Sang chấn tâm lý và vấn đề cảm xúc ở vị thành niên loét dạ dày tá tràng mạn tính

Nghiên cứu này nhằm khảo sát các sự kiện gây sang chấn tâm lý và biểu hiện stress, lo âu, trầm cảm

ở trẻ vị thành niên bị loét dạ dày tá tràng mạn tính. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 97 trẻ vị thành niên

được chẩn đoán và điều trị loét dạ dày tá tràng mạn tính tại Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Bạch

Mai, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong thời gian từ 4/2018 – 3/2019, bằng phỏng vấn và sử dụng DASS

– 21 phiên bản tiếng Việt. Kết quả cho thấy có 94,8% trẻ có sang chấn tâm lý, phổ biến là lo lắng về

bệnh tật, áp lực trong học tập, xung đột với cha mẹ. Tỷ lệ stress, lo âu, và trầm cảm lần lượt là 76,3%,

67% và 74,2%. Có sự tương quan tuyến tính chặt chẽ giữa mức độ stress với lo âu, trầm cảm. Như vậy,

cần quan tâm đánh giá các sang chấn tâm lý và cảm xúc trong quá trình điều trị loét dạ dày tá tràng.

pdf 7 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Sang chấn tâm lý và vấn đề cảm xúc ở vị thành niên loét dạ dày tá tràng mạn tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sang chấn tâm lý và vấn đề cảm xúc ở vị thành niên loét dạ dày tá tràng mạn tính

Sang chấn tâm lý và vấn đề cảm xúc ở vị thành niên loét dạ dày tá tràng mạn tính
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
9TCNCYH 131 (7) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thanh Mai, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 18/02/2020
Ngày được chấp nhận: 10/07/2020
SANG CHẤN TÂM LÝ VÀ VẤN ĐỀ CẢM XÚC Ở VỊ THÀNH NIÊN 
LOÉT DẠ DÀY TÁ TRÀNG MẠN TÍNH
Nguyễn Thị Thanh Mai , Nguyễn Thị Phương Mai, Đỗ Thị Minh Phương
Trường Đại học Y Hà Nội 
Nghiên cứu này nhằm khảo sát các sự kiện gây sang chấn tâm lý và biểu hiện stress, lo âu, trầm cảm 
ở trẻ vị thành niên bị loét dạ dày tá tràng mạn tính. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 97 trẻ vị thành niên 
được chẩn đoán và điều trị loét dạ dày tá tràng mạn tính tại Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Bạch 
Mai, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong thời gian từ 4/2018 – 3/2019, bằng phỏng vấn và sử dụng DASS 
– 21 phiên bản tiếng Việt. Kết quả cho thấy có 94,8% trẻ có sang chấn tâm lý, phổ biến là lo lắng về 
bệnh tật, áp lực trong học tập, xung đột với cha mẹ. Tỷ lệ stress, lo âu, và trầm cảm lần lượt là 76,3%, 
67% và 74,2%. Có sự tương quan tuyến tính chặt chẽ giữa mức độ stress với lo âu, trầm cảm. Như vậy, 
cần quan tâm đánh giá các sang chấn tâm lý và cảm xúc trong quá trình điều trị loét dạ dày tá tràng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở trẻ em, tỷ lệ loét dạ dày tá tràng dao động 
từ 5,4 - 22,4% và tập trung chủ yếu ở lứa tuổi 
vị thành niên.1,2 Đây là lứa tuổi có các vấn đề 
về cảm xúc như stress, lo âu, trầm cảm gia 
tăng.3 Trong các nguyên nhân gây loét dạ dày 
tá tràng, stress và các rối loạn cảm xúc được đề 
cập đến như các yếu tố nguy cơ có thể làm thúc 
đẩy, tiến triển và chậm quá trình liền sẹo loét.4,5 
Các nhà khoa học đã phát hiện thấy có khoảng 
16 - 31% bệnh nhân có ổ loét dạ dày tá tràng 
mà không liên quan đến vi khuẩn Helicobacter 
pylori (HP) và thuốc kháng viêm không steroid 
(NSAIDs).⁶ Vì vậy, cần xem xét đến các yếu tố 
khác kết hợp với vi khuẩn HP và NSAIDs trong 
cơ chế gây loét dạ dày tá tràng như stress, lo 
âu và trầm cảm. Nhiều nghiên cứu trước đây 
đã chỉ ra rằng các sự kiện gây sang chấn tâm 
lý còn gọi là sang chấn tâm lý và stress, lo âu, 
trầm cảm có mối liên quan chặt chẽ đến bệnh lý 
đường tiêu hóa.7,8 Năm 2000, Levenstein S đã 
chỉ ra rằng các yếu tố tâm lý xã hội có thể đóng 
góp từ 30 - 65% vào cơ chế gây loét dạ dày tá 
tràng.9 Một thống kê tại Mỹ vào năm 2013 cho 
biết bất kỳ một rối loạn lo âu nào cũng đều làm 
tăng nguy cơ bị loét dạ dày tá tràng lên gấp 2,6 
lần ở người trưởng thành.10 Năm 2017, Lee YB 
và cộng sự nghiên cứu trên 14266 đối tượng, 
cho thấy người bị loét dạ dày tá tràng mạn tính 
có nguy cơ bị stress, trầm cảm và có ý tưởng 
tự tử cao hơn rõ rệt so với người không bị loét 
dạ dày tá tràng.11 Xuất phát từ những nhận xét 
như trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với 
mục tiêu khảo sát các sang chấn tâm lý và tình 
trạng stress, lo âu, trầm cảm ở vị thành niên bị 
loét dạ dày tá tràng mạn tính.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng 
97 trẻ ở lứa tuổi từ 10 đến 19 tuổi từ 07/ 2018 
– 04/ 2019 (29 trẻ ở Bệnh viện Bạch Mai, 12 trẻ 
ở Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, 56 trẻ ở Bệnh 
viện Nhi Trung ương), được chẩn đoán loét dạ 
dày tá tràng mạn tính bằng nội soi đường tiêu 
Từ khóa: sang chấn tâm lý, stress, lo âu, trầm cảm, loét dạ dày tá tràng mạn tính, vị thành niên.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
10 TCNCYH 131 (7) - 2020
hóa trên, làm test urease xác định tình trạng 
nhiễm HP và làm xét nghiệm mô bệnh học để 
xác định tổn thương mạn tính. Những trẻ không 
đồng ý tham gia nghiên cứu hoặc có tiền sử 
được chẩn đoán các rối loạn tâm thần trước đó 
sẽ được loại khỏi nghiên cứu.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang.
Biến số, chỉ số nghiên cứu: sang chấn tâm 
lý (lo lắng bệnh tất, áp lực học tập, xung đột với 
cha mẹ, bị bắt nạt ở trường, thất bại trong tình 
yêu), cảm xúc (stress, lo âu, trầm cảm).
Công cụ nghiên cứu: thang đánh giá stress, 
lo âu và trầm cảm DASS - 21 - V (Depression, 
Anxiety, Stress Scale - 21 - phiên bản tiếng 
Việt) gồm 21 câu hỏi lượng giá cho 3 vấn đề: 
trầm cảm (7 câu hỏi), lo âu (7 câu hỏi) và stress 
(7 câu hỏi), đối tượng nghiên cứu trả lời về tình 
trạng mà mình cảm thấy trong vòng 1 tuần vừa 
qua trên thang điểm 4 mức độ; với 0: “Điều này 
hoàn toàn không xảy ra với tôi”; 1: “Điều này 
xảy ra cho tôi một phần nào, hay thỉnh thoảng”; 
2: “Điều này thường xảy ra cho tôi, hay nhiều 
lần”; đến 3 “Điều này rất thường xảy ra, hay hầu 
hết lúc nào cũng có”. Mức độ của các rối loạn 
được đánh giá bằng cách nhân hai lần tổng số 
điểm của từng vấn đề (do đây là bản rút gọn 
so với bản chính gồm 42 câu). Tổng điểm dao 
động từ 0 đến 42 điểm tương ứng với mức độ 
của từng vấn đề. Kết quả đánh giá được phân 
loại thành mức bình thường và 4 mức độ rối 
loạn gồm nhẹ, vừa, nặng và rất nặng cho mỗi 
vấn đề. Năm 2013, thang đo được Trần Đức 
Thạch và cộng sự cùng nhóm các chuyên gia 
về sức khỏe tâm thần chuyển dịch sang tiếng 
Việt (DASS - V), đánh giá về độ nhạy, độ đặc 
hiệu với ngưỡng xác định trầm cảm = 10, lo âu 
= 8 và stress = 14, Cronbach’s alpha = 0,88 và 
đã được sử dụng trong khảo sát stress, lo âu 
và trầm cảm.12
3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống 
kê SPSS 20.0
4. Đạo đức nghiên cứu
 Nghiên cứu được thông qua hội đồng y đức 
của Bệnh viện Nhi Trung ương, quyết định số 
1595/BVNTW - VNCSKTE ngày 15/10/2018. 
Đối tượng nghiên cứu được giải thích và tự 
nguyện tham gia nghiên cứu. Trẻ được phỏng 
vấn bằng bộ câu hỏi và thang đo tâm lý, không 
có các hoạt động can thiệp đến cơ thể trẻ. 
Thông tin thu thập sẽ được giữ bí mật và chỉ 
cung cấp cho mục tiêu nghiên cứu. 
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm chung (n = 97) n Tỷ lệ %
Nhóm tuổi
10 - 13 tuổi 60 61,9
14 - 19 tuổi 37 38,1
Tuổi trung bình X ± SD (min - max): 12,8 ± 2,1 tuổi (10 - 16 tuổi)
Giới tính
Nữ 24 24,7
Nam 73 75,3
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
11TCNCYH 131 (7) - 2020
Đặc điểm chung (n = 97) n Tỷ lệ %
Nơi sống
Thành phố 74 76,3
Nông thôn 23 23,7
Tình trạng
gia đình
Bình thường 77 79,4
Có vấn đề (*) 20 20,6
Học lực
Giỏi 37 38,1
Khá 46 47,4
Trung bình/ yếu 14 14,4
Helico pylori(**)
Âm tính 21 21,6
Dương tính 76 78,4
(*) Tình trạng gia đình có vấn đề là gia đình có cha mẹ ly thân, ly hôn, đơn thân, góa.
(**) Xác định tình trạng nhiễm HP bằng urease test.
 Tuổi trung bình là 12,8 ± 2,1 tuổi. Tỷ lệ nam: nữ là 3: 1. Có 20,6% số trẻ sống trong gia đình có 
vấn đề
 Bảng 2. Đặc điểm sang chấn tâm lý của đối tượng nghiên cứu
Sang chấn tâm lý
Nữ
n = 24
Nam
n = 73
Tổng
n = 97
Có sang chấn tâm lý (n, %) 22 (91,7) 70 (95,9) 92 (94,8)
Có 1 sang chấn tâm lý (n, %) 6 (25) 16 (21,9) 22 (22,7)
Có 2 sang chấn tâm lý (n, %) 8 (33,3) 35 (47,9) 43 (44,3)
Có ≥ 3 sang chấn tâm lý (n, %) 8 (33,3) 19 (26,1) 27 (27,8)
Nội dung 
(n, %) 
Lo lắng về bệnh tật 18 (75) 57 (78,1) 75 (77,3)
Áp lực học tập 10 (41,7) 37 (50,7) 47 (48,5)
Xung đột với cha mẹ(a) 6 (25) 33 (45,2) 39 (40,2)
Bị bắt nạt ở trường(a) 7 (29,2) 10 (13,7) 17 (17,5)
Thất bại trong tình yêu 7 (29,2) 19 (26,0) 26 (26,8)
(a) p < 0,05 khi so sánh giữa nam và nữ
94,8% có sang chấn tâm lý, phần lớn phối hợp nhiều sang chấn tâm lý, phổ biến là lo lắng về 
bệnh tật, áp lực học tập, xung đột với cha mẹ (gặp nhiều hơn ở nam) và bị bắt nạt ở trường (gặp 
nhiều hơn ở nữ).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
12 TCNCYH 131 (7) - 2020
2. Tình trạng stress, lo âu, trầm cảm ở vị thành niên bị loét dạ dày tá tràng
Bảng 3. Tình trạng stress, lo âu, trầm cảm ở vị thành niên bị loét dạ dày tá tràng
Mức độ (n = 97)
Stress 
n (%)
Lo âu 
n (%)
Trầm cảm 
n (%)
Không có biểu hiện 23 (23,7) 32 (33,0) 25 (25,8)
Có biểu hiện 74 (76,3) 65 (67,0) 72 (74,2)
Nhẹ 19 (19,6) 9 (9,3) 30 (30,9)
Vừa 44 (45,4) 42 (43,3) 33 (34)
Nặng 11 (11,3) 11 (11,3) 9 (9,3)
Rất nặng 0 (0) 3 (3,1) 0 (0)
Tương quan giữa stress - lo âu - trầm cảm (r; p)
Lo âu 0,960 *** - - 
Trầm cảm - 0,745*** - 
Stress - 0,661***
***p < 0,001 (mức ý nghĩa của tương quan tuyến tính giữa trầm cảm, lo âu, stress)
 Qua lượng giá bằng DASS - 21 - V, xác định được tỷ lệ trẻ có biểu hiện stress là 76,3%, lo âu là 
67% và trầm cảm là 74,2%, phần lớn ở mức độ vừa. Có mối tương quan tuyến tính thuận ở mức độ 
chặt chẽ giữa điểm stress, lo âu và trầm cảm (p < 0,001).
3. Mối liên quan giữa số lượng sang chấn tâm lý và stress, lo âu, trầm cảm
Bảng 4. Mối liên quan giữa số lượng sang chấn tâm lý và stress, lo âu, trầm cảm
Stress
OR (95%CI)
Trầm cảm
OR (95%CI)
Lo âu
OR (95%CI)
1 sang chấn tâm lý 1 1 1
≥ 2 sang chấn tâm lý 3,03 (1,11 – 8,23) 1,97 (0,73 – 5,29) 1,91 (0,75 – 4,88)
≥ 3 sang chấn tâm lý 18,67 (2,17 – 160,12) 2,16 (0,64 – 7,26) 3,78 (1,09 – 13,11)
Phối hợp ≥ 2 sang chấn tâm lý làm tăng nguy cơ có biểu hiện stress lên gấp 3,03 lần. Phối hợp 
≥ 3 sang chấn tâm lý làm tăng nguy cơ có biểu hiện stress lên gấp 18,67 lần và tăng nguy cơ lo âu 
lên gấp 3,78 lần so với chỉ có 1 sang chấn tâm lý đơn thuần. 
IV. BÀN LUẬN
Vị thành niên là lứa tuổi có nhiều biến động về tâm sinh lý, đồng thời thường phải đối mặt với các 
sự kiện gây căng thẳng, có thể trở thành các sang chấn tâm lý gây stress cho trẻ. Tình trạng này có 
thể gây ra các bệnh lý về đường tiêu hóa, do kích hoạt trục não ruột thông qua hạ đồi – tuyến yên 
– tuyến thượng thận và hệ thần kinh giao cảm trong quá trình đáp ứng với stress. Một nghiên cứu 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
13TCNCYH 131 (7) - 2020
gần đây cho thấy stress và trầm cảm có liên 
quan đến bệnh lý dạ dày ruột như trào ngược 
dạ dày tá tràng, hội chứng ruột kích thích, loét 
DD –TT.13 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở 
97 vị thành niên loét dạ dày tá tràng cũng ghi 
nhận 94,8% có sang chấn tâm lý, đặc biệt là 
sự phối hợp nhiều sang chấn tâm lý trên cùng 
một trẻ vị thành niên (bảng 2). Trong quá trình 
phỏng vấn, các em chia sẻ đã từng vào mạng 
internet tìm hiểu về bệnh và thu thập được 
thông tin khi nhiễm vi khuẩn HP có thể bị ung 
thư dạ dày, điều này khiến cho các em căng 
thẳng nhiều hơn. Thêm nữa, nhóm trẻ phổ biến 
trong nghiên cứu của chúng tôi là 12 - 13 tuổi, là 
giai đoạn trẻ chuẩn bị thi chuyển cấp từ THCS 
lên THPT. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, tình 
trạng thi chuyển cấp từ THCS lên THPT rất 
căng thẳng, nhiều trẻ tự đặt ra mục tiêu lớn cho 
bản thân, hay các bậc cha mẹ luôn kỳ vọng quá 
nhiều vào con cái, đặc biệt là mục tiêu phấn 
đấu vào trường chuyên, lớp chọn. Đặc điểm 
tâm lý của lứa tuổi này là hay xung đột với cha 
mẹ, đặc biệt là trẻ trai. Nguyên nhân của sự 
xung đột thường xuất phát từ hai phía: trẻ luôn 
muốn khẳng định bản thân, đòi quyền tự do, 
không chịu sự bao bọc của cha mẹ, nhạy cảm 
với những điều xúc phạm đến khuynh hướng tự 
lập của mình; còn cha mẹ luôn muốn kiểm soát 
con cái, xuất phát từ sự quan tâm, lo lắng dành 
cho trẻ. Tuy nhiên, những kiểm soát khắt khe 
và sự chỉ trích từ cha mẹ cùng với lòng tự trọng 
rất cao của trẻ vị thành niên tạo thành một vòng 
luẩn quẩn, thúc đẩy xung đột giữa cha mẹ và 
con cái nhiều hơn Như vậy, ở một trẻ trong 
giai đoạn vị thành niên có thể đồng thời phải 
đối mặt với nhiều sự kiện gây sang chấn tâm lý. 
Tình trạng này sẽ làm tăng nguy cơ biểu hiện 
stress và lo âu và trầm cảm ở tuổi vị thành niên. 
Nghiên cứu ở Ấn Độ của Kumar KS và cộng sự 
(2017) khảo sát bằng DASS - 21 trên 863 trẻ 
trong độ tuổi 16 - 19 tại trường trung học phổ 
thông cho kết quả tỷ lệ stress, lo âu và trầm cảm 
lần lượt là 21%, 24,4% và 19,5%.14 Một câu hỏi 
được đặt ra: Stress, lo âu và trầm cảm ở nhóm 
trẻ vị thành niên mắc loét dạ dày tá tràng có 
tăng hơn so với trẻ vị thành niên bình thường? 
Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát bằng DASS 
- 21 trên 97 trẻ vị thành niên bị loét dạ dày tá 
tràng mạn tính, kết quả cho thấy tỷ lệ có biểu 
hiện stress, lo âu và trầm cảm của nhóm nghiên 
cứu rất cao, lần lượt là 76,3%, 67% và 74,2% 
(bảng 3), cao hơn rõ rệt so với tỷ lệ stress, lo 
âu, trầm cảm của trẻ vị thành niên ở cộng đồng 
học sinh trung học phổ thông của nghiên cứu 
nêu trên. Kết quả của chúng tôi tương tự như 
nghiên cứu của Haider SI và cộng sự (2013) về 
tần suất stress, lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân 
mắc chứng khó tiêu được nội soi đường tiêu 
hóa ghi nhận tỷ lệ stress, lo âu và trầm cảm lần 
lượt là 67,5%, 82,5% và 60%.15 Kết quả phân 
tích cũng nhận thấy mối tương quan tuyến tính 
thuận rất chặt chẽ giữa stress với trầm cảm, lo 
âu và lo âu với trầm cảm ở đối tượng nghiên 
cứu. Đồng thời, sự xuất hiện đồng thời ≥ 3 sang 
chấn tâm lý được chứng minh là nguy cơ tăng 
cao rõ rệt biểu hiện stress và trầm cảm ở nhóm 
vị thành niên bị loét dạ dày tá tràng.
V. KẾT LUẬN
Hầu hết trẻ vị thành niên bị loét dạ dày tá 
tràng đều xuất hiện phối hợp nhiều sang chấn 
tâm lý và biểu hiện stress, lo âu và trầm cảm 
với tỷ lệ cao. Vì vậy, cần quan tâm nhiều hơn về 
vấn đề sang chấn tâm lý và cảm xúc của trẻ vị 
thành niên, đặc biệt trong quá trình chẩn đoán 
và điều trị loét dạ dày tá tràng mạn tính. Hỗ trợ 
trẻ vị thành niên các kỹ năng kiểm soát sang 
chấn tâm lý và ứng phó với stress có thể làm 
giảm lo âu, trầm cảm và loét dạ dày tá tràng ở 
lứa tuổi này.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
14 TCNCYH 131 (7) - 2020
Lời cảm ơn
 Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bệnh 
nhân, gia đình bệnh nhân, các bác sỹ Trung tâm 
Tiêu hóa – Gan mật – Dinh dưỡng, Bệnh viện 
Nhi Trung ương; Khoa Nhi, Bệnh viện Bạch 
Mai; Trung tâm khám bệnh số 1, Bệnh viện Đại 
học Y Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi 
trong quá trình thực hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huang S.C, Sheu B.S, Lee S.C, et al. 
East etiology and treatment of childhood 
peptic ulcer disease in Taiwan: a single 
center 9 - year experience. African Medical 
Journal of Consulting and Clinical Psychology. 
2009;86(3):100 - 109.
2. Egbaria R, Levine A, Tamir A, et al. 
Peptic ulcers and erosions are common in 
Israeli children undergoing upper endoscopy. 
Helicobacter. 2008;13(1):62 - 68.
3. Bernert R.A, Merill K.A, Braithwaite S.R, 
et al. Family life stress and insomnia symptoms 
in a prospective evaluation of young adults. J 
Fam Psychol. 2007;21(1):58 - 66.
4. Jones M.P. The role of psychosocial factors 
in peptic ulcer disease: beyond Helicobacter 
pylori and NSAIDs. Journal of Psychosomatic 
Research. 2006;60(4):407 - 412.
5. Rasheed N, Alghasham A. Central 
Dopaminergic System and Its Implications in 
Stress - Mediated Neurological Disorders and 
Gastric Ulcers: Short Review. Advances in 
Pharmacological Sciences. 2012;E82671 - 11.
6. Levenstein S, Rosenstock S, Jacobsen 
R.K, et al. Psychological stress increases risk 
for peptic ulcer, regardless of Helicobacter 
pylori infection or use of nonsteroidal anti - 
inflammatory drugs. Clinical Gastroenterology 
and Hepatology. 2015;13(3):498 - 506.
7. Mak A.D.P, Wu J.C.Y, Chan Y, et al. 
Dyspepsia is strongly associated with major 
depression and generalised anxiety disorder - 
a community study. Aliment Pharmacol Ther. 
2012;36(8):800 - 810.
8. Vanuytsel T, Van W.S, Vanheel H, et al. 
Psychological stress and corticotropin - releasing 
hormone increase intestinal permeability in 
humans by a mast cell - dependent mechanism. 
Gut. 2014;63(8):1293 - 1299.
9. Levenstein S. The Very Model of a Modern 
Etiology: A Biopsychosocial View of Peptic 
Ulcer. Psychosomatic Medicine. 2000;62:176 - 
185.
10. Goodwin R.D, Nicholas J.T, Matthew H, 
et al. A link between physician - diagnosed ulcer 
and anxiety disorders among adults. Annals of 
Epidemiology. 2013;23(4):189 - 192.
11. Lee, Y.B, Yu J, Choi H.H, et al. The 
association between peptic ulcer diseases and 
mental health problems: A population - based 
study: a strobe compliant article. Medicine. 
2017;96(34):e7828.
12. Tran T.D, Tran T, Fisher J. Validation of 
the depression anxiety stress scales (DASS) 21 
as a screening instrument for depression and 
anxiety in a rural community - based cohort of 
northern Vietnamese women. BMC Psychiatry. 
2013;13:24 - 32.
13. Lee S.P, Sung I.K, Kim J.H, et al.The 
effect of emotional stress and depression 
on the prevalence of digestive diseases. J 
Neurogastroenterol Motil. 2015;21(2):273 - 82.
14. Kumar K.S, Akoijam B.S. Depression, 
Anxiety and Stress Among Higher Secondary 
School Students of Imphal, Manipur. Indian J 
Community Med. 2017;42(2):94 - 96.
15. Haider S.I, Rasool I, Ahmed S, et al. 
Frequency of Depression, Anxiety and Stress 
in Patients Referred for Endoscopy with 
Symptoms of Dyspepsia. Journal of Liaquat 
University of Medical & Health Sciences. 
2013;12(3):140 - 144.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
15TCNCYH 131 (7) - 2020
Summary
 STRESSFUL LIFE EVENTS AND EMOTIONAL PROBLEMS IN 
ADOLESCENTS WITH CHRONIC PEPTIC ULCER
This study was aimed to explore stressful life events and stress, anxiety, depression in 
adolescents with chronic peptic ulcer. A cross-sectional study of 97 adolescents diagnosed and 
treated for chronic peptic ulcer at the National Hospital of Pediatrics, Bach Mai Hospital, Hanoi 
Medical University Hospital from 4/2018 - 3 / 2019, was conducted by interviewing and using DASS 
- 21 Vietnamese versions. The results showed that 94.8% of adolescents had stressful life events, 
most commonly worried about health, schooling stress, and conflicts with parents. The level of 
stress, anxiety, and depression were 76.3%, 67% and 74.2%, respectively. There is a strong linear 
correlation between stress levels with anxiety and depression. Thus, attention should be paid to 
assess stressful life events and emotional problems during the treatment of chronic peptic ulcer.
Keywords: stressful life events, chronic peptic ulcer, adolescents, stress, anxiety, 
depression

File đính kèm:

  • pdfsang_chan_tam_ly_va_van_de_cam_xuc_o_vi_thanh_nien_loet_da_d.pdf