Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài biện pháp nhằm duy trì sĩ số học sinh

Với mong muốn làm tốt công tác chủ nhiệm lớp và có thêm những kinh nghiệm quý báu trong việc duy trì sĩ số học sinh, cùng với những trăn trở về thực trạng một số học sinh bỏ học học hiện nay, tôi xin mạnh dạn đưa ra đề tài: “Một vài biện pháp nhằm duy trì sĩ số học sinh ” hy vọng qua quá trình thực hiện đó có thể rút ra những bài học nhằm đóng góp một phần kinh nghiệm nhỏ trong việc hạn chế tình trạng học sinh bỏ học, nghỉ học hiện nay.

 

doc 20 trang phuongnguyen 5440
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài biện pháp nhằm duy trì sĩ số học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài biện pháp nhằm duy trì sĩ số học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài biện pháp nhằm duy trì sĩ số học sinh
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP. PLEIKU
TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT VÀI BIỆN PHÁP NHẰM DUY TRÌ SĨ SỐ 
HỌC SINH 
NĂM HỌC : 2011 - 2012
MỘT VÀI BIỆN PHÁP NHẰM DUY TRÌ SĨ SỐ HỌC SINH
PHAÀN THÖÙ NHAÁT: ÑAËT VAÁN ÑEÀ
 	Trong bối cảnh kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn như hiện nay, việc học sinh, nhất là học sinh người dân tộc thiểu số bỏ học đã trở thành nỗi bức xúc của toàn xã hội. Việc thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục trung học cơ sở của Đảng và Nhà nước đúng kế hoạch có lẽ là vấn đề nan giải đối với một tỉnh miền núi điều cv``kiện phát triển kinh tế còn gặp nhiều khó khăn như Gia Lai. Vì vậy, vấn đề duy trì sĩ số ở trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay có một tầm quan trọng hết sức đặc biệt. Dư luận xã hội, ý kiến của những người có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục hết sức lo lắng trước tình trạng nghỉ học, bỏ học của học sinh phổ thông. 
Nền kinh tế thị trường tạo những tiền đề thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của nền kinh tế nước ta. Tuy vậy, một số nhược điểm của nó cũng đã bộc lộ, đó là sự cạnh tranh kinh tế, quy luật phát triển không đồng đều đã tạo ra sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc. Khoảng cách của mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa người giàu và người nghèo ngày càng lộ rõ, mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn có những chủ trương và chính sách để hỗ trợ người nghèo. 
Mặt khác những hạn chế của nền kinh tế thị trường đã và đang tác động đến suy nghĩ, lối sống thực dụng của một số bộ phận thanh thiếu niên, học sinh. Nhà trường, đặc biệt là các trường phổ thông đang đứng trước những thách thức lớn vì phải đối mặt với những thách thức lớn vì phải đối mặt với những mâu thuẫn lớn cần phải giải quyết. Một bên là chất và một bên là lượng. Làm sao để vừa đảm bảo được số lượng học sinh không ngồi nhầm lớp vừa đảm bảo được học sinh không bỏ học, nghỉ học. 
Thực tế hiện nay ở các trường phổ thông, các thầy cô giáo đang cố gắng thực hiện đảm bảo yêu cầu: dạy đúng, dạy đủ nội dung, chương trình sách giáo khoa hiện hành. Thực hiện được yêu cầu này cũng đã đáng biểu dương. Còn việc duy trì sĩ số học sinh, vẫn được nghiễm nhiên xem đó là việc của lãnh đạo nhà trường và của các cấp quản lý ngành giáo dục. Đây là một nhận thức không đúng và ở trong suy nghĩ của không ít giáo viên. Nói như thế, không có nghĩa là phủ nhận công lao và hoạt động nỗ lực của thầy cô để góp phần động viên học sinh đến trường, đến lớp. 
Xuất phát từ thực tế nêu trên, trong quá trình giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi đã mạnh dạn tập trung tìm hiểu, sử dụng những giải pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu làm sao duy trì tốt sĩ số học sinh ở những lớp mình được nhà trường phân công phụ trách tôi luôn xác định rõ phương hướng và nhiệm vụ của hai mặt giáo dục là “Dạy chữ” và “Dạy người”, việc giáo dục đạo đức cho học sinh là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết đối với từng cấp học, nó là cơ sở để giúp học sinh phát triển toàn diện. Với mong muốn làm tốt công tác chủ nhiệm lớp và có thêm những kinh nghiệm quý báu trong việc duy trì sĩ số học sinh, cùng với những trăn trở về thực trạng một số học sinh bỏ học học hiện nay, tôi xin mạnh dạn đưa ra đề tài: “Một vài biện pháp nhằm duy trì sĩ số học sinh ” hy vọng qua quá trình thực hiện đó có thể rút ra những bài học nhằm đóng góp một phần kinh nghiệm nhỏ trong việc hạn chế tình trạng học sinh bỏ học, nghỉ học hiện nay.
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I.Vị trí vai trò, tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp với vấn đề duy trì sĩ số học sinh: 
 	Đất nước đang ở vào thời kỳ chuyển mình mạnh mẽ để hội nhập vào trào lưu phát triển chung của toàn cầu. Sự hội nhập và phát triển của đất nước đang đặt ra cho từng địa phương từng gia đình và từng cá nhân những cơ hội lớn lao để phát triển. Bên cạnh cơ hội là những yêu cầu hết sức khó khăn mà từng đối tượng phải nỗ lực để vượt qua. Nhà trường trong tình hình phát triển mới của ngành giáo dục và của đất nước rõ ràng mang trên mình trách nhiệm càng lớn lao hơn . 
 	Trường học không những chỉ phải đào tạo những thế hệ học sinh học giỏi, đạo đức tốt mà còn phải là những con người năng động, sáng tạo. Do đó công tác giáo dục trong bối cảnh mới cũng phải có những yêu cầu mới phù hợp hơn.
 	Sự nghiệp giáo dục nước nhà đang ở vào giai đoạn cải cách, đang gặp những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, như Bác Hồ đã nói “ Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt, trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hoá và chuyên môn, nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong thời gian không xa đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật” (Trích “ Thư của Bác Hồ gửi ngành giáo dục nhân dịp khai giảng năm học 1968 -1969”.
Dạy học là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường phổ thông. Cụ thể, nhiệm vụ vinh quang này được trao cho đội ngũ thầy cô giáo; nhưng để thực hiện tốt việc dạy của thầy thì điều trước tiên phải có là sự hiện diện của trò, bởi vì nếu không có trò thì thầy dạy ai? Một thực trạng hiện nay là học sinh, nhất là học sinh người dân tộc thiểu số, bỏ học nhiều. Người thầy giáo sẽ phải làm gì để hạn chế, ngăn chặn việc học sinh bỏ học? Học sinh bỏ học thì trách nhiệm thuộc về ai? Gia đình, nhà trường hay xã hội ? Trách nhiệm của gia đình và xã hội chắc chắn là rất lớn nhưng vai trò của nhà trường cũng không nhỏ. Trong nhà trường, ai sẽ có vai trò lớn trong việc giúp học sinh không bỏ học ? Các thầy cô giáo bộ môn thông qua việc dạy học bộ môn (nhiệm vụ chuyên môn) để bồi dưỡng kiến thức khoa học theo từng môn cho học sinh. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh thông qua các sinh hoạt tập thể để nhằm thu hút, tập hợp các em, giáo dục lý tưởng và các kỹ năng hoạt động xã hội cho các em. Với các hoạt động thi đua có tính phong trào, Đoàn và Đội thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường sinh hoạt vui, khỏe, lành mạnh để tập hợp lôi kéo các em tham gia, giúp các em có thêm niềm vui khi đến trường, đến lớp. Đoàn Thanh niên và Đội Thiếu niên không thể theo sát từng học sinh. Không thể nắm rõ từng mặt tích cực và hạn chế, những khó khăn và thuận lợi trong sinh hoạt, học tập của các em để có thể có những biện pháp giáo dục, động viên các em một cách sát thực và kịp thời khi các em có ý bỏ học. Các thầy cô bộ môn, trên một chừng mực nào đó có thể nói rằng: thông qua dạy chữ để dạy người. Việc dạy dỗ tận tình, chu đáo của các thầy cô có một tác dụng lớn đối với việc giáo dục nhân cách cho các em, giúp các em có tấm lòng hiếu học. Các em sẽ cố gắng đi học đều đặn nếu đến lớp các thầy cô giảng dạy dễ hiểu, giúp các em dễ tiếp thu bài, ham thích việc học. Nhiệm vụ chuyên môn vẫn là hàng đầu và trong từng tiết dạy, hoàn thành kế hoạch lên lớp (giáo án không bị cháy ) đã là điều chấp nhận được. 
Ngoài mức độ trên, chúng ta không thể đòi hỏi người giáo viên bộ môn có trách nhiệm cao hơn được nữa. Nhất là trong hoàn cảnh ngành giáo dục cả nước vừa mới thay đổi chương trình, sách giáo khoa, người thầy giáo đang còn phải tận lực để tiếp cận, thâm nhập chương trình với khối lượng kiến thức lớn để vận dụng tốt những phương pháp dạy học mới.
Giáo viên chủ nhiệm - người có vị trí quan trọng - trước hết là người thay mặt Hiệu trưởng nhà trường triển khai cụ thể và đôn đốc học sinh thực hiện các chủ trương hoạt động của trường; là người phối hợp trách nhiệm của các giáo viên bộ môn dạy ở lớp; còn là người lãnh đạo, tổ chức và hướng dẫn tất cả mọi hoạt động của lớp; là người làm cầu nối cho mối quan hệ gia đình - nhà trường - xã hội; chính vì vậy nên công tác chủ nhiệm được quy đổi tương đương một số tiết dạy nhất định. Do những đặc điểm về vai trò đó, giáo viên chủ nhiệm luôn phải theo sát học sinh, nắm bắt kịp thời những diễn biến tư tưởng, tâm lý các em để có thể giúp đỡ, giáo dục các em kịp thời và có hiệu quả. 
II .Tìm hiểu tình hình nghỉ, bỏ học của học sinh và các biện pháp ngăn ngừa, vận động:
1. Đặc điểm tình hình của lớp:
 	Năm học 2011 – 2012 tôi được nhà trường giao chủ nhiệm lớp 8N, một trong những lớp yếu nhất của trường. Theo tình hình ban đầu: 
 - Tổng số học sinh của lớp 42 em
 - Hạnh kiểm: 
Tốt: 19 em
Khá: 16 em
Trung bình: 7 em
 - Học tập:
Giỏi: 5 em
Khá: 12 em
Trung bình: 17 em
Yếu: 8 em
 	Qua một quá trình thu thập, tập hợp các thông tin về lớp và học sinh, tôi đã rút ra những đặc điểm tình hình tư tưởng, về việc học của các em.
 	Tư tưởng, ý thức về việc học của học sinh và của gia đình học sinh được thể hiện phần nào qua tác phong của các em như cách ăn mặc, cách trang phục và việc thực hiện nội quy của trường và các quy định của lớp.
 	Xét về mặt lý luận cũng như thực tế: những gia đình (có mức sống trung bình) mà cha mẹ có ý thức chăm lo đến việc học thì con cái họ luôn đến trường với tác phong mẫu mực, đúng nghĩa học trò: đồng phục, áo quần gọn gàng, sạch sẽ, sách vở được bao bìa cẩn thận. Những học sinh ở nhóm này thường là học sinh chuyên cần, chăm chỉ, hầu như không bao giờ vắng, nghỉ học không có lý do chính đáng. 
Ngược lại, những gia đình cả cha lẫn mẹ thiếu sự quan tâm về việc học của con thì tác phong đến trường của các em này cũng khác: áo quần luộm thuộm, sách vở lôi thôi, không có được thái độ, ý thức học tập tốt. Hay bỏ buổi, bỏ giờ, nhất là giờ các môn học khó. Lớp chủ nhiệm của tôi có 24 học sinh nam, trong đó 5 em để tóc dài và rẽ ngôi, chải chuốt và ý thức học tập của các em này rất thấp. Về ăn mặc, số nam sinh này thường không mặc đồng phục và không bỏ áo vào trong quần, không đeo khăn quàng theo quy định của nhà trường. 
Một vấn đề quan trọng khác cũng nói lên ý thức tư tưởng học tập của các em, đó là việc chấp hành nội quy học tập. Có em thỉnh thoảng nghỉ học không lí do, đến lớp không chịu học bài và làm bài tập do giáo viên giao về nhà. Đặc biệt tinh thần đoàn kết trong lớp không được như các lớp khác. Vì ở lứa tuổi lớp 8 nên tâm lí các em có những thay đổi lớn. Xu hướng muốn vươn lên làm người lớn đã gây ra những bất đồng, mâu thuẫn, xích mích giữa các em trong lớp. Sự chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, bè phái đã diễn ra. 
Khối đoàn kết, tình thân ái giữa học sinh trong lớp không cao, niềm vui của lứa tuổi học trò bị thiếu. Đây chưa phải là nguyên nhân chính, nhưng nó chính là chất dính quan trọng để tạo nên sự gắn kết giữa các thành viên trong lớp, giúp các em có thêm niềm vui để đến trường sinh hoạt và học tập tốt hơn.
 	Sau khi tìm hiểu tình hình tư tưởng của lớp, và nắm được những yếu tố tác động đến ý thức, tác phong học tập của các em cùng những đặc điểm cụ thể của lớp, tôi đã đề ra những biện pháp phù hợp để thực hiện quá trình giáo dục của mình.
2. Tổ chức hoạt động nắm tình hình và tư tưởng nghỉ học của học sinh.
a. Tìm hiểu hoàn cảnh của học sinh:
Vị trí vai trò của người giáo viên chủ nhiệm rõ ràng hết sức quan trọng đối với chiều hướng duy trì sĩ số của một lớp. Để có thể đề ra những giải pháp đúng đắn nhằm thực hiện trọn vẹn vai trò của mình, việc tìm hiểu và nắm chính xác các thông tin về tình hình mọi mặt của lớp, nhất là vấn đề bỏ học của học sinh là một công việc tốn nhiều công sức. Trong quá trình tìm hiểu tình hình chung cần tập trung chú ý đến khả năng học tập và hoàn cảnh gia đình của các em; đặc biệt lưu ý đến những em học sinh vốn đã học yếu lại có hoàn cảnh gia đình khó khăn .
Để nắm tình hình về học sinh một các toàn diện, sâu sắc, tôi đã tiến hành nhiều hoạt động. 
Trước hết, tôi yêu cầu các em lập cho tôi một bản “sơ yếu lý lịch” trích ngang. Nội dung của lý lịch ngắn gọn nhưng phản ánh đầy đủ các thông tin về tình hình gia đình (nghề nghiệp của cha mẹ, số nhân khẩu trong nhà), quan hệ gia đình - xã hội (tôn giáo, diện chính sách xã hội). Sau đó tôi lập một phiếu điều tra để tìm hiểu về khả năng, sở trường, các tâm tư, nguyện vọng và một số nội dung liên quan tới cuộc sống của các em ở gia đình. Tập hợp lý lịch và phiếu điều tra của từng em, xem xét nghiên cứu và tôi đã có thể nắm những nét khái quát về từng em và gia đình (những em có hoàn cảnh đặc biệt được tôi lưu ý nhiều hơn, tôi đánh dấu sao ( *) ở đầu danh sách để ghi nhớ). 
Công tác điều tra, thu thập thông tin được tôi hết sức quan tâm. Qua tập hợp nội dung sơ yếu lý lịch, phiếu điều tra, tôi thống kê, phân loại được các số liệu về lớp tôi phụ trách công tác chủ nhiệm như sau:
Về thành phần gia đình, xã hội: Lớp có 07 học sinh người dân tộc JaRai, 03 em thuộc đối tượng con thương binh. Có 03 em học sinh lưu ban . Về tôn giáo có 12 em gia đình theo đạo Phật, 05 em theo Thiên Chúa Giáo. Địa bàn cư trú của đa số các em thuộc vùng Trà Bá, Phù Đổng Pleiku.
 	Về thành phần kinh tế: 16 em thuộc gia đình sinh sống bằng nghề nông, 14 em thuộc thành phần buôn bán nhỏ và cán bọ, công chức nhà nước, 12 em có cha, mẹ làm các nghề tự do (thợ nề, thợ mộc, chạy xe ôm, làm nghề theo thời vụ). Trong số những học sinh có cha mẹ, làm nông, buôn bán, tôi tiếp tục phân loại cụ thể hơn và xác định được: có 12 em thuộc gia đình nông dân nghèo hoặc buôn bán hàng rong mà số nhân khẩu trong nhà lại đông. 
 	Về đặc điểm tình hình chung của lớp: Ban cán sự lớp có tinh thần làm việc tốt, nhiệt tình. Tuy vậy, lớp vẫn còn những hạn chế về nề nếp, ý thức học tập chưa cao. Đặc biệt là tình trạng học yếu của một số em ở trong diện gia đình nghèo. Một số em có nhà ở cách trường rất xa, gia đình lại khó khăn, không mua được xe đạp nên việc đi lại học tập của các em lại càng khó khăn hơn (như em Hoan, em Minh). Bên cạnh đó còn có một số em thiếu sự quan tâm lo lắng của gia đình. Những phụ huynh của các em này hầu như giao khoán việc học của con em họ cho nhà trường (em Mai, Hà, Thái, Dung). Có em, dù còn ít tuổi nhưng ngoài các buổi đi học ở trường còn phải tự làm việc để kiếm tiền lo cho việc học và phụ giúp gia đình.
 	Thực hiện công tác điều tra nêu trên, đã giúp tôi có một bức tranh tổng thể về lớp chủ nhiệm và những công việc mà tôi phải thực hiện trong năm học. Sau đó, để hiểu về các em một cách rõ ràng và có tính chính xác cao hơn tôi đã tìm gặp trao đổi với những người liên quan đến các em (giáo viên chủ nhiệm năm học trước, một số giáo viên bộ môn có tâm huyết và dạy môn học có số tiết được phân bố nhiều như Toán, Văn; bạn cùng xóm, cùng trường). Ngoài ra, để tìm hiểu và đánh giá các em một cách khách quan, chân thực hơn tôi còn phải để thời gian và tập trung chú ý quan sát các em qua các hoạt động như lao động, sinh hoạt văn nghệ, kể cả cách chơi đùa của các em trong giờ giải lao. Qua tìm hiểu tôi thấy có em sống trong gia đình rất nghèo nhưng lại được sự quan tâm chu đáo của bố mẹ. Có em sống trong gia đình rất sung túc nhưng bố mẹ lại thờ ơ đến việc giáo dục con em. Có em phải làm việc nhiều hơn là học. Và cũng có em sống trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt như mồ côi, gia đình không hạnh phúc và như vậy cứ mỗi một hoàn cảnh đều liên quan đến đạo đức, học tập của các em từ đó có nguy cơ dẫn đến các em bỏ học, vi phạm đạo đức hoặc giao du với những phần tử xấu của xã hội.
 	Công việc cực kỳ quan trọng (không thể bỏ qua) tiếp theo là thăm hỏi gia đình học sinh. Vì không thể bố trí đủ thời gian để đi đến tất cả mọi gia đình của các em trong lớp, tôi phải ưu tiên chọn ra một số em để đi thăm, ưu tiên số một là học sinh có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, cha mẹ làm nông hoặc làm các nghề tự do ... hông còn thể hiện vai trò của giáo viên chủ nhiệm. Tất cả đều do già làng chủ động nói chuyện với cha mẹ và anh chị của em Khan. Họ nói chuyện với nhau bằng tiếng JaRai. Tôi không hiểu gì nhưng qua cử chỉ và thái độ của những người tham gia đối thoại, tôi biết chắc chắn rằng em Khan sẽ được yêu cầu đi học lại. Gần cuối buổi tiếp xúc, tôi mới trao đổi với anh, chị của Khan một số vấn đề về khả năng và ý thức học tập của em Khan. Tôi nói rõ: sở dĩ em học yếu, kết quả thấp là do ham chơi, không chịu học. Qua trao đổi, tôi cũng biết được em Khan chỉ thích vào các làng bắt chim, bắt cá hơn là học bài, làm bài. Tôi đề nghị gia đình quản lý tốt hơn việc “bắt chim, bắt cá” của em Khan, yêu cầu em học cũng phải tốt như “bắt chim, bắt cá”. Biết được tâm lý học sinh người dân tộc rất dễ tự ái, mặc cảm, khi em Khan đi học trở lại, tôi không nói gì, chỉ lặng lẽ đề nghị các giáo viên bộ môn quan tâm giúp đỡ em hơn. Nhưng để bảo đảm chắc chắn hơn, qua em Khan tôi gửi lời cám ơn đến với già làng kèm theo một món quà nhỏ của tôi nhờ em Khan trao giúp. Thực hiện việc này, tôi đã xây dựng được một chỗ dựa của mình ở làng và đó chính là nhân tố góp phần ngăn chặn việc bỏ học trở lại của em Khan. 
 	Cũng qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, tôi rút được kinh nghiệm: Để hỗ trợ tốt cho giáo viên trong việc quản lý lớp nói chung, duy trì sĩ số của lớp nói riêng thì việc có một Ban cán sự lớp năng động, tích cực và học tốt, có uy tín là điều không thể thiếu được. Biết được điều này, trong quá trình tổ chức bộ máy cán bộ lớp tôi hết sức quan tâm việc chọn nhân sự và luôn theo dõi quá trình, cung cách làm việc của các em. Nhờ xây dựng bộ máy cán bộ lớp tốt, các em đã giúp tôi thực hiện tốt nhiều việc. Thực tế ở lớp tôi chủ nhiệm, có học sinh bỏ học vì những lý do tế nhị mà em không bao giờ nói được với thầy cô giáo hoặc với cha mẹ. Những vấn đề tế nhị đó chỉ được trao đổi hẹp trong nội bộ các em với nhau. Vì vậy, qua các thành viên trong Ban cán sự lớp, tôi luôn tìm cách tìm hiểu, nắm thông tin về hoàn cảnh, suy nghĩ của học sinh khi có em bỏ học, nghỉ học. Trên cơ sở hiểu rõ nguyên nhân nghỉ học của các em, tôi mới có cách xử lý phù hợp. Cụ thể, ở lớp tôi chủ nhiệm có em Mai, một học sinh nữ, có hoàn cảnh gia đình khá khó khăn, học lực trung bình, hạnh kiểm tốt bỏ học ngay sau khi sơ kết học kỳ I. Việc em Mai bỏ học nằm ngoài dự kiến của tôi. Gia đình của em có khó khăn nhưng không phải quá khó đến mức phải nghỉ học. Với lực học của em thì lý do em bỏ học chắc chắn không phải vì học yếu. Tôi gọi em Đức, lớp trưởng và là một học sinh được bạn bè yêu mến, tin cậy. Tôi bảo em tìm hiểu và cho tôi biết lý do em Mai bỏ học. Bằng cách thăm dò các bạn trong lớp, em Đức báo cho tôi rõ: Mai bỏ học vì gia đình khó khăn. Suốt cả học kỳ I, Mai đến trường chỉ với một bộ đồng phục (quần xanh, áo trắng) duy nhất. Tôi dự đoán: Em Mai là một học sinh nữ, tính tình hiền lành, ít nói, không đua đòi ăn diện nhưng ở lứa tuổi các em, các em dễ buồn và mặc cảm với bạn bè trong cách ăn mặc nên đã bỏ học.
 Đây là trường hợp bỏ học vì một lý do tế nhị, vì vậy, đầu tiên tôi gặp và nói chuyện tâm tình với em như một người bạn cùng cảnh ngộ để giải tỏa một phần tư tưởng mặc cảm của em. Sau đó, tôi đến thăm gia đình, hỏi về việc bỏ học của em. Cha mẹ em cũng không hiểu rõ vì sao em bỏ học. Họ bảo rằng: em chán học, nghỉ học vì học không nổi, theo không kịp bạn bè. Tôi tìm cách gặp riêng mẹ em và trình bày cho mẹ em biết về khả năng, lực học của em đồng thời nêu rõ những điều tôi biết được về nguyên nhân bỏ học của em (qua tìm hiểu ở các học sinh trong lớp và qua tâm sự của em). Mẹ em, với bản năng của một người phụ nữ, nhận thức nhanh được vấn đề và tìm cách khắc phục tế nhị theo hướng gợi ý của tôi. Kết quả thật đáng phấn khởi, em Mai đi học trở lại với bộ quần áo mới và nụ cười tự tin hơn . 
 	Trong thời gian làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi đã có lần thực hiện không thành công việc vận động học sinh bỏ học đi học trở lại. Đó là trường hợp của em Sơn, một học sinh nam, với hoàn cảnh cá nhân khá đặc biệt: do kinh tế gia đình khó khăn, nhà ở xa trường, bước vào học lớp 1 muộn 01 tuổi, dù tuổi lớn so với bạn bè cùng lớp nhưng khả năng tư duy của em rất chậm, do đó em không theo kịp bạn bè. ở lớp 4, bậc Tiểu học, em bị lưu ban. Bước vào bậc Trung học cơ sở, em lại tiếp tục lưu ban ở lớp 7. Năm học lớp 8 do tôi chủ nhiệm, qua khảo sát đầu năm, lực học của em rất kém, đến hết học kỳ 1, kết quả vẫn không thay đổi. Kinh tế gia đình thuộc diện rất khó khăn. Tôi biết rõ, em đã cố gắng hết mình để theo học. Thế nhưng, lực học và tình hình kinh tế gia đình em không thể đáp ứng được. Sau khi sơ kết học kỳ I, em tìm gặp tôi và xin nghỉ học. Việc này không tạo cho tôi một sự ngạc nhiên nào cả, bởi vì tôi đã xác định trước điều này. Biết việc nghỉ học của em là điều tất yếu, nhưng với lương tâm và trách nhiệm của một giáo viên, tôi cũng thử sử dụng hết tất cả các giải pháp có thể sử dụng (huy động sức mạnh của Ban chấp hành Hội phụ huynh, Hội khuyến học, tập thể lớp, trao đổi với gia đình...). Tất cả đều không hiệu quả. Em vẫn nghỉ học. Tại sao như thế?
 	Thực tế nêu trên làm cho tôi suy nghĩ rất nhiều để rồi đi đến khẳng định: Em nghỉ học là điều không thể thay đổi, bởi vì, với độ tuổi của em, các bạn cùng lứa đã ngồi học ở lớp 11 bậc THPT, nếu có tiếp tục học, em cũng có khả năng tiếp tục lưu ban ở năm lớp 8 và khả năng này là rất lớn. Tình hình kinh tế gia đình không cho phép em được lưu ban một lần nữa. Qua phân tích, nhận định như thế, tôi quyết định dừng các cố gắng tác động của mình, chấp nhận thất bại với lời động viên cuối cùng của tôi với em: “Có nhiều con đường để bước vào đời, không học ở nhà trường phổ thông, em có thể vừa đi làm giúp cha mẹ, vừa đi học ở các lớp bổ túc văn hóa vào ban đêm để có vốn văn hóa trang bị cho đời sống sau này”. Em đã thực hiện đúng như lời khuyên của tôi, ban ngày đi phụ thợ hồ, ban đêm đi học bổ túc văn hóa.
 	Việc giúp đỡ, động viên em tiếp tục học ở nhà trường phổ thông đã vượt quá khả năng của nhà trường và tầm của một giáo viên chủ nhiệm lớp như tôi. Mặc dù đã thất bại trong việc ngăn chặn tình trạng bỏ học của em Sơn nhưng tôi vẫn xin được nêu ra ở đây để các đồng nghiệp cùng suy nghĩ và có thể có những giải pháp hiệu quả để thực hiện thành công. 
PHAÀN THÖÙ BA :
KEÁT QUAÛ VAØ VIEÄC PHOÅ BIEÁN ÖÙNG DUÏNG 
NOÄI DUNG VAØO THÖÏC TIEÃN
I.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: 
Qua một số biện pháp thực hiện như đã nêu trên tôi thu được kết quả thực tế đáng phấn khởi: sau ba năm học làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi đã vận động được 4/5 học sinh bỏ học và có nguy cơ bỏ học quay trở lại lớp, con số không lớn nhưng đó cũng là niềm vui, phần thưởng vô giá của tôi. 
Từ kinh nghiệm năm học trước, với các biện pháp trên, tôi tiếp tục áp dụng cho năm học này để hoàn thành tốt công tác chủ nhiệm của mình. Từ một lớp có học sinh dân tộc yếu – kém trong học tập lớp tôi đã có sự tiến bộ rõ rệt.
Kết quả cụ thể học kỳ 1 năm học 2011 - 2012 như sau:
- Hạnh kiểm:
Sĩ số
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
42
30
71,4
12
28,6
0
0
- Học lực:
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
42
15
35,7
13
31
12
28,6
2
4.7
- Danh hiệu của lớp : Tiên tiến
- Chi đội đạt	 : Vững mạnh xuất sắc
- Duy trì sĩ số : 100%
II/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
	Qua nhiều năm trực tiếp làm công tác chủ nhiệm lớp. Đặc biệt trong năm học 2011-2012 đến thời điểm này lớp tôi có nhiều tiến bộ rõ rệt, các em học sinh dân tộc thiểu số, các em học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, hoàn cảnh khó khăn... đã đi học đầy đủ, chuyên cần và vươn lên học khá, tốt không có em nào bỏ học giữa chừng. Nhiều học sinh tiến bộ, ý thức đạo đức, tự giác trong học tập, có học sinh giỏi, có học sinh khá, học sinh trung bình, không còn học sinh yếu kém. Bản thân tôi rút ra được những bài học kinh nghiệm sau:
+ Đối với giáo viên:
 Trước tiên, cần phải có tình thương yêu chân thành với học trò, hiểu những chuyển biến về thể chất và tâm lý của các em trong giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn. Thật sự hiểu sâu sắc và thông cảm với những suy nghĩ, tâm tư của phụ huynh học sinh, nhất là đối với những người ở trong gia cảnh mà kinh tế gặp khó khăn, điều kiện lo cho con ăn học bị hạn chế. Đây là tiền đề và cũng là động lực thúc đẩy người thầy có những suy nghĩ và giải pháp hoạt động đúng đắn để góp phần ngăn chặn tình trạng bỏ học.
 	Từ tiền đề và động lực nêu trên, ngay từ những ngày đầu, khi nhận trách nhiệm làm công tác chủ nhiệm, giáo viên phải thực sự quan tâm đến vấn đề duy trì, đảm bảo sĩ số của lớp. Phải đặt mục tiêu duy trì, đảm bảo sĩ số lớp ngang tầm với các mục tiêu giáo dục khác. Có kế hoạch thực hiện, cùng những giải pháp được tính toán, cân nhắc, lựa chọn cẩn thận.
 	Thường xuyên quan tâm, theo dõi sĩ số của lớp, hết sức lưu ý đến những đối tượng học sinh ở trong diện có khả năng bỏ học. Khi có học sinh nghỉ học 2 ngày mà không có phép, không có lý do thì giáo viên chủ nhiệm phải đến nhà học sinh này để tìm hiểu nguyên nhân từ đó vận động học sinh và gia đình để em này tiếp tục đi học lại càng sớm càng tốt, không nên để các em nghĩ học nhiều ngày vì nếu nghĩ lâu việc thuyết phục các em trở lại trường sẽ gặp nhiều khó khăn. Phải làm cho các em thấy việc học vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi lại vừa là niền vui. Tuyệt đối tránh tình trạng để các em nghỉ với thời gian quá lâu giáo viên mới xử lý nhằm hạn chế tư tưởng e ngại và mặc cảm của các em. 
 	Các giải pháp tuyên truyền, vận động học sinh (khi có học sinh bỏ học) đi học trở lại, phải được suy nghĩ, chọn lựa thật thận trọng và tùy theo nguyên nhân bỏ học, đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của từng em để có giải pháp cụ thể. Khi học sinh đi học trở lại, giáo viên không chủ quan, cần có những giải pháp hỗ trợ cần thiết giúp học sinh củng cố niềm tin, an tâm học tập, vì có thể có tình trạng tái bỏ học. Nếu để hiện tượng tái bỏ học xảy ra thì có lẽ sẽ không có biện pháp nào có thể làm cho học sinh đi học lại một lần nữa.
Hãy giúp đỡ các em để các em tiếp thu được kiến thức một cách đúng nghĩa, phải bám lấy học sinh để có những biện pháp thật phù hợp cho từng đối tượng, từng hoàn cảnh cụ thể của từng em chứ không phải chỉ giúp các em bám lớp, có như vậy các em mới có hứng thú trong học tập, các em sẽ thực sự bám lớp.
	Là một giáo viên chủ nhiệm lớp với học sinh dân tộc địa phương chúng ta phải thật tế nhị và phải nhiệt tình dành nhiều thời gian và công sức kết hợp với địa phương, với già làng, với hội khuyến học trường của phường và với gia đình các em nếu thấy các em có nguy cơ bỏ lớp. Công việc này có nhiều khó khăn nhất định nhưng với tình thương đối với các em và lòng quyết tâm của giáo viên chúng ta nhất định chúng ta sẽ thành công trong việc thuyết phục các em không bỏ lớp. 
+ Đối với tập thể lớp:
 Phải xây dựng tập thể lớp trở thành một tập thể đoàn kết, thân ái có một không gian thân thiện, hòa hợp, thật sự trở thành một địa chỉ mà các thành viên có thể cảm nhận được sự chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cá nhân. 
+ Đối với các lực lượng phối hợp: 
 Biết kết hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn để có thông tin đầy đủ và chính xác hơn về học sinh của mình tạo điều kiện giúp đỡ kèm cặp những học sinh yếu kém.
Kết hợp với đoàn đội để kiểm tra và theo dõi thường xuyên, phát hiện kịp thời những em vi phạm để có hướng giúp đỡ các em tiến bộ.
 	Kết hợp với địa phương phát hiện và ngăn chặn kịp thời những em giao du với phần tử xấu của xã hội, động viên những học sinh có tư tưởng bỏ học.
Giáo viên chủ nhiệm là người đóng vai trò trung tâm trong hoạt động duy trì sĩ số học sinh. Các lực lượng khác (giáo viên bộ môn, Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên, Hội cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương, già làng, trưởng thôn) là những lực lượng hết sức quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm không thể nào thực hiện được mục tiêu duy trì sĩ số nếu không thực hiện được vai trò trung tâm của mình, không tạo được sự hỗ trợ tổng hợp và tận tình của các lực lượng này.
III.KẾT LUẬN :
Việc duy trì sĩ số học sinh là nhiệm vụ quan trọng trong công tác dạy và học của các nhà trường. Đặc biệt làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh (đặc biệt là học sinh dân tộc) là góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường góp phần phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở địa phương.
Từ thực tế tôi nhận thấy, duy trì sĩ số học sinh hơn hết đòi hỏi người giáo viên phải có sự đam mê nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm cao, hết lòng vì học sinh. Cảm nhận và chia sẻ với những tâm tư, nguyện vọng và hoàn cảnh mà các em học sinh phải vượt qua. Người làm nghề dạy học như chúng ta ngoài chữ “tâm” còn phải có chữ “nhẫn”. Dạy học sinh không phải chỉ bằng những quy định hà khắc mà phải bằng sự thuyết phục, cảm hóa , động viên, khích lệ. Muốn chinh phục học sinh có hiệu quả, bản thân giáo viên phải là tấm gương sáng, mẫu mực trong từng lời ăn tiếng nói, trong cách ứng xử với học sinh. Đối xử với học sinh phải công bằng khách quan nhưng vẫn đảm bảo sự tế nhị cần thiết.
Đồng thời, giáo viên phải tạo được sự gần gũi, thân thiết với học sinh, làm sao phải xoá bỏ được cảm giác e ngại của các em, có như thế thì các em sẽ mạnh dạn bày tỏ những điều các em chưa biết hoặc biết chưa sâu để từ đó giáo viên dễ dàng giúp các em tự giác học tập, yêu mến thích thú khi được đến trường, “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Để có một nền giáo dục phát triển không phải chỉ là nhiệm vụ và do nhà trường quyết định mà còn phải có sự phối hợp chặt chẽ với các cấp ngành và phụ huynh học sinh, của toàn xã hội. Giáo viên chủ nhiệm phải tranh thủ được sự giúp sức về mọi mặt của chính quyền địa phương và sự đồng tình ủng hộ của tất cả các bậc phụ huynh, nhất là phụ huynh học sinh dân tộc. Bởi thời gian các em ở nhà nhiều hơn đến lớp, những tác động từ gia đình và địa phương ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức và quá trình phát triển nhân cách của các em. 
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm mà bản thân tôi đã rút ra sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp. Trong quá trình trình bày không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong được sự đóng góp của các bạn đồng nghiệp để tôi có được những kinh nghiệm hữu ích trong quá trình làm công tác chủ nhiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC 
 Trang 
PHẦN I: Đặt vấn đề .......1
PHẦN II. Nội dung nghiên cứu	3
I. Vị trí,vai trò, tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm với với 
vấn đề duy trì sĩ số học sinh 	3
II. Tìm hiểu tình hình nghỉ, bỏ học của học sinh và các biện 
pháp ngăn ngừa, vận động	5
1. Đặc điểm tình hình của lớp	5
2. Tổ chức hoạt động nắm tình hình và tư tưởng nghỉ học 
của học sinh...................................................................................................7
a. Tìm hiểu hoàn cảnh của học sinh..............................................................7
b. Tìm hiểu diễn biến tâm lý của học sinh....................................................9
3. Các giải pháp thực hiện.......................................................................... 10
PHẦN III: Kết quả và việc phổ biến ứng dụng nội dung 
vào thực tiễn...............................................................................................16
I. Kết quả đạt được 	16
II.Bài học kinh nghiệm...16
III. Kết luận ....18

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_bien_phap_nham_duy_tri_si_so_h.doc