị và đức trị "Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà xử sự thì mọi quyền, pháp đều là đạo đức”. Để khẳng định, tác giả đã dùng các câu nghi vấn tu từ “có đức nào lớn hơn chí công vô tư không ?”. Nguyễn Trường Tộ đề cao việc con người sống đúng luật pháp, làm theo luật pháp là đức trời. Ông viết “Chí công vô tư là đức trời. Trong luật cái gì cũng công bằng hợp với đức trời, như vậy mà không đáng gọi là đạo đức tinh vi sao?”.
Đoạn trích “Xin lập khoa luật” là một văn bản nghị luận chặt chẽ, thấu tình đạt lí. “Văn chương của Nguyễn Trường Tộ là lối văn chính luận, vừa phải bảo đảm sự chặt chẽ, sắc bén, khúc chiết trong phân tích, trong dẫn chứng nhưng cũng vừa thấm đậm cảm hứng trữ tình của tác giả, nên có sức thuyết phục rất mạnh. Những lá thư điều trần của ông rất dài, bàn về rất nhiều vấn đề cùng một lúc, nhưng văn phong mạch lạc, đâu ra đấy, từng vấn đề được bàn hết lẽ và dứt điểm, lại đều có chứng minh thực tiễn” (Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi). 
Để kết thúc bài học, giáo viên có thể nêu câu hỏi gợi mở để học sinh thảo luận nhóm:
“Văn bản “Xin lập khoa luật” có giá trị như thế nào trong xã hội ta ngày nay?”.
Đến nay bản điều trần vẫn còn nguyên giá trị, đó là những sách lược trị nước đúng đắn để cho các cấp chính quyền nghiên cứu vận dụng, để cho nhân dân điều chỉnh hành vi bản thân, sống theo hiến pháp và pháp luật. Được như vậy thì trật tự xã hội sẽ đi vào kỉ cương, chính lệnh của quốc gia sẽ được thực hiện nghiêm minh và đất nước sẽ phát triển, cuộc sống của nhân dân sẽ yên bình hạnh phúc.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI 
 - Học sinh hứng thú tiếp nhận văn bản, có ý thức tự giác sưu tầm tài liệu, đọc sách và chủ động đưa ý kiến của mình ra đối thoại trước lớp. Tính thời sự của vấn đề được học sinh tự đánh thức, tránh được lối dạy áp đặt một chiều từ phía giáo viên.
- Học sinh được tìm hiểu, củng cố thêm về kiến thức lịch sử, có kĩ năng đọc - hiểu các văn bản nghị luận theo thể loại đồng thời rèn luyện thêm về kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận.
- Học văn nghị luận giúp học sinh hình thành những quan điểm đúng đắn về chính trị, xã hội; hình thành năng lực tư duy và thành công trong giao tiếp. Hơn nữa, học sinh có năng lực phân tích, tổng hợp khám phá vấn đề có sức thuyết phục trên cơ sở lí lẽ chặt chẽ, căn cứ xác thực. 
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
* Đối với giáo viên:
- Vai trò người giáo viên cực kì quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp thích hợp để giảng dạy. Tùy vào nội dung luận bàn và hình thức thể hiện của văn bản, đặc điểm tiếp nhận của học sinh, thời gian tiếp nhận mà giáo viên vận dụng cách phân tích văn bản kết hợp với phương pháp dạy học nêu vấn đề, thảo luận nhóm.
- Đối với những tình huống có vấn đề, học sinh dựa trên kiến thức bài học và kiến thức của bản thân để tìm những giải pháp. Giáo viên không nên có kết luận cứng nhắc với tình huống. Kết luận nên ở dạng là một gợi ý có thể bao quát được những hướng giải quyết mà học sinh đưa ra. Từ đó, học sinh có thể tranh luận với nhau về những khả năng cũng như tính khả thi của những phương án có thể lựa chọn. 
- Giáo viên cần gợi ý cho học sinh về những tư liệu cần hoặc những địa chỉ website để các em có nguồn tư liệu chuẩn xác.
- Giáo viên tích lũy vốn tri thức về tác phẩm, về lịch sử, các vấn đề thời sự, xã hội có liên quan để giúp các em nhận diện được vấn đề nghị luận cũng như hệ thống lập luận của văn bản. 
* Đối với học sinh:
-  Có nhu cầu bộc lộ suy nghĩ cá nhân trước tập thể. Nên chủ động tham gia thảo luận nhóm ngoài giờ học để có những hiểu biết về tác giả, bối cảnh văn học, hoàn cảnh lịch sử - thời đại ra đời tác phẩm.
- Cần đọc – hiểu văn bản trước khi tiến hành tìm hiểu ở lớp nhằm khám phá văn bản bằng cả lí trí, tâm hồn. 
V. KẾT LUẬN
Sự hấp dẫn của một tác phẩm nghị luận là do nhiều yếu tố tạo nên trong đó luận điểm và cách lập luận là yếu tố quan trọng. Dạy văn nghị luận giáo viên cần bám sát văn bản, nắm vững đặc trưng cơ bản của từng thể loại. Trong thực tế, việc giảng dạy cần có sự kết hợp nhiều phương pháp, phụ thuộc vào từng tình huống giảng dạy cụ thể nhằm giúp học sinh nắm vững bài học, phát triển tư duy; đồng thời vừa bồi dưỡng những tư tưởng, tình cảm cao quý cho học sinh. Nếu có sự đầu tư đúng mực, bài giảng sẽ đạt được hiệu quả.
Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài, người viết chỉ nêu một vài kinh nghiệm mà bản thân tích lũy trong quá trình giảng dạy. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quý Thầy, Cô. 
Chân thành cảm ơn! 
 NGƯỜI THỰC HIỆN
Ngô Xuân Sơn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo khoa Ngữ văn 11(tập 1) - Nhiều tác giả - NXB Giáo dục, 2009.
Sách giáo viên Ngữ văn 11 (tập 1) - Nhiều tác giả - NXB Giáo dục, 2009.
Kĩ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ Văn 11 – Nguyễn Kim Phong (Chủ biên), NXB 2007.
Từ điển thuật ngữ Văn học - Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) – NXB Đại học Quốc gia, 1999. 
Vẻ đẹp của văn nghị luận - Đỗ Ngọc Thống - Văn học và Tuổi trẻ số 4, 2005.
Những lưu ý khi đọc văn nghị luận – Phan Thị Thanh Vân.
 Phương pháp dạy tích hợp chùm văn bản nghị luận thời trung đại ở chương trình Ngữ văn lớp 11 – Phan Quốc Thanh.
Một vài suy nghĩ về việc dạy văn nghị luận – Bùi Thị Vui.
Các nguồn tư liệu về Nguyễn Huệ, Nguyễn Trường Tộ trên các báo điện tử.
SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
Đơn vị: THPT Nguyễn HữuCảnh
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Biên Hòa, ngày 30 tháng 10 năm 2011
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2011- 2012
–––––––––––––––––
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11
Họ và tên: NGÔ XUÂN SƠN	Chức vụ: giáo viên.
Đơn vị: THPT Nguyễn Hữu Cảnh.
Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác)
- Quản lý giáo dục	1	- Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ Văn 1
- Phương pháp giáo dục 1	- Lĩnh vực khác: 1
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị 1 Trong Ngành 1
Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây)
Có giải pháp hoàn toàn mới 	1
Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 	1
Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây)
Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 1
Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 1
Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 1
Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả 1
Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây)
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: 	 	Tốt 1	 Khá 1	Đạt 1
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: 	Tốt 1	 Khá 1	Đạt 1
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: 	 Tốt 1	 Khá 1	Đạt 1
 XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN 
 TỔ TRƯỞNG HIỆU TRƯỞNG	
 Nguyễn Thị Mai Lan Phan Quang Vinh 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_giang_day_van_ban_nghi_lua.doc