Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1. Cơ sở lí luận và lí do chọn đề tài

Chưa làm mẹ nhưng chứa chan tình mẹ

Bởi yêu nghề nên quý lớp măng non

Dạy tiếng mẹ để cho trẻ tuổi mầm non có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học khác như: Môi trường xung quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình mà điều tôi muốn nói ở đây đặc biệt là thông qua bộ môn làm quen văn học. Bộ môn làm quen văn học dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch tạo cho trẻ được hoạt động nhiều. Việc phát triển vốn từ luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp không thể tách rời giaữ các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Mỗi từ cung cấp cho trẻ phải dựa trên một biểu tượng cụ thể, có nghĩa, gắn liền với âm thanh và tình huống sử dụng chúng. Nội dung vốn từ cung cấp cho trẻ cũng như hình thức ngữ pháp phải phụ thuộc vào khả năng tiếp xúc, hoạt động và nhận thức của trẻ.

 

doc 22 trang phuongnguyen 12020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện

Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện
UBND HUYÖN SèP CéP
TR¦êNG MN HOA CHĂM PA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ MẠCH LẠC CHO TRẺ THÔNG
QUA BỘ MÔN LÀM QUEN VĂN HỌC THỂ
LOẠI TRUYỆN ”
Hä vµ tªn: Lò Thị Chinh
	Chøc vô: Gi¸o viªn
	§¬n vị: Tr­êng MÇm non Hoa Chăm Pa 
	(Năm 2015 - 2016)
	A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận và lí do chọn đề tài
Chưa làm mẹ nhưng chứa chan tình mẹ
Bởi yêu nghề nên quý lớp măng non
Dạy tiếng mẹ để cho trẻ tuổi mầm non có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học khác như: Môi trường xung quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hìnhmà điều tôi muốn nói ở đây đặc biệt là thông qua bộ môn làm quen văn học. Bộ môn làm quen văn học dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch tạo cho trẻ được hoạt động nhiều. Việc phát triển vốn từ luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp không thể tách rời giaữ các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Mỗi từ cung cấp cho trẻ phải dựa trên một biểu tượng cụ thể, có nghĩa, gắn liền với âm thanh và tình huống sử dụng chúng. Nội dung vốn từ cung cấp cho trẻ cũng như hình thức ngữ pháp phải phụ thuộc vào khả năng tiếp xúc, hoạt động và nhận thức của trẻ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng trong chương trình giáo dục toàn diện trẻ. Chương trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ đã được nhà giáo dục mầm non Liên Xô nổi tiếng: Eiti – Khê va xem là khâu chủ yếu nhất của hoạt động trong trường mầm non, là tiền đề thành công của các công tác khác.
Hiện nay việc trẻ em của chúng ta nói trỏng, không đủ câu, trọn nghĩa chiếm một số lượng không nhỏ và rất khó cho việc tiếp cận với các tác phẩm văn học bởi vì trẻ một phần nghèo nàn về vốn từ, một phần trẻ không biết phải diễn đạt sao cho mạch lạc. Vì vậy tôi chọn đề tài “Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích: 
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày có logic, có trình tự, chính xác và có hình ảnh một nội dung nhất định.
Để luyện cho lời nói của trẻ được mạch lạc cần giúp trẻ thực hiện những yêu cầu sau: 
Xác định nội dung cần nói giúp cho lời nói của trẻ có nội dung thông báo ngắn gọn, rõ ràng. Xác định sự việc chính trong nhiều sự việc, xác định đặc điểm nổi bật cơ bản trong nhiều đặc điểm của con vật, của cây, của bức tranh, nội dung chính trong phát triển văn học.
Ví dụ: Đồ vật: Tả hình dáng bên ngoài, công dụng, cách sử dụng.
Con vật: Hình dáng, hành động.
Cây: Hình dáng bên ngoài, sự thay đổi theo mùa.
- Sắp xếp nội dung đã lựa chọn giúp cho lời nói của trẻ được đầy đủ, hợp lí và có logic.
Ví dụ: Từ đầu đến chân, từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải
Trẻ tuổi mẫu giáo chưa có khả năng lựa chọn nội dung diễn đạt vì vậy cần phải hướng dẫn để giúp trẻ.
Sau khi đã lựa chọn nội dung trẻ cần lựa chọn từ để diễn tả chính xác nội dung mình cần thông báo. Chọn từ giúp cho lời nói của trẻ rõ ràng, chính xác và mang sắc thái biểu cảm. Việc chọn từ được đặt ra ở 2 mức độ.
- Mức độ thứ nhất: chọn từ phù hợp với nội dung. Ví dụ: đi, chạy
- Mức độ thứ hai: Chọn từ mang sắc thái tư từ. Ví dụ: lật đật, lon ton, lom khomĐây là một việc khó đối với trẻ, giáo viên cần hướng dẫn và làm mẫu cho trẻ bắt chước, đặc biệt là việc chọn từ mang sắc thái tư từ chủ yếu được dùng thông qua việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học.
Ví dụ: câu chuyện: Cây khế: chim phượng hoàng chở người anh đi lấy vàng. Vừa đến nơi người anh đã vội vàng nhét đầu túi 6 gang. Cô cho trẻ làm quen từ “vội vàng” bằng cách giải thích từ khó, cho trẻ lặp lại, thể hiện bằng hành động, hướng dẫn cháu đặt câu.
- Sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dùng nào đó để giúp người nghe hiểu được. Đây là sự sản xuất toàn bộ nội dung thông báo một cách có logic.
- Để diễn tả một ý, một nội dung ngắn gọn nào đó thì việc sắp xếp cấu trúc lời nói là đơn giản đối với trẻ. Nhưng nếu yêu cầu trẻ kể lại truyện hay tự sáng tác miêu tả những hiện tượng sự kiện xảy ra trong đời sống thì trẻ gặp khó khăn cần phải luyện tập dần dần.
 - Khi trẻ diễn đạt phải ngừng nghỉ ngắt giọng đúng, để giọng nói của trẻ không ê a ậm ừ. Luyện cho trẻ tác phong khi nói thoải mái, tự nhiên, khi nói nhìn vào mặt người nói.
	Trong trường mầm non tôi muốn đề cập tới việc luyện cho trẻ ngôn ngữ mạch lạc thể hiện qua việc thực hiện hai nhiệm vụ dạy trẻ đối thoại giữa trò chơi và độc thoại qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể.
Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ mạch lạc được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Đối ới trẻ lớp tôi đang phụ trách 4 – 5 tuổi: Tiếp tục dạy trẻ biết nghe - hiểu - trả lời câu hỏi của người lớn. Biết trò chuyện với những người xung quanh. Dạy trẻ kể chuyện về đồ chơi, đồ vật theo tranh, kể lại các tác phẩm văn học, kể có trình tự, diễn cảm.
	3. Những nhiệm vụ nghiên cứu: 
Nghiên cứu thực trạng phương pháp tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ mạch lạc của trẻ 5 tuổi góp phần hoàn thiện hệ thống phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình nâng cao chất lượng giáo dục của hoạt động ngôn ngữ trong trường mầm non.
	3. Đối tượng nghiên cứu:
- Hoạt động phát triển ngôn ngữ mạch lạc ở lớp Mẫu giáo Lớn với 22 trẻ (độ tuổi 5) ở trường Mầm Non Hoa Chăm Pa - Sốp Cộp, Sơn La.
- Tìm hiểu thực trạng phương pháp tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
5. Lịch sử nghiên cứu:
Trong thời gian công tác tại trường Hoa Chăm Pa. Là một giáo viên trực tiếp tham gia công tác giảng dạy tôi nhận thấy sự cần thiết của việc bổ sung phương pháp giáo dục mới để đáp ứng nhu cầu học ngày càng phát triển của trẻ. Chính vì thế tôi quyết định làm sáng kiến nghiên cứu để nâng cao chất lượng dạy và học.
6. Phạm vi nghiên cứu: 
Nghiên cứu 22 trẻ ở lớp mẫu giáo Lớn (5 tuổi). 
7. Kế hoạch thực hiện sáng kiến:
- Từ ngày 01/12 đến 15/4/2016: Tổ chức nghiên cứu thực tiễn 
- Từ ngày 16/4 đến 1/5/2016: Viết sáng kiến 
- Từ ngày 5/5 đến 15/5/2016: Sửa chữa - bổ sung
- Từ ngày 16/5 đến 18/5/2016: In sáng kiến
- Từ ngày 20/5/2011 đến 25/5/2016: Báo cáo Hội đồng khoa học nhà trường.
	II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1 THỰC TRẠNG: 
a. Thuận lợi: 
Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu về chuyên môn xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình đổi mới.
Phụ huynh quan tâm đến con em mình, nhiệt tình ủng họ cùng tôi trong việc dạy dỗ các cháu và thường xuyên ủng họ những nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và vui chơi cho các cháu.
b. Khó khăn:
Do trình độ nhận thức không đồng đều, gần 50% trẻ lớp tôi mới lần đầu đến trường, số trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ, do đó gặp rất nhiều khó khăn.
- Hơn 50% trẻ chưa phân biệt được sự khác nhau rất tinh tế trong cách phát âm mà chỉ tiếp nhận một cách chung chung.
Ví dụ: tay – tai, muỗi – mũi, phân biệt l – n.
- 45% khả năng chú ý của trẻ còn yếu, không đều, không ổn định, vì vậy nên trẻ chưa chú ý đều đến các thành phần torng câu, trong từ. Vì vậy những âm điệu được đọc lướt, những từ không nhấn mạnh trong câu trẻ dễ bỏ qua, không chú ý.
- Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các âm tiếp thu cũng như trật tự các từ trong câu. Vì thế trẻ bỏ bớt từ, bớt âm khi nói.
-70% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng.
- 35% trẻ nói, phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh trẻ (nói tiếng địa phương)
- Đa số phụ huynh bận công việc hoặc mốt lí do khách quan nào đó ít có thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu mà trẻ cần. Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào đồ dùng, đồ vật nào là được đáp ứng ngay mà không cần dùng lời để yêu cầu hoặc xin phép. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc chậm phát triển ngôn ngữ.
Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và tập cho trẻ làm quen văn học thể loại truyện kể.
2. GIẢI PHÁP HỮU ÍCH:
a. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ: 
* Đặc điểm phát âm:
- Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, rõ, ít ê a, ậm ừ. Trẻ vẫn còn phát âm sai những âm thanh khó hoặc những từ có 2 – 3 âm tiết như: lựu - lịu, hươu – hiu, mướp - mớp, chiêm chiếp – chim chíp, thuyền buồm - thiền bờm, rắn - dắn Tuy nhiên lỗi sai đã ít hơn.
* Đặc điểm vốn từ: 
- Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng 1300 – 2000 từ . Danh từ và động từ ở trẻ vẫn chiếm ưu thế. Tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều hơn.
- Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian như: Cao - thấp, dài- ngắn, rộng - hẹp, các từ chỉ tốc độ như: nhanh - chậm, các từ chỉ màu sắc: Đỏ, vàng, trắng, đen. Ngoài ra các từ có khái niệm tương đối như: hôm qua, hôm nay, ngày maitrẻ dùng còn chưa chính xác. Một số trẻ còn biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: Xám, xanh lá cây, tím, da cam.
- 100% trẻ biết sử dụng các từ cao, thấp, dài, ngắn, rộng, hẹp. có 55% số trẻ đếm được từ 1 – 10. Tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác. Ví dụ: Mẹ có mót ngồi không? (muốn)
* Đặc điểm ngữ pháp:
- Câu trẻ dùng đã chính xác và dài hơn. Ví dụ: Cô ơi, con thấy có mấy cọng rác nè. Con đem bỏ thùng rác cô nhé! (Cháu Nhật Đăng)
- Trẻ đã sử dụng các loại câu phức khác nhau. Ví dụ: Câu phức đẳng lập: Tích Chu đi chơi, Tích Chu không lấy nước cho bà. (Cháu Phước). Câu ghép chính phụ: Cháu thích chơi lắp ráp nhà thôi, xây được nhà đẹp thì bạn Phương lại gỡ ra rồi. (Cháu Quang).
- Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ dùng từ trong câu vẫn chưa thật chính xác: Ví dụ: Mẹ ơi! Con muốn cái dép kia! ( phụ huynh cháu Sơn kể lại). 
Chủ yếu trẻ vẫn sử dụng câu đơn mở rộng.
- Trẻ có khả năng kể lại chuyện và kể chuyện có trình tự logic. Thế nhưng qua tìm hiểu quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ lớp chồi, tôi so sánh với lớp tôi thì đa phần trẻ vẫn chưa có khả năng kể chuyện và kể chuyện có trình tự logic.
b. Một số biện pháp giúp trẻ học tố môn làm quen văn học thể loại truyện kể:
*. Tạo môi trường học tập, rèn luyện cho trẻ: 
- Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các học cụ, đội hình để tạo môi trường học và thải mái cho trẻ.
Ví dụ: Khi thực hiện các hoạt động làm quen văn học thể loại truyện kể mà trọng tâm là dạy kể chuyện sáng tạo thì tôi luôn tận dụng không gian lớp học để bày dụng cụ kể chuyện, khung sân sấu, sắp đặt tranh và các con rối sao cho trẻ dễ sử dụng, kích thích trẻ hoạt động tích cực hơn.
- Chú ý đến khả năng phát âm của trẻ để có sự điều chỉnh và sửa sai, rèn luyện khả năng ngôn ngữ cho trẻ.
- Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể, cách sử dụng tranh, sách tranh, rối, mô hình để giúp trẻ cảm thụ đước tác phẩm văn học đó một cách tốt nhất.
*. Tổ chức tiết học nhẹ nhàng, linh hoạt:
Toi vào bài một cách sinh động để thu hút sự chú ý của trẻ.
Ví dụ: Chủ điểm: “ Các nghề phổ biến, ngày 22/12” khi dạy với đề tài nghề xây dựng. Kể chuyện: “Ba con lợn nhỏ”, tôi sử dụng mô hình rối để gây sự hứng thú cho trẻ.
- Tổ chức hoạt động đa dạng dựa vào hoạt động trọng tâm. 
Ví dụ: Khi trọng tâm là kể chuyện sáng tạo, tôi cho trẻ lựa chọn cáh sử dụng trang phục, đồ dùng phù hợp với nội dung câu chuyện trẻ sẽ kể dựa theo các hình thức khác nhau.
*. Sử dụng các loại rối, trang phục, mô hình, học cụ thu hút sự chú ý của trẻ:
- Tôi sử dụng các nguyên vật liệu mở như: Muỗng gỗ, thanh tre, ly nhựa, nắp thiếc, hộp sữa, lõi giấy vệ sinh để làm thành những con rối xinh xắn. Trẻ cũng có thể sử dụng được để kể chuyện theo ý thích.
Ví dụ: Từ lõi giấy vệ sinh ta kết hợp với quả banh làm phần đầu con rối, tóc làm bằng đất nặn, miếng xốp trái cây bọc ra ngoài lõi giấy làm áo đầm và chú ý trang trí đa dạng màu sắc để thu hút trẻ. Có thể hướng dẫn để cháu làm theo.
- Để làm trang phục cho trẻ tôi dùng: Vải vụn, mút bitis, giấy, lá cây tạo nhiều kiểu dáng trang phục lạ mắt.
*. Chú ý rèn nề nếp, rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của trẻ:
- Trẻ biết chia nhóm kể chuyện, tạo cho trẻ cảm giác tự tin, mạnh dạn, nhanh nhẹn và linh hoạt qua việc trẻ biểu diễn hoặc đóng kịch.
- Tạo điều kiện cho trẻ tự thỏa thuận và tự chọn vai kể theo ý thích về sự sáng tạo của trẻ. Có thể dùng lời để khuynế khích , động viên trẻ thực hiện các vai diễn sáng tạo.
*. Làm quen văn học thể laọi truyện kể kết hợp với các bộ môn khác:
- Theo phương pháp dạy học tích hợp các bộ môn làm quen văn học có thể lồng ghép, kết hợp với tất cả các bộ môn khác và giúp cho các bộ môn khác trở nên sinh động hơn.
Ví dụ: Môn Âm nhạc: 
Đề tài: Câu chuyện: “ Cây táo thần” có thể cho trẻ hát và vận động bài “ Gieo hạt, trồng cây”
Đề tài: “Nhổ củ cải”, cho trẻ vận động theo bài: “Củ cải trắng”.
Môn MTXQ:
Đề tài: Động vật nuôi trong gia đình, câu chuyện “Gà trống, mèo con và cún con”, trẻ biết tên, đặc điểm, nơi sống của một số con vật nuôi trong gia đình.
Môn Toán: 
Đề tài: “ Cao hơn - thấp hơn” Câu chuyện: “Cây khế”. 
Trẻ áp dụng được sự so sánh đặc điểm về ngoại hình của hai anh em.
*. Tổ chức ôn luyện mọi lúc mọi nơi, ôn luyện thông qua lễ hội:
- Ôn luyện mọi lúc mọi nơi cũng là một biện pháp giúp ổn định trẻ. 
Thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội tôi tổ chức hoạt động kể chuyện, đóng kịch theo một chương trình biểu diễn văn nghệ mà 100% trẻ được tham gia nhằm giúp trẻ hứng thú với bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể cho trẻ.
Ví dụ: Lễ hội 22/ 12 trẻ kể chuyện sáng tạo về chú bộ đội, tết dương lịch, các hội thi bé kể chuyện giỏi.
*. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh: 
- Làm bảng tin về chương trình dạy theo chủ đề và thay tin hàng tuần để phụ huynh biết và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm cho trẻ ở nhà.
- Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu mở: Thùng giấy, sách báo cũ, chai nhựa, quần áo cũ, dụng cụ hóa trang
*. Xây dựng kế hoạch: 
Tôi xây dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ theo từng quý xuyên suốt trong một năm học:
Tháng 9 + 10: Tôi chú ý chọn những bài tập luyện tai nghe cho trẻ nhằm phát triển thính giáng âm vị ( cho trẻ nghe những bài hát, những câu chuyện, những bài đồng dao). Tôi tạo mọi điều kiện để trẻ tập trung chú ý luyện khả năng chú ý thính giác cho trẻ thông qua các bài tập, trò chơi (tai ai thính, ai đoán giỏi), Cố gắng phát âm đúng, không phát âm sai vì trẻ hay bắt chước. Sửa lỗi phát âm cho trẻ khi phát âm sai mọi lúc mọi nơi trong các hoạt động hàng ngày.
Tháng 11 + 12: Tôi tập trung vào việc làm thế nào để tăng vốn từ cho trẻ?
Giáo viên cần nói diễn cảm, rõ ràng, giải thích nghĩa của từ khó giúp cho trẻ nhiểu, nhớ và vận dụng được từ để đặt câu. Để đẩy mạnh sự phát triển khả năng vận động cảu cơ quan phát âm cần tập cho trẻ các bài tập luyện cơ quan phát âm thích hợp: 
Con có cái ca, cô cắt quả cà, con cầm cái ca, cùng cười ha ha.
Có con ba ba, đội nhà đi trốn, bì bà bì bõm, bé bắt b ... 
Tuyên truyền dưới nhiều hình thức, bảng tuyên truyền đẹp, thay đổi nội dung hình ảnh phù hợp với chủ đề.
Ví dụ: Chủ đề: Thế giới thực vật - Tết nguyên đán: Bảng tuyên truyền nên có hình ảnh phù hợp, những bài thơ, câu chuyện, bài hát, đồng dao có phần giao lưu giữa lớp với phụ huynh.
- Tuyên truyền phát thanh: Bài phát thanh có nội dung theo chủ đề, những câu chuyện hấp dẫn lôi cuốn. Phát thanh vào giờ đón, trả trẻ để phụ huynh và cháu được nghe.
- Tuyên truyền qua các góc chơi, đặc biệt qua góc học tập sách: Có kệ để sách, treo tranh, hình ảnh xinh xắn thay đổi thường xuyên để lôi cuốn trẻ.
- Giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh vào giờ đón, trả trẻ: động viên phụ huynh dành thời gian kể chuyện, độc truyện cho cháu nghe trước khi đi ngủ, lắng nghe trò chuyện với con giúp con phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Từ đó nhận ra sự phát triển ngôn ngữ, tình cảm của trẻ như thế nào theo từng tháng. Vận động phụ huynh đóng góp đồ dùng học tập phù hợp với chủ đề.
Kết quả: 
Qua một số biện pháp hữu ích tôi thấy đạt được kết quả như sau:
- 95% vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt. Trẻ nói rõ ràng mạch lạc hơn, nói nhiều câu có nghĩa đầy đủ. Trẻ đã phân biệt được ý nghĩa một số từ.
- 85% Kinh nghiệm sống của trẻ đã phong phú hẳn lên, trẻ hứng thú tham gia học, phát biểu, kể chuyện và đóng kịch.
- 80% đối với trẻ mới yếu chậm đã mạnh dạn tham gia vào các hoạt động: Đóng kịch, kể chuyện.
- 85% Trẻ biết kể chuyện sáng tạo và phát huy khả năng tưởng tượng tốt.
- 85% trẻ kể chuyện theo trí nhớ tốt.
- 90% Trẻ tham gia đóng kịch thể hiện tốt vai diễn.
- 90% Trẻ đã phát âm chính xác hơn, ít sử dụng ngôn ngữ địa phương.
- 100% Phụ huynh ủng hộ cho trẻ mang thêm đồ dùng, đồ chơi, tranh ảnh, sách báo sưu tầm, truyện tranh phù hợp với chủ đề, góp phần phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, trẻ hứng thú hơn khi học môn làm quen văn học thể loại truyện kể.
B: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
	1. Thực trạng nghiên cứu
	Để đưa ra được giải pháp tốt nhất nhằm nâng cao chất lượng cho bộ phát triển ngôn ngữ mạch lạc để nghiên cứu đối tượng trẻ trong trường, hầu hết các cháu nhà đều ở xa trường, điều kiện kinh tế khó khăn, phương tiện giao thông chưa thuận lợi, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi chưa đáp ứng được nhu cầu học tập cho trẻ. Do vậy ảnh hướng lớn đến các môn học nói chung và môn phát triển ngôn ngữ mạch lạc nói riêng. Trẻ 5 tuổi mới bước lên bậc học mẫu giáo cơ tay rất non nớt, hoạt động rất kém, mặt khác đa số các cháu chưa có sự kèm cặp ở nhà, nhiều gia đình chưa quan tâm đến việc học của con cũng như tạo môi trường thuận lợi cho trẻ làm quen với bộ môn, kích thích về mặt ngôn ngữ còn hạn chế. Chính vì sự phát âm chưa chuẩn của trẻ 5 tuổi khiến tôi băn khoăn suy nghĩ nghiên cứu một số biện pháp để nâng cao chất lượng học tập môn “Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể”.
2. Điều tra khảo sát:
Khảo sát đối tượng mà sáng kiến đưa ra trên thực tế của trẻ mẫu giáo 4 - 5 
là lớp Huổi Dương của trường Mầm Non Hoa Chăm Pa - Sốp Cộp.
Tổng số
Giới tính
t Tuổi
Dân tộc
22
Nam
Nữ
 Lớn
Kinh
Thái
Mông
Khơ mú
10
13
0
0
0
22
* Năm học 2009 - 2010: Lớp Mẫu giáo A trước khi áp dụng sáng kiến.
 + Điều tra chất lượng học sinh:
TỔNG SỐ
ĐẠT
CHƯA ĐẠT
22
8/22 (42,3%)
15/26 (57,7%)
3. Cách thức áp dụng
- Biện pháp 1: Thử nghiệm lần 1:
BÀI: VÌ SAO HƯƠU CÓ SỪNG
	I. Mục đích yêu cầu:
	1. Kiến thức: 
	- Trẻ biết tên truyện, hiểu được nội dung câu truyện, nhớ tên nhân vật trong truyện, trẻ đọc được 1 số từ mạch lạc theo yêu cầu của cô. 
- Trả lời được các câu hỏi của cô.
	2. Kĩ năng:
- Rèn kỹ năng trả lời câu hỏi, diễn đạt câu hỏi mạch lạc.
- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 
3. Giáo dục: 
	- Giáo dục cho trẻ biết yêu quý, chăm sóc các con vật.
	II. Chuẩn bị:
 	- Cô: Tranh minh họa nội dung của câu chuyện. Tranh các con vật để trẻ chơi ghép tranh.
	- Trẻ: Ngồi chiếu, tâm thế thoải mái.
	III. Cách tiến hành:
 Hoạt động của cô 
Hoạt động của trẻ
1. Hoạt động 1: Bé yêu âm nhạc
- Cô cho trẻ hát bài “ong và bướm”
- Các con vừa nghe bài hát gì?
- Trong bài hát nhắc đến những con gì?
- Ngoài con ong và bướm ra con còn biết những con côn trùng nào??
- Ong và bướm có lợi ích gì?
- Chúng sống ở đâu?
=> Ong và bướm đều là những loài côn trùng vừa có ích lại vừa có hại, Ong cho mật rất tốt đối với sức khoẻ con người có thể dùng làm thuốc chữa bệnh nhưng nếu vô tình sờ vào nó thì rất dễ bị đốt, con bướm có phấn rất ngứa.
- Chúng sống ở đâu?
Ở trong rừng có rất nhiều loài động vật và côn trùng có một câu truyện bạn hươu hay giúp đỡ mọi người nhưng lại nhút nhát lần này bạn giúp đỡ bác gấu không biết có được không các con cùng chú ý lắng nghe nhé.
2. Hoạt động 2: Bé nghe kể chuyện
* Cô kể chuyện
- Cô kể lần 1: Diễn cảm kèm cử chỉ điệu bộ.
- Cô nhắc tên truyện, tên tác giả.
* Giảng nội dung: Nội dung câu chuyện muốn nói về Hươu rất nhút nhát. Cái gì Hươu cũng sợ, nhưng bạn bè rất quý Hươu vì Hươu nhanh nhẹn, chăm chỉ và tốt bụng. Hươu biết kính trọng yêu thương giúp đỡ mọi người, như bác Gấu bị ốm nặng Hươu vào rừng lấy thuốc giúp bác Gấu. Hươu có tấm lòng nhân hậu, mọi người ai cũng rất quý hươu, từ đó hươu trở thành người mạnh mẽ can đảm.
- Cô kể lần 2: Kèm tranh minh hoạ nội dung truyện.
- Cho trẻ đọc từ “ Vì sao hươu có sừng”
* Đàm thoại:
- Cô vừa kể cho các con nghe chuyện gì? 
- Trong câu chuyện có những con vật gì?
- Hươu là con vật như thế nào?
- Hươu nghe tin bác Gấu ốm thì Hươu đã làm gì?
- Bác Gấu đã nói gì với Hươu?
- Hươu đã làm gì?
- Khi bóng tối tràn xuống, Hươu cảm thấy sợ và núp vào gốc cây khóc thì ai xuất hiện?
- Thần cây đã cho Hươu cái gì?
- Hươu đã mang được lá thuốc về chữa bệnh cho bác Gấu. Trên đầu Hươu xuất hiện gì?
- Hươu trở nên như thế nào?
- Mọi người gọi cành cây trên đầu Hươu là gì?
* Cho trẻ kể chuyện.
- Cho 2 - 3 kể chuyện
- Cho trẻ nhắc lại tên truyện.
=> Giáo dục: Qua câu truyện này muốn nói lên, Hươu con rất tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người những lúc ốm đâu, nhưng chú lại rất nhút nhát, mà lại chăm chỉ. Có tấm lòng nhân hậu, mọi người ai cũng rất quý hươu. 
3. Hoạt động 3: Trò chơi “Ghép tranh”
- Cô chia trẻ làm 2 đội thi đua nhau ghép 2 bức tranh về các con vật sống trong rừng. Đội nào ghép bức tranh đúng và xong trước sẽ là đội thắng cuộc.
- Nhận xét, tuyên dương trẻ.
- Trẻ nghe bài hát.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời
- Trẻ lắng nghe.
- Trẻ chú ý
- Trẻ lắng nghe cô kể chuyện.
- Trẻ chú ý
- Trẻ chú ý lắng nghe.
- Trẻ đọc.
- “ Vì sao hươu có sừng”
- Hươu, bác Gấu, thần cây
- Hươu rất nhút nhát. Cái gì Hươu cũng sợ, nhưng bạn bè rất quý Hươu vì Hươu nhanh nhẹn, chăm chỉ và tốt bụng.
- Hươu xin phép mẹ đến thăm bác Gấu.
- Bệnh của bác nặng lắm. Chỉ có Thảo Huyền mọc trong khe núi sâu mới chữa khỏi được.
- Hươu chạy nhanh như tên bay, để cháu vào rừng lấy lá thuốc cho bác.
- Thần cây hiện lên và hỏi:
- Ta cho cháu những cành cây khỏe khoắn của ta. Cháu hãy đội lên đầu để có thêm sức mạnh! 
- Khi thấy trên đầu Hươu có những cành cây vững chắc. 
- Hươu rở nên can đảm và luôn mang những cành cây trên đầu để tự vệ, chống lại thú dữ .
- Những cành cây trên đầu Hươu là những chiếc sừng hươu.
- Trẻ kể chuyện.
- Trẻ nhắc lại tên truyện.
- Trẻ chú ý lắng nghe.
- Trẻ chơi trò chơi.
- Trẻ chú ý
* Kết quả thử nghiệm lần 1:
TỔNG SỐ 
ĐẠT
CHƯA ĐẠT
22
16/22 = 72 %
6/22 = 28%
	Kết quả trên cho thấy chất lượng có tăng lên đáng kể, nhưng chưa được cao lắm nên tôi quyết định thử lại lần 2:
- Biện pháp 2: Thử nghiệm lần 2:
BÀI: GIỌT NƯỚC TÍ XÍU
I. Mục đích yêu cầu:
	1. Kiến thức:
	Trẻ biết tên câu chuyện, nhớ tên nhân vật và hiểu nội dung câu chuyện, biết kể tóm tắt theo cô.
	2. Kỹ năng: 
 - Rèn kỹ năng quan sát, chú ý, ghi nhớ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
	- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
	3. Giáo dục: 
 Giáo dục trẻ ngoan chú ý học bài, biết yêu quý và bảo vệ nguồn nước.
	II. Chuẩn bi: 
	- Cô: Tranh minh hoạ câu chuyện, giõy, bút.
	- Trẻ: Trang phục gọn gàng, tâm lý thoải mái
	III. Cách tiến hành:
Hoạt động của cô
Hoạt động của trẻ
1. Hoạt động 1: Trò chuyện về chủ điểm
- Cho trẻ đọc bài thơ “Nắng bốn mùa”
- Chúng mình vừa đọc bài thơ gì?
- Trong bài thơ nói về những mùa gì?
- Trong một năm có mấy mùa?
- Các con ạ trong một năm có 4 mùa, xuân, hè, thu, đông, thời tiết của mỗi mùa cũng khác nhau, mùa nào cũng có lợi ích riêng của nó. Vì vậy các con phải biết ăn mặc phù hợp với thời tiết, yêu quý các mùa trong năm.
- Các con ạ! Nước rất cần cho đời sống hàng ngày đối với con người và động, thực vật. Vì vậy để biết được sự tích về nước thì giờ học hôm nay cô sẽ kể cho các con nghe một câu chuyện để biết được chuyện gì các con hãy chú ý lắng nghe cô kể nhé.
2. Hoạt động 2: 
- Cô kể lần 1 bằng cử chỉ, điệu bộ.
- Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện: "Giọt nước tý xíu" của tác giả Nguyễn Linh.
- Cô kể diễn cảm lần 2: Theo tranh minh họa.
* Giảng nội dung: Từ một giọt nước biển cả Tí xíu đã được ông trời chiếu những tia nắng ấm biến thành hơi bay lên trời, gặp cơn gió lạnh tí xíu trở thành những đám mây, một tia sáng vạch ngang bầu trời, một tiếng sét inh tai, tí xíu lại trở thành những giọt nước mưa rơi xuống mặt đất, ao, hồ, sông suối, rồi theo dòng lại chạy ra biển.
* Đàm thoại.
- Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì? 
- Trong câu chuyện có những ai?
- Tí xíu là ai?
- Tí xíu đến từ đâu?
- Ai rủ ti xíu đi chơi?
- Tí xíu có đi chơi không?
- Ông mặt trời đã làm thế nào để tí xíu bay lên được?
- Tí xíu cùng các bạn đi những đâu?
- Cuối cùng tí xíu và các bạn đã biến thành gì? 
- Giáo dục: Phải trải qua rất nhiều quá trình như vậy mới tạo ra được hạt mưa, mưa rất cần cho đời sống hàng ngày đối với con người và động, thực vật, mưa giúp ích cho cây cỏ hoa lá đâm chồi nảy lộc, cho sinh hoạt hàng ngày của con người vì vậy chúng mình phải biết tiết kiệm nước, không vứt rác xuống sông, kênh mương gây ô nhiễm nguồn nước, vứt rác đúng nơi quy định, giữ gìn bảo vệ môi trường nhé.
* Dạy trẻ kể truyện:
- Cô cho cả lớp kể đồng thanh (Cô là người dẫn chuyện)
- Cho tổ thi đua nhau kể, mỗi tổ 1 đoạn luôn phiên nhau.
- Cho kể kể theo nhóm, mỗi nhóm kể 1 đoạn (Cô là người dẫn chuyên) 
- Gọi 1 cá nhân kể hết toàn bộ câu chuyện.
- Cô chú ý nhận xét tuyên dương trẻ.
3. Hoạt động 3: 
- Cô cho trẻ vẽ mưa..
- Cô phát giấy, bút cho trẻ, gợi ý trẻ vẽ đúng, đẹp.
- Hết giờ cho trẻ ra chơi.
- Trẻ đọc
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ chú ý lắng nghe.
- Trẻ lắng nghe.
- Trẻ chú ý nghe cô kể.
- Trẻ chú ý lắng nghe.
- Trẻ chú ý lắng nghe. 
- Giọt nước ti xíu.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Thành hạt mưa.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ chú ý lắng nghe.
- Trẻ chú ý
- Lớp kể.
- Trẻ kể theo tổ.
- Trẻ kể theo nhóm.
- Cá nhân kể.
- Trẻ vẽ.
- Trẻ ra chơi.
* Kết quả thử nghiệm lần 2:
TỔNG SỐ
ĐẠT
CHƯA ĐẠT
22
21/22 (95%)
1/22 (5%)
4. KẾT QUẢ VIỆC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VÀO GIẢNG DẠY SO VỚI TRƯỚC KHI ÁP DỤNG, KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT.
a. Trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
	 Điều tra chất lượng học của trẻ:
TỔNG SỐ
ĐẠT
CHƯA ĐẠT
22
8/22 (42,3%)
15/26 (57,7%)
b. Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
* Lần 1:
TỔNG SỐ 
ĐẠT
CHƯA ĐẠT
22
16/22 = 72 %
6/22 = 28%
	* Lần 2:
TỔNG SỐ
ĐẠT
CHƯA ĐẠT
22
21/22 (95%)
1/22 (5%)
Qua so sánh kết quả đầu năm và cuối năm có nâng cao rõ rệt. Điều đó chứng tỏ sáng kiến kinh nghiệm khá phù hợp với trẻ, dễ thực hiện, hiệu quả áp dụng khá cao, phù hợp với điều kiện học tập tại trường và ở nhà của trẻ.
c. Kết luận chung:
Như chúng ta đã biết: “Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể” là môn học rất khó đối với trẻ nhưng để trẻ học được và hứng thú học thì người giáo viên phải biết vận dụng tích cực các phương pháp dạy học tìm ra cách truyền thụ kiến thức cho trẻ giúp trẻ dễ hiểu và nhằm nâng cao kiến thức cho trẻ nhận biết một cách dễ dàng hơn. 
Qua những nội dung phương pháp mà tôi đưa ra đối với các môn học khác nói chung và môn “Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể”, tôi thấy nhận thức của trẻ trong giờ học đạt được hiệu quả cao hơn sao với cách làm cũ.
	d. Bài học kinh nghiệm:
	Qua thực tế vận dụng sáng kiến kinh nghiệm và giảng dạy tôi nhận thấy để có tiết học sinh động, hấp dẫn lôi cuốn trẻ tích cực tham gia hoạt động một cách tự nhiên thoải mái giúp trẻ tiếp thu tốt kiến thức về môn phát triển ngôn ngữ mạch lạc giáo viên cần:
	- Nắm chắc phương pháp của bộ môn, tích cực tìm tòi, vận dụng linh hoạt phương pháp giáo dục mới, đồ dùng sáng tạo hợp với bài dạy, câu hỏi đưa ra hợp lý kích thích tính hứng thú, đồng thời khuyến khích trẻ đưa ra những câu hỏi thắc mắc của mình trong hoạt động sẽ đem lại kết quả cho giờ học.
	- Thực sự yêu nghề có lòng nhiệt huyết, tận tâm với nghề.
	- Phải gần gũi thân mật với trẻ, nắm bắt được tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp phù hợp.
	- Biết tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để tạo ra những đồ dùng đồ chơi gây hứng thú cho trẻ.
	- Luôn học hỏi nghiên cứu về chuyên môn đồng thời áp dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy.
	- Biết lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp về chuyên môn.
	- Thường xuyên kết hợp với gia đình có biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng đạt kết quả cao.
	e. Kiến nghị, đề xuất:
	* Với phòng GD&ĐT Sốp Cộp: 
	Quan tâm, cung ứng đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi nhất là tranh ảnh, dụng cụ vẽ liên quan tới bộ phát triển ngôn ngữ để giáo viên của trường nói chung, bản thân tôi nói riêng thực hiện tốt sáng kiến, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
	Cung ứng các sách tham khảo, tài liệu liên quan tới đổi mới phương pháp dạy học để bản thân tôi nói riêng, giáo viên bậc học mầm non trong huyện nói chung có điều kiện học tập, tiếp thu kinh nghiệm hay để vận dụng vào thực tế giảng dạy.
	Tổ chức đánh giá hiệu quả của sáng kiến, triển khai áp dụng trong toàn ngành, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục nói chung.
	g. Với trường Hoa Chăm Pa:
	Tiếp tục giúp đỡ tôi hoàn thiện sáng kiến, tạo mọi điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến vào thực tế nhà trường, góp phần đưa sự nghiệp giáo dục của nhà trường trở thành lá cờ đầu cho phong trào thi đua “dạy tốt học tốt”.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy ở lớp, ở trường mà tôi đã áp dụng vào trong thực tế trong suốt thời gian qua. Từ những sáng kiến này rất mong có được nhưng ý kiến đóng góp chân thành của Ban Giám hiệu nhà trường, các bạn đồng nghiệp cùng tất cả các cấp lãnh đạo có liên quan giúp tôi hoàn thiện hơn, vững vàng hơn trên con đường truyền thụ kiến thức của mình đến với trẻ.
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Phương pháp dạy trẻ học nói thế nào – Tác giả: Kha - Hai- Nơ -Đich.
 NXBGD1990
- Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi.
Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua bộ môn làm quen văn học.
Website hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em: 
- Tâm lí học trẻ em.
********************************
 XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG Sốp cộp ngày tháng năm 2016
 KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG Người viết
 TM: Hiệu trưởng 
 Lò Thị Chinh

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phat_trien_ngon_ngu_mach_lac_cho_tre_t.doc