Sáng kiến kinh nghiệm: Phó Hiệu trưởng với vai trò quản lý công tác Hoạt động ngoài giờ trong trường phổ thông

1.2 Đối tượng và phạm vi đề tài

 Việc giáo dục kỹ năng sống cần được tiến hành ở mọi cấp học, tùy theo lứa tuổi, giới tính . chúng ta cần có những vấn đề khác nhau để đưa vào nội dung giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh.

 Phạm vi đề tài nay chỉ giới hạn trong lứa tuổi phổ thông trung học, vì đây là lứa tuổi có nhiều biến đổi về tâm sinh lý, và cũng vì đây là đối tượng chủ yếu trong nhà trường phổ thông.

 

doc 23 trang phuongnguyen 5760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Phó Hiệu trưởng với vai trò quản lý công tác Hoạt động ngoài giờ trong trường phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm: Phó Hiệu trưởng với vai trò quản lý công tác Hoạt động ngoài giờ trong trường phổ thông

Sáng kiến kinh nghiệm: Phó Hiệu trưởng với vai trò quản lý công tác Hoạt động ngoài giờ trong trường phổ thông
 1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài:
 Ngày nay bạo lực học đường đang là mối quan tâm không riêng của ngành giáo  dục, mà đã trở thành vấn đề cả xã hội đều phải lo lắng trăn trở. Vấn đề ngăn  chặn bạo lực học đường được bàn đến trong cả phiên họp của Quốc Hội, các  trường học, được mọi giới quan tâm.
 Bất kỳ trường học nào cũng đều có không ít học sinh "chưa ngoan", thế thì chúng  ta đã làm gì để giáo dục những học sinh như thế này?! Áp dụng biện pháp nào để  có thể giúp cho những học sinh chưa ngoan này có thể trở thành học sinh phát  triển toàn diện.
 Bản thân là một giáo viên đồng thời là Phó Hiệu trưởng phụ trách công tác Hoạt động ngoài giờ, giáo dục đạo đức học sinh, với nhiều bức  xúc trước vấn nạn học sinh chưa ngoan trở thành học sinh cá biệt với sự bất lực  của cả gia đình, nhà trường và xã hội. Bản thân cũng chứng kiến không ít trường hợp học  sinh chưa ngoan được quan tâm giáo dục đúng mực đã trở thành những người  có nhiều đóng góp cho xã hội và cũng chính những em này, sau này đã trở về  trường nhiều hơn, biết ơn Thầy Cô giáo cũ nhiều hơn.
 Hy vọng rằng với những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn sẽ góp phần đáng kể vào  việc ngăn chặn bạo lực học đường, xây dựng thế hệ học sinh năng động, thân  thiện, phát triển toàn diện.
 Vấn đề con trẻ thiếu kỹ năng sống, thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỷ, vô  tâm,  thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân đang là những cản trở lớn  cho sự phát triển của thanh thiếu niên khiến không ít các bậc cha mẹ phải  phiền lòng vì con, trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay.
 Nhiều vị phụ huynh lo lắng trước tình trạng con của mình thiếu tự tin, luôn tỏ  ra  rụt rè khi có cơ hội thể hiện mình trước đám đông hoặc các cháu không  biết  cách xử lý tình huống dù là thật đơn giản như kêu gọi sự giúp đõ từ  người khác, tìm đường, định hướng, đi xe buýt,...
 Thêm nữa trước tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng thì kỹ  năng tự  bảo vệ mình cũng cần được coi trọng khi các nhóm trẻ xấu luôn lấy  sức mạnh cơ bắp hoặc đám đông để bắt nạt, ức hiếp các trẻ hiền, ngoan ,  ít nói....
 Nhiều em học sinh có cuộc sống khép kín với thực tại, đắm chìm trong thế  giới  ảo của Internet của thế giới game,... mà quên đi và đánh mất những  cơ hội kết  bạn , thể hiện những khả năng tiềm ẩn của mình, lo sỡ rụt rè khi  tiếp xúc với cộng đồng, xã hội.
 Trước những yêu cầu hết sức thiết thực, tôi mạn phép trình bày đề tài “ Phó Hiệu trưởng với vai trò quản lý công tác Hoạt động ngoài giờ trong trường phổ thông”.Với mong muốn chia sẻ cùng đồng nghiệp những kỹ năng sống phù hợp với sự phát triển của xã hội trên đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Hy vọng rằng với những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn sẽ góp phần đáng kể vào  việc ngăn chặn bạo lực học đường, xây dựng thế hệ học sinh năng động, thân  thiện, phát triển toàn diện. Nhằm đóng  góp phần  nào kinh nghiệm giáo dục cho con em chúng ta trở thành những  con người toàn  diện, sáng tạo hòa nhập cùng cộng đồng, và  có ích cho xã hội.
1.2 Đối tượng và phạm vi đề tài
 Việc giáo dục kỹ năng sống cần được tiến hành ở mọi cấp học, tùy theo lứa  tuổi, giới tính ... chúng ta cần có những vấn đề khác nhau để đưa vào nội dung  giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh.
 Phạm vi đề tài nay chỉ giới hạn trong lứa tuổi phổ thông trung học, vì đây là lứa  tuổi có nhiều biến đổi về tâm sinh lý, và cũng vì đây là đối tượng chủ yếu trong  nhà trường phổ thông.
2. PHẦN NỘI DUNG
Khái niệm kỹ năng sống 
 Kỹ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu  cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả.
(*) Theo WHO (1993) “Năng lực tâm lý xã hội là khả năng ứng phó một  cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng  là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khoẻ mạnh về mặt tinh  thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người  khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có  vai trò quan trọng trong việc phát huy sức khoẻ theo nghĩa rộng nhất về mặt  thể chất, tinh thần và xã hội. Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi  năng lực tâm lý xã hội này”.
(*) Theo UNICEF, giáo dục dựa trên Kỹ năng sống cơ bản là sự thay đổi  trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến  thức, thái độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức  (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng  vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như thế nào).
(*): trích dẫn trong sách Kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên – tác giả  Nguyễn Thị Oanh – Nhà xuất bản Trẻ
PHƯƠNG PHÁP HỌC CÁC MÔN KỸ NĂNG SỐNG
Thảo luận nhóm
· Các hoạt động kích thích tưởng tượng và động não
· Sắm vai
· Phân tích tình huống
· Trò chơi, bài hát, nghe nhạc,
· Các loại hình nghệ thuật: vẽ, múa
· Chia sẻ kinh nghiệm
· Thư giãn
· Thực tập
· Tham quan
NỘI DUNG CÁC MÔN KỸ NĂNG SỐNG
Cuộc sống của chúng ta có thể chia thành 3 mặt:
1. Thể chất/Sức khoẻ
2. Trí tuệ/Thực hành
3. Tình cảm/tinh thần
I/ Nhóm kỹ năng sống liên quan đến thể chất / sức khoẻ:
1. Chế độ dinh dưỡng
2. Dinh dưỡng cho trẻ từ 0 – 3 tuổi
3. Tư thế đúng
4. Phòng tránh một số bệnh thông thường
5. Ứng phó với cảm xúc
6. Ứng phó với stress
7. Sức khoẻ sinh sản
8. Tác hại của rượu.
9. Tác hại của thuốc lá.
10. Tác hại của ma tuý
11. HIV/AIDS
12. Sơ cấp cứu
13. Kỹ năng phòng tránh quấy rối/xâm hại tình dục
14. Phòng tránh các bệnh liên quan đến công việc văn phòng (đau vai, đau  lưng, mỏi mắt, nhức đầu)
15. Thư giãn
16. Phòng ngừa tai nạn cho trẻ
17. Những hành vi gây hại đến sức khoẻ
II. Nhóm Kỹ năng liên quan đến môi trường sống
1. Kỹ năng sử dụng hiệu quả tài nguyên môi trường
2. Chăm sóc bảo vệ môi trường sống
3. Phòng tránh thiên tai
4. Những hành vi gây hại đến môi trường sống
5. Phục hồi thiên tai dựa vào cộng đồng.
III/ Nhóm kỹ năng sống liên quan đến trí tuệ, thực hành
1. Kỹ năng khám phá bản thân
1. Nhận thức bản thân
2. Xây dựng chân dung thành đạt
3. Xây dựng nhân cách
4. Giá trị bản thân
5. Giá trị cuộc sống: 12 giá trị (tôn trọng, hòa bình, hợp tác, hạnh phúc, chân  thật, nhân đạo, tình thương, trách nhiệm, giản dị, khoan dung, tự do, đoàn  kết).
6. Xây dựng mục đích sống
7. Xây dựng động lực bản thân
8. Xây dựng lòng tự tin
9. Tư duy tích cực
IV.Nhóm kỹ năng làm việc nhóm
1. Kỹ năng làm việc nhóm
2. Xây dựng và phát triển tinh thần nhóm
3. Giải quyết các xung đột trong nhóm
4. Xây dựng mục tiêu và hoạt động nhóm
5. Lãnh đạo nhóm 
V. Nhóm kỹ năng phát triển nghề nghiệp
1. Kỹ năng sáng tạo
2. Kỹ năng ra quyết định
3. Kỹ năng giải quyết vấn đề
4. Kỹ năng lập kế hoạch
5. Kỹ năng quản lý thời gian
6. Xây dựng thói quen đúng giờ
7. Kỹ năng quản lý tiền bạc
8. Kỹ năng đàm phán
9. Kỹ năng diễn đạt.
10. Tạo động lực làm việc.
11. Khởi sự kinh doanh
12. Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn
13. Xin việc làm
14. Kỹ năng giới thiệu bản thân
15. Kỹ năng sử dụng các vật dụng, máy móc văn phòng: điện thoại, vi tính,  máy photocopy, máy scan, máy hủy giấy, máy lạnh,
16. Kỹ năng soạn thảo báo cáo, văn thư
17. Kỹ năng quản trị công việc
VI. Nhóm kỹ năng tổ chức đời sống gia đình
1. Kỹ năng quản lý tài chánh gia đình
2. Kỹ năng chăm sóc trẻ sơ sinh
3. Đặc điểm tâm lý của trẻ qua từng giai đoạn
4. Đặc điểm tâm lý nam nữ
5. Nghệ thuật hâm nóng tình yêu
6. Kỹ năng tổ chức đời sống gia đình.
7. Xây dựng tương lai cho con
8. Phòng tránh tai nạn cho trẻ
9. Chăm sóc sức khoẻ trong gia đình
10. Khi con phạm lỗi
11. Giáo dục giới tính và phòng tránh xâm hại tình dục cho con
12. Xây dựng sự tự tin và tính tự lập cho con trẻ
13. Đối thoại trong gia đình.
14. Giá trị gia đình
VII. Nhóm kỹ năng truyền thông giáo dục (sức khoẻ ban đầu,  HIV/AIDS, sức khoẻ sinh sản, môi trường, quyền trẻ em, phòng  chống buôn bán phụ nữ và trẻ em, giới và phát triển)
1. Kỹ năng truyền thông giáo dục
2. Kỹ năng tổ chức một buổi truyền thông giáo dục
3. Các loại hình truyền thông, những ưu và hạn chế của từng loại hình
4. Truyền thông giáo dục đồng đẳng
5. Các loại hình giáo dục
6. Giáo dục thay đổi hành vi
7. Giáo dục chủ động
8. Thực hành các phương pháp giáo dục chủ động: thảo luận nhóm, hỏi –  đáp, sắm vai, phân tích tình huống, trò chơi, động não)
VIII. Kỹ năng Rèn luyện trí nhớ
IX. Kỹ năng đọc và tham khảo tài liệu
Kỹ năng cần thiết cho học sinh trung học phổ thông: 
Theo Thạc sĩ giảng viên tâm lý học Nguyễn Hữu Long.10 nhóm kỹ năng  sống cần thiết cho khối học sinh trung học là:
1- Kỹ năng tự phục vụ bản thân
2- Kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời
3- Kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả
4- Kỹ năng điều chỉnh và quản lý cảm xúc
5- Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân
6- Kỹ năng giao tiếp và ứng xử
7- Kỹ năng hợp tác và chia sẻ
8- Kỹ năng thể hiện tự tin trước đám đông
9- Kỹ năng đối diện và ứng phó khó khăn trong cuộc sống
10- Kỹ năng đánh giá người khác. 
Chia thành bốn nhóm như sau:
(1) Nhóm kỹ năng tự nhận thức bản thân (tổ chức trò chơi Tôi là ai trong giờ  sinh hoạt giáo viên chủ nhiệm).
(2) Nhóm kỹ năng giao tiếp ứng xử (cách giao tiếp trong môi trường học  đường, với bố mẹ, người lớn tuổi).
(3) Kỹ năng hợp tác và chia sẻ (bài tập kỹ năng làm việc nhóm và giải quyết  xung đột trong học đường).
(4) Nhóm kỹ năng phân biệt hành vi hợp lý và chưa hợp lý (phân biệt hành vi  dũng cảm và liều mạng, hành vi yêu thương và lạm dụng tình dục...).
Đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào nhà trường phổ thông: 
Việc đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy trong nhà  trường phổ thông đã được đưa ra bàn bạc trước đây và theo như nội  dung cuộc trao đổi giữa Tiến sĩ Phùng Khắc Bình, Vụ trưởng Vụ Công tác  học sinh, sinh viên Bộ GD-ĐT và giới báo chí thì:
"Bộ đã triển khai nhiều phong trào vào trường học như sức khỏe, an  toàn giao thông, kỹ năng sống... đặc biệt, phong trào “trường học thân  thiện, học sinh tích cực” đã được các thầy cô giáo, học sinh hưởng ứng  tích cực đã giảm được phần nào tình trạng trên. Năm học tới Bộ sẽ đưa  kỹ năng sống vào chương trình giảng dạy trong nhà trường."
"Để đưa kỹ năng sống vào giảng dạy trong trường học, Bộ GD-ĐT đã  phải xác định, nếu đưa vào giảng dạy đại trà thì kỹ năng sống gồm  những nội dung gì? đưa như thế nào? Người dạy và thời gian như thế  nào?.
Tuy nhiên, về vấn đề đưa như thế nào, trong 3 phương án, thứ 1, là  lồng ghép vào chương trình học, các môn học, các hoạt động trong nhà  trường; thứ 2 đưa vào thành một môn và dạy giống các môn học khác;  thứ 3, đưa vào tất cả các môn, môn nào cũng vận dụng. Bộ đã chọn  phương án thứ nhất là lồng ghép vào chương trình học, các môn học,  các hoạt động trong nhà trường."
 Như vậy xu hướng hiện nay ở một số nhiều trường Dân lập, trường Quốc  tế và các trường THPT là không đi chệch hướng với quyết định lựa chọn  của Bộ giáo dục. Vấn đề là chọn nội dung nào và lồng ghép ra sao thì có vẻ như còn nhiều  lúng túng.
 Một vài trường đã cho thực nghiệm đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống  vào nội dung giờ sinh hoạt chủ nhiệm, giờ sinh ngoài giờ hoạt lớp, như  trường Trần Khai Nguyên đã thực hiện, được xem như là một ví dụ cần  nhân rộng.
 Ở các trường Quốc tế và một ít trường THPT đã áp dụng hình thức học  nhóm, sinh hoạt nhóm, chia sẻ nội dung kiến thức theo nhóm ... cũng  nhắm phát huy khả năng làm việc nhóm, qua đó giáo dục học sinh kỹ  năng giao tiếp, kỹ năng trình bày, kỹ năng phản hồi ý kiến, kỹ năng hội  họp, kỹ năng tổ chức và giải quyết công việc...
 Nhưng hầu hết chỉ ở dạng tự phát, cá nhân và mức độ thấp... để có thể  nâng cao và ứng dụng đại trà việc đưa giáo dục kỹ năng sống vào giáo  dục cần có một sự thống nhất ở các cấp lãnh đạo, trong đó, cần thiết và  quyết định tính thiết thực chính là vai trò của cấp lãnh đạo nhà trường phổ  thông.
 Các phương án có thể áp dụng để đưa giáo dục kỹ năng sống đến với  học sinh có thể bao gồm:
1. Đưa giáo dục kỹ năng sống vào hoạt động sinh hoạt chủ nhiệm. - Tự  khám phá bản thân - Tính năng động - Kỹ năng giải quyết vấn đề - Khả  năng phản hồi tích cực.
2. Đưa giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh hoạt dưới cờ: - Kỹ năng tự  bảo vệ - Kỹ năng trình bày - Kỹ năng thuyết trình thuyết phục - Kỹ năng  quản lý thời gian - Kỹ năng tự điều chỉnh cảm xúc...
3. Đưa giáo dục kỹ năng sống vào trong các giờ học bộ môn:
 - Kỹ năng  tự giải quyết vấn đề
 - Kỹ năng hoạt động nhóm
 -Kỹ năng hợp tác, ứng xử
 - Kỹ năng phản hồi và đánh giá tích cực.
 Những nội dung tạm thời phân chia như trên chỉ mang tính chất tương  đối, một giáo viên có đầu tư kỹ lưỡng về nội dung lồng ghép thì chắn chắn  có thể thực hiện tốt mục tiêu của mình trong giáo dục chuyên môn cũng  như giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
 Tuy nhiên, không nên quá tham lam để đưa quá nhiều nội dung kỹ năng  sống cần giáo dục trong một tiết học, chỉ nên làm sao việc giáo dục kỹ  năng sống diễn ra một cách nhẹ nhàng và đều đặn qua các tiết học, đây  là điều cốt lõi dẫn đến thành công, ứng dụng chiến thuật mưa dầm thấm  lâu.
Đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh hoạt dưới cờ 
Phương pháp 1:Giáo viên hoặc thuyết trình viên trình bày về các đề tài mà  xã hội và học sinh đang quan tâm.
Ưu điểm phương pháp này:
Có thể truyền đạt nhiều nội dung trong thời gian ngắn. 
Người trình bày chủ động về nội dung trình bày 
Nhược điểm:
Khó kêu gọi sự tập trung của học sinh theo dõi. 
Người trình bày có thể sẽ kéo dài thời gian do ý muốn trình bày nhiều nội  dung. 
Cần một người trình bày có khả năng thuyết trình thật tốt. 
 Phương pháp này thích hợp khi muốn chia sẻ nhanh một vấn đề ngắn, và thời  gian thuyết trình cũng không nên quá 15. Nên biến bài thuyết trình thành câu chuyện kể để tăng phần lôi cuốn.
 Người trình bày có thể đứng gần học sinh hơn để rút ngằn khoảng cách với  người nghe.Luôn đặt câu hỏi để lôi kéo sự quan tâm của học sinh.Có thể áp dụng phương pháp này trong nhiều trường hợp, cần ít thời gian  cho sự chuẩn bị.
Phương pháp 2: Học sinh làm tiểu phẩm về các đề tài do Nhà trường  (thường do Trợ lý thanh niên) gợi ý trước.
Các đề tài gợi ý  tùy theo  nhu cầu và tình hình xã hội, có thể là
Chống bạo lực học đường 
Xây dựng kỹ năng giao tiếp với người lạ 
Kỹ năng định hướng, đọc bản đồ 
Kỹ năng phản ứng với hoàn cảnh 
Phòng chống ma túy. 
Phòng chống Aids. 
Phòng chống tai nạn 
An toàn giao thông. 
Vệ sinh thực phẩm... 
 Các tiêu phẩm này thường diễn ra trong khoảng 10' - 15', và nên giao lần  lượt cho các lớp  trình bày. Xây dưng thành một buổi sinh hoạt tuyên truyền,  tăng cường giao tiếp giữa nhóm người trình bày với học sinh toàn trường  hoặc 1 khối lớp bằng cách đặt các câu hỏi yêu cầu người xem trả lời, thảo  luận nhanh, chia sẻ những xuy nghĩ của các nhân với vấn đề được gợi ý.
 Giáo viên sẽ duyệt qua nội dung tiểu phẩm, hệ thống câu hỏi và chuẩn bị  trước cho các nhóm trình bày kỹ năng định hướng, giải quyết các tình huống  bất ngờ nhằm lôi kéo cho người xem đi theo nội dung của nhóm đã định  trước.
 Trong buổi trình bày, nhà trường chuẩn bị trước 1 số quà nhỏ (kẹo, bánh, đồ  dùng học tập...) để làm phần thưởng cho những câu trả lời hoặc câu hỏi  do  người xem nêu ra.
 Sau buổi trình bày, giáo viên (Trợ lý thanh ni ... : loa phải đầy đủ, rõ ràng.
Micro: hệ thống micro không dây, ít nhất 2 cái để có thể chuyền đến các học  sinh muốn phát biểu.
Dù, bạt: học sinh phải được che nắng thì mới có thể tập trung lắng nghe.
Đội trật tự: đội cờ đỏ, xung kích để kịp thời hỗ trợ Thầy Cô giám thị chấn  chỉnh trật tự. Nên chọn HS lớp lớn để theo dõi học sinh lớp nhỏ.
Đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh hoạt chủ nhiệm hoặc giờ sinh hoạt ngoài giờ lên lớp 
Hiện nay việc thực hiện sinh hoạt chủ nhiệm đầu tuần thường theo một kịch  bản cũ:
Kịch bản 1:
Giáo viên chủ nhiệm tổng kết hoạt động tuần qua, xem xét qua các lỗi vi  phạm của học sinh, chấn chỉnh những sai phạm, cảnh cáo và ghi nhận  những trường hợp tái phạm của học sinh. 
Sau đó là thông báo các hoạt động trong tuần sắp tới, nhắc nhở và phân  công học sinh thực hiện theo kế hoạch. 
Phần thêm: GVCN kể hoặc đọc những câu chuyện mang tính giáo dục  cho cả lớp nghe và từ đó học sinh rút ra được những kiến thức cần thiết. 
Kịch bản 2:
GVCN giao lớp trưởng báo cáo tình hình tuần qua, những trường hợp sai  phạm cần nhắc nhở, chấn chỉnh. 
Lớp trưởng đọc thông báo chung cho cả lớp và sau đó tổ chức văn nghệ  hoặc các nội dung cần làm cho tuần sau. 
Phần thêm: GVCN giao cho một bạn trong lớp đọc hoặc kể những câu  chuyện dang như "Tâm hồn cao thượng:" để giáo dục cách ứng xử cho  học sinh trong cuộc sống.. 
Theo kịch bản như trên chỉ thích hợp với các lớp ngoan, ít vi phạm còn đối  với các lớp thường xuyên có vi phạm thì giờ sinh hoạt lớp sẽ nhàm chán  năng nề vì học sinh trong lớp cho rằng phải đối phó với những sai phạm trong  tuần qua và tâm lý chung sẽ là mắc cỡ, e ngại,... riêng với những em thường  xuyên vi phạm thì tình hình còn có thể bi đát hơn: tâm lý bất cần sẽ nảy sinh.
GVCN sẽ mất cảm hứng để tiếp tục phần thêm khi lớp có nhiều học sinh vi  phạm, Thầy Cô sẽ dễ dàng rơi vào trạng thái bực tức, nóng nảy và chắn chắc  sẽ kéo dài thời gian rầy la cả lớp một cách không có chủ đích rõ ràng.
 Có thể thay đổi kịch bản giờ sinh hoạt chủ nhiệm sao cho tăng tính chủ động  của học sinh nhiều hơn nữa, nâng cao vai trò của tập thể lớp chứ không phải  vai trò của 1 lớp trưởng.
 Biến giờ sinh hoạt chủ nhiệm thành một buổi chơi với nhiều trò chơi khác  nhau mà nội dung được giáo viên chủ nhiệm chuẩn bị trước.
 Các trò chơi này phải được lựa chọn và có chủ đích nhằm giáo dục kỹ năng  tương ứng cho học sinh.
Việc đưa giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh hoạt chủ yếu với cách làm sao  cho tăng tính chủ động của học sinh trong lớp, phát huy khả năng từng cá  nhân và nhấn mạnh trò của tập thể, để học sinh thấy được và luông phát huy  khả năng phối hợp của nhóm trong khi giải quyết các vấn đề chung.
Không nên sa đà vào việc tổ chức các trò chơi mang tính giải trí đơn thuần,  sẽ làm sai lệch mục đích của việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống  trong giờ sinh hoạt
Khó khăn trong việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh  hoạt và gợi ý khắc phục
Lớp ồn ào, gây ảnh hưởng lớp kế bên. Ban giám hiệu cần tổ chức tiến  hành sinh hoạt đồng thời tất cả các lớp và hãy chấp nhận sự ồn ào có  định hướng chứ không phải ồn ào mất trật tự. 
Các trò chơi lặp đi lặp lại gây nhàm chán: chuẩn bị trước và tham khảo  thêm các trò chơi cho phù hợp, thay đổi nội dung sinh hoạt, không hẳn cứ  sinh hoạt là chơi trò chơi. 
Có thể tham khảo một số trò chơi như sau:
Trß ch¬i xÕp h×nh: Ho¹t ®éng khëi ®éng
Trước buổi sinh hoạt, cắt và chọn ra một số các hình khác nhau, số hình này  tương đương với 1/2 số học sinh. Cắt những hình này ra làm đôi.Trong giờ sinh hoạt, phân phát một nửa của hình đó cho mỗi học sinh một  cách ngẫu nhiên.Cho các học sinh đi lại quanh phòng và ghép lại với người có nửa hình còn  lại phù hợp.Khi mà một học sinh đã tìm ra được người có nửa hình còn lại của mình thì  học sinh phải phỏng vấn nhanh người đó. Tìm hiểu về người bạn của mình  theo những yêu cầu mà giáo viên đã yêu cầu trước. (những việc làm tốt và  chưa tốt trong tuần qua)
Sau khoảng 10 phút, mỗi học sinh sẽ trình bày ngắn gọn về những hoạt động  của người có một nửa hình ghép phù hợp với mình cho cả nhóm học sinh  hoặc cả lớp.
MONG MUỐN - Hy vọng và mối quan tâm về môn học nào đó (20 phút)
Yêu cầu các học sinh lấy ra một mảnh giấy và trong một vài phút viết ra những  mong muốn riêng của mình về một môn hoạc hoặc một hoạt động nào đó, nói  lên những điều mình hy vọng sẽ đạt được, và cả những điều mà mình có  quan tâm đến.
Thu lại tất cả những mảnh giấy này để vào lẫn một hộp, sau đó yêu cầu mỗi  học sinh chọn ra một mảnh giấy trong hộp và đọc lên những mong muốn/hy  vọng/quan tâm cho cả nhóm học sinh nghe. Thầy Cô hoặc một học sinh xung  phong viết ra những thông tin đó lên giấy khổ lớn.
HOẶC
Chia học sinh ra thành các nhóm nhỏ (4 hoặc 5), phân chia bảng thành các  phần tương ứng cho các nhóm và yêu cầu các học sinh cùng nhau quyết định  đưa ra những mong muốn, hy vọng và quan tâm đối trong thời gian tới. Sau  đó ghi lại những phản hồi của từng cá nhân lên bảng, hoặc là thu lại những  mảnh giấy của nhóm nhỏ và dán lên cho mọi người trong phòng đều thấy  được.
Tổng hợp lại những mong muốn của các học sinh, nêu ra điểm giống  nhau về suy nghĩ, mong muốn của học sinh trong lớp. 
Thông báo cho học sinh biết được những nội dung cần làm trong tuần tới.  Nhấn mạnh những việc cần đạt được và học sinh phải được biết rằng  mức độ yêu cầu đạt được của mỗi học sinh khác nhau do vậy yêu cầu  các em phải phấn đấu để đạt mức cao nhất. 
Trò chơi: Tìm vai 
Số lượng: 8 bạn + "khán giả" (bao nhiêu cũng được).
Luật chơi: Mỗi bạn sẽ nhận được 1 tờ giấy, ghi rõ vai trò của từng bạn (ví dụ  lãnh đạo, người chống đối, ủng hộ...). Bạn không được "bật mí" cho các  thành viên còn lại biết vai trò của mình. Nhiệm vụ của các bạn là cùng nhau  "diễn" (thảo luận về 1 chủ đề nào đó) để "khán giả" nhận ra người nào đang  giữ vai trò gì trong nhóm.
Ý nghĩa: Theo các nhà tâm lí, có 8 vai trò phổ biến trong nhóm (hình bên). Trò  chơi giúp các bạn nhận đúng vai trò của từng thành viên trong nhóm, qua đó  sẽ giúp các bạn hiểu được tâm lí, tính cách của mỗi người để có cách ứng  xử đúng và làm việc nhóm hiệu quả hơn.
Trò chơi: Lắng nghe 
Số lượng: từ 5 trở lên, có thể chơi trong nhóm nhỏ trước và mở rộng cho cả  lớp
Luật chơi: Mỗi bạn sẽ được phát 1 cây viết và 1 tờ giấy. Trong vòng 1 phút,  các bạn sẽ ghi lại tất cả những tiếng động xung quanh mình. Ai ghi nhiều hơn,  người đó sẽ thắng.
Ý nghĩa: Đây là trò chơi nhằm rèn luyện kĩ năng lắng nghe, một trong những kĩ  năng quan trọng nhất để làm việc nhóm hiệu quả, phản ánh sự tôn trọng hay  xây dựng ý kiến lẫn nhau giữa các thành viên. Khi chịu lắng nghe, chắc chắn  bạn sẽ có nhiều thông tin để giải quyết vấn đề hiệu quả hơn.
Trò chơi 3. 180 độ...xoay! 
Số lượng: Lý tưởng nhất là 6 - 8 bạn
Luật chơi: Người chơi xếp thành hình tròn, quay mặt ra ngoài, tay nắm tay.  Sau đó tìm cách đổi chỗ cho nhau, sao cho tất cả thành viên đều quay mặt  vào trong hình tròn mà không được chéo tay nhau (trong quá trình đổi vị trí  không được buông tay ra).
Ý nghĩa: Đây là trò chơi nhằm trang bị cho các teen kĩ năng "giải quyết vấn  đề". Lúc đầu, có thể những người tham gia trò chơi này sẽ "bó tay" và cho  rằng đây là công việc không thể thực hiện được. Nhưng khi được thảo luận,  các bạn sẽ tìm ra giải pháp và thực hiện rất thành công. "Khi gặp một vấn đề  nào đó trong cuộc sống, nếu tham khảo ý kiến của nhiều người, chắc chắn sẽ  tìm ra được giải pháp tốt"- một bạn học sinh đã nói về "công dụng" của trò  chơi mà bạn học được.
Trò chơi:  Chuyền bóng
Số lượng: 10 bạn là tốt nhất.
Luật chơi: Người chơi xếp thành hình tròn với yêu cầu là phải biết tên của  nhau. Lần lượt người chơi sẽ chuyền bóng cho người đối diện, rồi người  tiếp theo (theo chiều kim đồng hồ) cho đến hết vòng tròn. Khi chuyền bóng  cho người nào, bạn phải gọi tên người đó. Lúc đầu, chỉ cần 1 trái bóng, sau  đó tăng thêm 2, thêm 3, thêm 4 để gia tăng độ khó cũng như tốc độ chuyền.  Trò chơi sẽ kết thúc khi bóng chạm đất. Trò chơi này có thể có 2 - 3 nhóm  tham gia, nhóm nào giữ bóng lâu chạm đất nhất sẽ giành phần thắng.
Ý nghĩa: Khi có 1 trái bóng, công việc của người chơi xem ra khá dễ dàng.  Nhưng khi có nhiều trái bóng thì tình hình sẽ khác. Điều này cho thấy, với  những vấn đề đơn giản, bạn có thể giải quyết một cách dễ dàng. Nhưng với  vấn đề phức tạp, rắc rối hoặc cùng lúc xuất hiện nhiều vấn đề thì bạn cần biết  ưu tiên giải quyết vấn đề nào trước, vấn đề nào sau, tránh để xảy ra tình trạng  "ùn tắc", dễ dẫn bạn đến thất bại. Ngoài ra, sự bình tĩnh cũng là điều quan  trọng khi đối mặt với những tình huống như vậy.
(Trích từ Báo Tuổi Trẻ và tài liệu tập huấn kỹ năng sống của Unicef)
Trò chơi: TRUYỀN TIN
Thể loại: Trò chơi cảm giác, vận động nhẹ trong phòng và ngoài trời, khoảng  08 người tham dự.
Rèn luyện: Nhận định chính xác các cử điệu từ người khác.
Giáo dục: Tương trợ nhau,phải có sự nhanh nhẹn và hiểu ý nhau trong lời nói  và hành động.
Luật chơi: Đứng thành từng đội và mỗi đội cử 01 người đến Qt nhận bản tin,  rồi trở về đứng cách những người của đội mình 1,5m và truyền laiï bản tin đó  bằng cử điệu mà không được nói, cũng như không được nhép miệng. Đội  nào nhận được bản tin và thực hiện theo bản tin trước là thắng.
Mục đích: Gây bầu khí sôi động để dẫn vào chiều sâu lắng sau đó.
Vật dụng: Các vật dụng của các bản tin.
Lưu ý: Không nên nói những lời khó hiểu và khó thực hiện.
Trò chơi: BAY TRONG SƯƠNG MÙ
Thể loại: trò chơi cảm giác, vận đông nhẹ trong phòng lớp, hay vòng tròn.
Rèn luyện: Nhận định chính xác môi trường chung quanh và sự nhanh nhẹn.
Giáo dục: Sự cố gắng nổ lực nhanh lẹ, chính xác.
Luật chơi: Vài người làm máy bay bị bịt mắt, dang tay làm cánh. Để vài đồ  vật (tương ứng với số máy bay) trên bàn, hay trong 1 vòng tròn nhỏ, làm mục  tiêu cho máy bay đáp.
- 5 người ngồi rải rác cố định là 5 ngọn núi cản trở đường bay.
- Các máy bay quan sát địa hình 2 phút với 5 ngọn núi (3 phút với 8 ngọn núi).
- Sau đó ra khỏi phòng, nghe hiệu còi, các máy bay cùng lúc bay vào: không  đụng núi, không đụng nhau.
- Khi bay, miệng ngậm lại hum...um...”.
Máy bay nào đáp xuống mục tiêu an toàn (bắt lấy 1 đồ vật): Thắng.
Mục đích: Gây bầu khí sôi động và có sự tranh đua.
Vật dụng: Số khăn để bịt mắt, đồ vật
Đưa giáo dục kỹ năng sống vào giờ học bộ môn. 
Đây là nội dung có lẽ là khó nhất và phụ thuộc rất nhiều vào tài biến hóa của  giáo viên bộ môn và của nội dung bài học.
Không thể thực hiện lồng ghép vào tất cả các tiết học, mà chỉ có thể áp dụng  ở một số tiết học với nội dung phù hợp, đặc biệt với các bộ môn như Toán thì  khả năng lồng ghép lại càng khó hơn rất nhiều.
Để có thể thực hiện tốt phần nội dung này đòi hỏ giáo viên bộ môn phải luôn  liên hệ nội dung bài học với thực tế cuộc sống, tận dụng sức mạnh của hoạt  động nhóm để giúp các học sinh giải quyết những vấn đề khó.
Có thể dẫn chứng một ví dụ dễ như sau:
Cho các em học sinh chia thành nhiều nhóm nhỏ để ôn bài cũ hoặc giải bài  tập mang tính chất liên hoàn (có thể chia thành nhiều công đoạn) để các em  có thể rút ngắn thời gian hoàn thành công việc.
Sau đó cho các em tự trình bày vấn đề của nhóm hoặc cá nhân, tự bảo vệ ý  kiến của mình, trong khi đó, các bạn khác sẽ theo dõi, quan sát và phản biện,  góp ý kiến chia sẻ sao cho bài tập, sản phẩm của bạn mình được hoàn thiện  hơn.
Vấn đề ở đây chính là phương thức tổ chức lớp học để học sinh có thể phát  huy kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm, tạo động lực làm việc cho học sinh.
Cái khó nảy sinh chính là nội dung chương trình sẽ là bước cản cho việc lồng  ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào, nếu như không khéo, vô hình trung  giáo viên sẽ tự nâng cao gánh nặng cho chính bản thân hoặc cho học sinh.
Và đây chính là yếu tố biện minh cho việc không thực hiện nội dung lồng ghép  giáo dục kỹ năng sống trong bộ môn.
Vai trò Ban giám hiệu phải được chú trọng ở bước giải quyết khó khăn này. Cần có những tiết thao giảng, dạy mẫu, có những giờ trao đổi, rút kinh  nghiệm trong tổ bộ môn, Ban giám hiệu cần chú ý nhắc nhở giáo viên môn đưa nội dung cần lồng ghép vào trong nội dung môn học một cách tự nhiên,  không gượng ép.
3.KẾT LUẬN
 Trong Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp thì vấn đề giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường luôn luôn là đề tài nóng hổi, được sự quan tâm của hầu hết Thầy Cô, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm và người quản lý.
 Để có thể giáo dục kỹ năng sống tốt cho học sinh, cần phải có sự phối hợp cả gia đình, xã hội và nhà trường. Vai trò giáo dục của gia đình và xã hội giữ vị trí quan trọng, vai trò giáo dục của nhà trường mang yếu tố quyết định giúp các em có thể có những định hướng đúng đắn, để sau này trở thành những người con có ích cho xã hội, hiếu thảo trong gia đình và chính các em sẽ là tấm gương tốt cho các em học sinh khác mà người Thầy sẽ luôn lấy các em ra làm ví dụ khi giáo dục các học sinh khác.
 Về phía nhà trường, để làm tốt công tác giáo dục này, cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận, giữa các Thầy Cô.Vai trò của Thầy Cô chủ nhiệm là rất quan trọng. Trong lớp, Thầy Cô chủ nhiệm như là cha mẹ của các em, có tiếng nói điều chỉnh kịp thời các hành vi chưa đúng của các em, là tấm gương cho các em noi theo. Đồng thời người quản lý có vai trò vô cùng quan trọng trong công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
 Thầy Cô giáo dục các em không chỉ bằng lời nói mà bằng cả hành động, cử chỉ, thái độ, tác phong hàng ngày... Hãy cảm hóa, giáo dục các em bằng cả tấm lòng của người Thầy, người cha, người chị, người mẹ... Hãy nhìn các em với ánh mắt nhìn về tương lai, không nên dựa vào các hành vi nhất thời của các em mà đánh giá cả bản chất con người các em.
 Học sinh chúng ta chỉ là những cành cây non, đang muốn vươn lên trở thành cành cây vững chắc, hãy tạo điều kiện cho các em thể hiện mình, vươn lên nơi có ánh sáng vững bền, hãy giáo dục các em bằng thái độ thân thiện và tích cực.
 Cám ơn Thầy Cô đã bỏ thời gian để đọc qua đề tài này, mong rằng Thầy Cô sẽ có nhiều ý kiến đóng góp cho đề tài này để chúng ta cùng nhau hoàn thiện một cách cụ thể các biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan nhằm xây dựng nhà trường thành môi trường tích cực, thân thiện tạo thành ngôi nhà chung để các em cùng nhau phát triển nhân cách hoàn thiện nhất.
 Để mọi người có thể ủng hộ và tự giác thực hiện việc đưa nội dung giáo dục  kỹ năng sống vào trường học thì cần thiết phải hiểu đơn giản là chúng ta hãy  để cho học sinh được hoạt động trong lớp qua từng giờ học qua từng bộ  môn, hãy để cho học sinh cơ hội tự giải quyết vấn đề, cơ hội làm việc theo  nhóm, hãy hướng dẫn cho học sinh liên hệ nội dung bài học với cuộc sống  thực tế, ứng dụng kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề thường gặp  trong cuộc sống.
 Mục tiêu giáo dục không chỉ là giảng dạy kiến thức cho học sinh mà cần làm  thế nào để học sinh có thể tìm kiến thức và tự giải quyết vấn đề trong cuộc  sống, làm thế nào để học sinh biết phát huy sức mạnh nhóm, tăng cường sự  hợp tác trong giải quyết vấn đề. Làm như thế là người Thầy đã đưa được cần câu cho học sinh chứ không đưa con cá cho con em chúng ta.
 Biên Hòa, ngày 25 Tháng 5 năm 2012
 Người viết
 Phạm Thị Thanh Hà

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_pho_hieu_truong_voi_vai_tro_quan_ly_co.doc