Sân khấu truyền thống trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Sân khấu truyền thống là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, là sản phẩm của nền văn hóa, văn
minh nông nghiệp lúa nước, nơi kết tinh tâm hồn, trí tuệ, tình cảm ông cha, góp phần làm nên nét độc
đáo của bản sắc văn hóa dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, sân khấu truyền thống đã đem đến
những món ăn tinh thần bổ ích, nuôi dưỡng, giáo dục và hình thành lên những đức tính, phẩm chất
tốt đẹp cho con người. Tuy nhiên trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, làn sóng kỹ nghệ hiện đại của cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã mở ra những cơ hội thuận lợi, đồng thời đặt ra những thách thức cho
tương lai, số phận của sân khấu. Khảo sát hiện trạng hoạt động của một số loại hình nghệ thuật sân
khấu như Chèo, Tuồng, Cải lương, Kịch nói trong những năm gần đây trên cả hai bình diện thuận lợi và
khó khăn để tìm hướng đi thích hợp là việc làm cần thiết, có ý nghĩa
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sân khấu truyền thống trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Số 24 - Tháng 6 - 2018 91 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA TRAO ĐỔI SÂN KHẤU TRUYỀN THỐNG TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 NGUYỄN HUY PHÒNG Tóm tắt Sân khấu truyền thống là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, là sản phẩm của nền văn hóa, văn minh nông nghiệp lúa nước, nơi kết tinh tâm hồn, trí tuệ, tình cảm ông cha, góp phần làm nên nét độc đáo của bản sắc văn hóa dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, sân khấu truyền thống đã đem đến những món ăn tinh thần bổ ích, nuôi dưỡng, giáo dục và hình thành lên những đức tính, phẩm chất tốt đẹp cho con người. Tuy nhiên trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, làn sóng kỹ nghệ hiện đại của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã mở ra những cơ hội thuận lợi, đồng thời đặt ra những thách thức cho tương lai, số phận của sân khấu. Khảo sát hiện trạng hoạt động của một số loại hình nghệ thuật sân khấu như Chèo, Tuồng, Cải lương, Kịch nói trong những năm gần đây trên cả hai bình diện thuận lợi và khó khăn để tìm hướng đi thích hợp là việc làm cần thiết, có ý nghĩa. Từ khóa: Sân khấu truyền thống, Cách mạng công nghiệp 4.0 Abstract Traditional theater is a special art form, the product of the water rice farming culture, civilization, where filters the soul, intellect, and sentiment of many generations, contributes to the unique character of National cultural identity. Over the thousands years of history, the traditional theater has brought the meaningful chicken soup for soul, nourished, educated and formed the virtues, good qualities for man. However, in the context of global integration, the 4th industrial revolution wave has opened up both opportunities and challenges for the future, the fate of the theater. Surveying the current status of some forms of theatrical art such as Cheo, Tuong, Cai Luong, Drama in recent years on both favorable and difficult aspects to find the appropriate direction is the meaningful required deed. Keywords: Traditional performance, Industrial Revolution 4.0 1. Thời cơ của sân khấu truyền thống trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 Sự ra đời của các cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) đánh dấu sự phát triển của tư duy nhân loại trong việc không ngừng khám phá, sáng tạo những chiều kích, đỉnh cao của khoa học, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, tạo những chuyển biến, đột phá lớn trong đời sống vật chất, tinh thần, đem lại cơ hội tốt nhất để con người có thể sống tốt đẹp hơn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) là sự tiếp nối những thành tựu khoa học của những thế kỷ trước, đồng thời có những cải tiến, phát minh mới trên nền tảng của công nghệ thông tin, internet. Sự xuất hiện của những sản phẩm công nghệ như: internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC),... với mục tiêu chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số, đang tạo ra những chuyển biến lớn trong đời sống nhân loại. Số 24 - Tháng 6 - 201892 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Không chỉ tác động nhiều mặt đến lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng mà trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, cuộc CMCN 4.0 cũng đang trở thành chất xúc tác đặc biệt để các loại hình nghệ thuật cất cánh, thăng hoa, mở rộng tầm ảnh hưởng ra ngoài phạm vi biên giới lãnh thổ quốc gia. Bàn về những tín hiệu tích cực của cuộc CMCN 4.0 đối với lĩnh vực sân khấu có thể nhận thấy ở những phương diện như: Thứ nhất, cuộc CMCN 4.0 đang làm cho thế giới ngày càng thu nhỏ lại và phẳng ra, xóa nhòa khoảng cách về không gian lãnh thổ, giúp các quốc gia xích lại gần nhau để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, giao lưu, hội nhập và hợp tác toàn cầu về mọi lĩnh vực, trong đó có nghệ thuật sân khấu. Với những lợi thế vượt trội về công nghệ thông tin và khả năng kết nối nhanh, CMCN 4.0 đang bắc những nhịp cầu, rút ngắn con đường đi của nghệ thuật sân khấu các nước đến gần nhau hơn. Thông qua những hoạt động tuần văn hóa, năm văn hóa, nghệ thuật sân khấu truyền thống tạo “sức mạnh mềm” trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Trong hội nhập, giao lưu quốc tế, văn hóa đóng vai trò quan trọng, đó là những nét riêng biệt, độc đáo, tạo nên bản sắc, tính cách và điệu hồn dân tộc mà loại hình nghệ thuật sân khấu chính là phương tiện truyền tải thông điệp một cách sinh động, tinh tế và để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng du khách. Việc giao lưu, hợp tác, học tập kinh nghiệm, nhất là phương thức bảo tồn, lưu truyền và lan tỏa sức sống của nghệ thuật sân khấu trong bối cảnh thời đại công nghệ số là yêu cầu cấp thiết với nhiều quốc gia. Cuộc CMCN 4.0 sẽ mở ra những cánh cửa về khoa học công nghệ, phương thức trình diễn hiện đại với những công nghệ 3D, 4D, kỹ nghệ ánh sáng, âm thanh hiện đại cộng với lối nói, lối hát và trình diễn độc đáo của sân khấu truyền thống, đem đến sự mới lạ, thích thú cho công chúng. Thời gian qua, những vở diễn sân khấu kinh điển trong và ngoài nước đã được khoác chiếc áo mới nhờ sự sáng tạo, phá cách của đạo diễn, diễn viên và sự kết hợp khéo léo, hiệu quả những hiệu ứng từ công nghệ ánh sáng, âm thanh, sự pha trộn sắc màu của các loại hình nghệ thuật, tạo sức hấp dẫn lớn cho người xem. Tiêu biểu có thể kể tới những vở diễn do Nhà hát kịch Việt Nam dàn dựng và công chiếu: Hamlet, Romeo và Juliet, Vua Lia của Shakespeare, Chuyện nàng Kiều phóng tác từ Truyện Kiều của Nguyễn Du; Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần (sản phẩm của sự hợp tác giữa các nghệ sỹ Việt Nam và đạo diễn Singapore Chua Soo Pong), Lão hà tiện (Molière), Oedipus làm vua (Sophocles), Mêđê (Euripides), Nguyễn Trãi ở Đông Quan của Nguyễn Đình Thi, Đặc biệt, vở ballet Hồ thiên nga (Tchaikovsky) của nhà hát Talarium et Lux đã trình diễn một đêm duy nhất (ngày 1/8/2015) tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Hà Nội đã đem đến cho khán thính giả những trải nghiệm thú vị, khó quên khi vở diễn đã được hiện đại hóa qua việc phối kết hợp với những lợi thế của công nghệ ánh sáng, ứng dụng 3D và truyền thông đa phương tiện (multimedia). Như vậy, có thể nói cuộc CMCN 4.0 mở ra nhiều cơ hội trong việc tăng cường hợp tác, giao lưu, chuyển giao công nghệ giữa các nền sân khấu trên phạm vi toàn cầu. Trên nền tảng của công nghệ số, kỹ xảo hiện đại sẽ giúp cho các loại hình nghệ thuật truyền thống cách tân, sáng tạo, không ngừng tự làm mới chính mình để mang đến cho công chúng những món ăn tinh thần bổ ích, có ý nghĩa, phù hợp với xu hướng, tâm lý tiếp nhận của thời đại. Thứ hai, nghệ thuật sân khấu truyền thống có những ưu thế trong việc phản ánh cuộc sống xã hội, con người thông qua lăng kính nghệ thuật với những sắc màu đa dạng. Song hành cùng với chặng đường lịch sử của dân tộc, sân khấu đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể, phản ánh những giai đoạn, thời kỳ của lịch sử xã hội. Trong giai đoạn hiện nay khi loài người bước vào thế kỷ công nghệ thông tin, những chế phẩm sáng tạo của con người như robot, trí tuệ nhân tạo, sản xuất hàng loạt, điện toán đám mây, công nghệ sinh học, một mặt mang lại những tiện ích và cuộc sống vật chất đủ đầy cho con người, nhưng mặt khác, Số 24 - Tháng 6 - 2018 93 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA TRAO ĐỔI thời đại của khoa học kỹ thuật, đồng tiền lên ngôi sẽ đặt ra những bài toán về sự cô đơn, sự tha hóa đạo đức, nhân cách con người. Xã hội đương thời với những xung đột, khủng hoảng về hệ giá trị, niềm tin, sợi dây gắn kết giữa người với người lỏng lẻo, thì con người lại có xu hướng tìm về những giá trị văn hóa cổ truyền với mong ước, khát vọng được trở về “ký ức tuổi thơ”, “tìm lại tiếng nói đã mất” để làm điểm tựa tinh thần trước cuộc sống hiện tại nhiều bon chen. Trong bối cảnh đó, việc bảo tồn và phát huy những giá trị vô giá của nghệ thuật sân khấu truyền thống là cần thiết, có ý nghĩa. Bởi sức mạnh của nghệ thuật sân khấu qua những làn điệu chèo, xung đột kịch, câu ca cải lương, vũ điệu tuồng đồ sẽ giúp mỗi cá nhân, nhất là những người xa xứ, ly hương hiểu về cội nguồn dân tộc, hướng về cộng đồng, tổ tiên để thêm yêu quê hương, Tổ quốc mình. Đặc biệt, nó là điểm tựa tinh thần để con người không bị cô đơn trong xã hội đầy bất trắc. Trong xu thế hiện nay, khi nhu cầu du lịch, tìm hiểu các nền văn hóa của các dân tộc được đẩy mạnh, tăng cường thì việc phát triển các loại hình nghệ thuật sân khấu gắn với hoạt động du lịch là chiến lược phát triển lâu dài, bền vững. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, trong 4 tháng đầu năm 2018, lượng khách nước ngoài sang du lịch ở nước ta ước đạt 5.547.314 lượt khách, tăng 29,5% so với cùng kỳ năm 2017 (6). Đây là tín hiệu khả quan cho thấy sức hấp dẫn của đất nước Việt Nam tươi đẹp với bề dày lịch sử, văn hóa độc đáo cùng sự hiện diện của nhiều loại hình di sản phong phú, trong đó có nghệ thuật sân khấu. Do đó, cần thiết phải kết hợp du lịch, quảng bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam trong quá khứ và hiện tại thông qua những hoạt động du lịch trải nghiệm, khám phá với những điểm nhấn quan trọng là những tiết mục, trích đoạn vở diễn mang âm hưởng, đặc trưng văn hóa vùng miền, như nghệ thuật chèo miền Bắc, tuồng miền Trung và cải lương miền Nam Việt Nam tự hào là quốc gia có nhiều di sản văn hóa, nhất là di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận và vinh danh là những di sản đại diện của nhân loại. Đó là cơ hội thuận lợi để loại hình nghệ thuật sân khấu phát huy lợi thế riêng có, mang về những khoản doanh thu lớn, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nắm bắt được tâm lý và xu thế phát triển du lịch gắn với nghệ thuật truyền thống, Nhà hát Múa rối Thăng Long là đơn vị tiên phong trong việc nắm bắt thị hiếu, gắn kết du lịch với múa rối nước. Ngay từ ngày đầu triển khai, nhà hát đã thu hút được lượng lớn khách du lịch, cả 365 ngày trong năm Nhà hát đều kín lịch diễn. Trung bình mỗi tháng đón gần 10.000 lượt khách quốc tế, 3.000 lượt khách nội địa, lượng khách tour chiếm 70 - 80% (4). Đón nhận xu thế phát triển đó, Nhà hát Chèo Hà Nội cũng đã xây dựng nhiều chương trình nghệ thuật mới, hấp dẫn để thu hút du khách. Năm 2013, Nhà hát dàn dựng tiết mục “Long Thành diễn xướng” quy tụ các loại hình nghệ thuật vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tiếp đó là chương trình “Trẩy hội ngày xuân” khá công phu, phối hợp nhuần nhuyễn giữa các loại hình nghệ thuật: chèo, xiếc, ca trù, quan họ, phù hợp với du lịch và thu hút du khách. Giữa năm 2017, chương trình “Hà Nội đêm thứ 7” của Nhà hát tiếp tục ra mắt, diễn ra đều đặn vào tối thứ 7 hàng tuần với đối tượng hướng đến là khán giả Thủ đô và khách du lịch. Để quảng bá, giới thiệu loại hình nghệ thuật độc đáo của văn hóa dân tộc đến với du khách nước ngoài, Nhà hát Tuồng Việt Nam đã xây dựng website Anh - Việt từ năm 2008 và lên lịch biểu diễn định kỳ 2 buổi/tuần phục vụ khách quốc tế. Gần đây, Nhà hát Kịch Hà Nội cũng đã công diễn vở “Tứ phủ” lấy cảm hứng từ nghi lễ hầu đồng, nhằm thu hút khách du lịch. Nhà hát Cải lương Hà Nội dựng vở “Mệnh đế vương”, dựng một số chương trình giới thiệu văn hóa các vùng miền Việt Nam, duy trì vào thứ 5 hàng tuần. Còn Nhà hát Kịch Việt Nam đã ký kết hợp tác với Công ty Du lịch Vietrantour xây dựng và giới thiệu chùm sản phẩm tour kết hợp xem các chương trình biểu diễn kịch của nhà hát. Theo đó, Nhà hát sẽ duy trì sáng Số 24 - Tháng 6 - 201894 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA đèn các đêm diễn vở “Kiều” vào 20 giờ thứ 6 hàng tuần và ưu tiên dành 60% vé xem kịch cho du khách của Vietrantour. Như vậy, bối cảnh mới đặt ra những thời cơ mới đòi hỏi các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống muốn tồn tại, phát triển phải không ngừng tự đổi mới, sáng tạo; tận dụng triệt để thành tựu của cuộc CMCN 4.0 để đưa sân khấu đến gần hơn với khán giả trong và ngoài nước. Hội nhập quốc tế về văn hóa, trong đó có nghệ thuật sân khấu, đem lại những cơ hội tốt để đội ngũ những nhà quản lý văn hóa văn nghệ, đội ngũ đạo diễn, diễn viên cọ xát, học tập kinh nghiệm và cách làm sáng tạo của các nền nghệ thuật sân khấu tiên tiến trong khu vực và quốc tế để từ đó tìm ra lối đi riêng cho nghệ thuật sân khấu dân tộc. Tuy nhiên, cuộc CMCN 4.0 cùng với việc mở ra những chân trời mới trong lao động sáng tạo nghệ thuật, đồng thời cũng đặt ra những khó khăn, thử thách khốc liệt đối với sân khấu truyền thống. 2. Thách thức của sân khấu truyền thống trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 Sân khấu truyền thống gắn liền với không gian, môi trường diễn xướng dân gian, mang âm hưởng chậm rãi của cư dân nông nghiệp lúa nước. Vì thế khi bối cảnh thay đổi, nhất là sự bùng nổ của công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội, truyền thông đa phương tiện với những loại hình giải trí nghe nhìn hiện đại, thông minh cùng lớp công chúng mới đòi hỏi nghệ thuật sân khấu truyền thống phải chuyển mình với những cuộc cách mạng về tư duy, nhận thức, cách làm thì mới có thể cạnh tranh, song hành cùng các loại hình nghệ thuật hiện đại khác. Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, nhiều cuộc tranh luận, bàn thảo về số phận, tương lai của nghệ thuật sân khấu trước ngưỡng cửa thời đại công nghệ số đã được đặt ra, thể hiện những day dứt, trăn trở của các nghệ sĩ về chuyện nghề cùng nỗi niềm đau đáu trong việc bảo tồn, gìn giữ di sản văn hóa vô giá của cha ông để lại trước nguy cơ mai một, chìm vào quên lãng khi sân khấu truyền thống ngày càng thưa vắng khán giả và những người mặn mà với loại hình nghệ thuật lâu đời này ngày càng vắng bóng. Trước thực trạng đó, NSƯT. Lê Chức, Phó Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu đã phải thốt lên rằng: “Sân khấu truyền thống hiện nay đang ở trong khoa hồi sức cấp cứu”. Bàn về những khó khăn, thách thức của sân khấu truyền thống trong cuộc CMCN 4.0 có thể nhận thấy một số vấn đề sau: Thứ nhất, là sự lấn át của các phương tiện truyền thông, nghe nhìn hiện đại, các gameshow truyền hình1. Đây là một trong những thách thức lớn mà nghệ thuật truyền thống khó có thể cạnh tranh về sự nhanh nhạy, hấp dẫn, đáp ứng tốt nhu cầu của mọi đối tượng công chúng, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. Sự ra đời của internet, mạng xã hội, sự du nhập của các bộ phim điện ảnh đến từ các quốc gia như Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Ấn Độ với tần số phủ sóng dày đặc trên các kênh truyền hình quốc gia và địa phương2; các bộ phim tâm lý, hành động của nước ngoài công chiếu trong các rạp đã vô tình đẩy lùi, lấn át và làm lu mờ loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống. Sân khấu truyền thống phù hợp với bối cảnh xã hội nông nghiệp với hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình, những không gian công cộng gắn liền với thiên nhiên, cuộc sống thường ngày. Vì thế khi xã hội thay đổi, chuyển mình từ mô hình xã hội nông nghiệp sang xã hội đô thị, công nghiệp hiện đại với nhịp sống nhanh, gấp gáp thì việc thích ứng của sân khấu truyền thống với bối cảnh mới có phần chậm chạp, thậm chí hoang mang, khủng hoảng khi không gian diễn xướng ngày càng bị thu hẹp để dành quỹ đất cho sự phát triển đô thị. Đồng thời tầng lớp khán thính giả cũng không còn mặn mà, dành trọn tình yêu cho sân khấu truyền thống. Thời vàng son một thuở đã qua đi, khi con người sáng tạo ra nhiều loại hình nghệ thuật mới phù hợp với thị hiếu công chúng đương thời thì sự lùi lại phía sau của sân khấu là quy luật tất yếu không thể tránh khỏi. Vì thế, để tồn tại, tránh rơi vào di Số 24 - Tháng 6 - 2018 95 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA TRAO ĐỔI sản bảo tàng, sân khấu truyền thống phải tự tìm đường, nhận đường để có một vị trí và chỗ đứng xứng đáng trong tâm trí nhiều thế hệ. Thứ hai, là những thách thức từ chính nhận thức phiến diện của những người có trách nhiệm. Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH có sự đan xen và song song tồn tại giữa cái cũ và cái mới, truyền thống và hiện đại, quá khứ và tương lai mà đôi khi con người khó có thể nhận diện cái nào là tiến bộ, tích cực, cái gì là lạc hậu, bảo thủ, lỗi thời. Vì thế cần có cái nhìn biện chứng, đi trước đón đầu của những nhà quản lý, các cơ quan chuyên môn, tham mưu. Tuy nhiên trên thực tế, vì mải chạy theo lợi ích kinh tế và chủ nghĩa cá nhân cơ hội, nhiều cán bộ xem thường, đánh giá thấp vị trí, vai trò của sân khấu truyền thống. Việc đầu tư về tài lực cũng như nhân lực cho loại hình nghệ thuật này chưa tưng xứng, còn nặng về hình thức, hô hào khẩu hiệu khiến cho sân khấu phát triển cầm chừng, tiến thoái lưỡng nan. Thứ ba, là thách thức từ chính chủ thể sáng tạo, gìn giữ nét đẹp của sân khấu. Một thực tế mà sân khấu hiện nay đang đối diện là sự khủng hoảng đội ngũ sáng tác kịch bản, đạo diễn, diễn viên chuyên nghiệp khiến cho những vở diễn trở nên cũ mòn, đơn điệu nhàm chán, không thu hút được người xem3. Mặt khác, do hoạt động quá lâu trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phụ thuộc vào nguồn biên chế, ngân sách, đặt hàng của Nhà nước đã không kích thích được tính chủ động, sáng tạo, tranh tài giữa các loại hình, các đoàn nghệ thuật và trong chính đội ngũ của một đơn vị nghệ thuật. Đó là sự lãng phí lớn khi nguồn ngân sách hoạt động không hiệu quả, đội ngũ diễn viên chuyên nghiệp trở nên chây ì, già cỗi. Do đồng lương eo hẹp, nhiều diễn viên bỏ nghề hoặc làm thêm nghề phụ để mưu sinh dẫn đến sự chuyên tâm và tình yêu cho nghiệp diễn trở nên bấp bênh, phai nhạt. Hoạt động sân khấu đòi hỏi tài năng và niềm đam mê cháy bỏng, cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Tuy nhiên một trong những điều lo ngại của những người làm sân khấu là sự thiếu vắng của đội ngũ những diễn viên trẻ tài năng, một mặt do cơ chế chính sách tuyển chọn đãi ngộ chưa xứng đáng; mặt khác sức hấp dẫn của nghề chưa tạo được tầm ảnh hưởng đối với thanh thiếu niên. Nhà trường, gia đình và xã hội còn chưa thực sự hiểu, trân trọng về nghề diễn. Những ám ảnh tâm lý, những định kiến về nghề hát (xướng ca vô loài) vẫn còn ăn sâu trong nếp nghĩ nhiều người khiến cho cái nhìn về nghệ thuật sân khấu còn lệch lạc. Về quá trình đào tạo tài năng trẻ cho lĩnh vực sân khấu, hiện nay ở một số trường chuyên nghiệp như Đại học Sân khấu - Điện ảnh, Cao đẳng nghệ thuật Múa Trung ương, các trường Cao đẳng, Trung cấp văn hóa nghệ thuật của các địa phương, các khoa nghệ thuật của các trường Đại học cũng đã quan tâm mở mã ngành đào tạo cho các sinh viên, diễn viên quần chúng. Nhưng lượng người theo học có xu hướng giảm dần, góp phần tô thêm màu xám cho bức tranh ảm đạm của nghệ thuật sân khấu4. Có thể nói, cuộc CMCN 4.0 mang đến cho nhân loại những trải nghiệm, khám phá mới, thú vị về thế giới và cuộc sống của con người qua sự kết hợp tài tình của công nghệ. Cái mới lại tự nó đã tạo sức hút, kích thích tâm lý tò mò của mỗi người. Điều này khiến cho sân khấu truyền thống bị thu hẹp tầm ảnh hưởng và phạm vi hoạt động. Tuy nhiên, mỗi loại hình nghệ thuật dù hiện đại hay cổ điển đều có cách đi riêng trên những con đường do người nghệ sĩ tạo ra để chiếm lĩnh trái tim, tâm hồn của công chúng. Sân khấu truyền thống đang gặp khó, rơi vào khủng hoảng nhưng không phải là không có lối thoát để tỏa sáng và vươn ra thế giới. 3. Một số giải pháp phát huy sức mạnh của nghệ thuật sân khấu trong bối cảnh hiện nay Sân khấu là loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo, nơi lưu giữ và phản ánh lịch sử văn hóa và tâm hồn ông cha; nói lên tâm sự, nỗi niềm của con người trước thiên nhiên, xã hội, cùng phương thức phản ánh hiện thực cuộc sống sinh động qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động, hóa trang, đạo cụ, âm thanh, ánh Số 24 - Tháng 6 - 201896 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA sáng, bài trí cảnh sắc, có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân cách con người. Dù cuộc sống thay đổi, con người mải chạy theo lợi ích vật chất, tiền tài, thì đến một lúc nào đó, họ lại khát khao tìm về những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc, muốn được hòa mình trong những làn điệu chèo tình tứ, thiết tha, những câu vọng cổ chân thành, da diết; những vở kịch, điệu tuồng mang đậm màu sắc văn hóa quê hương. Để phát triển loại hình nghệ thuật đặc biệt này trong cuộc sống hôm nay, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có một số giải pháp cơ bản như: Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức của các cấp các ngành, của người dân và những người làm nghệ thuật về vai trò, vị trí đặc biệt của nghệ thuật sân khấu truyền thống. Đó là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo tồn, gìn giữ và phát huy, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ đó cần quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị di sản dân tộc được thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (2014) về Xây dựng, phát triển văn hóa và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2020 của Chính phủ (ban hành năm 2009); Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Chính phủ (ban hành năm 2016), với mục tiêu chủ yếu đến năm 2020, “Phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp Khoảng 3% GDP và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, trong đó đóng góp của ngành nghệ thuật biểu diễn đạt khoảng 16 triệu USD”. “Mục tiêu chủ yếu đến năm 2030, phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP và tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, trong đó đóng góp của ngành nghệ thuật biểu diễn đạt khoảng 31 triệu USD” (5). Để hoàn thành mục tiêu, kế hoạch đó cần gắn kết chặt chẽ vai trò của sân khấu với hoạt động du lịch, trải nghiệm thực tế của du khách trong và ngoài nước. Không ngừng tuyên truyền và lan tỏa sức sống, sức hấp dẫn của nghệ thuật sân khấu qua mô hình các câu lạc bộ, sinh hoạt dân gian, cộng đồng; đưa nghệ thuật sân khấu vào giảng dạy trong hệ thống các cơ sở giáo dục, thắp lên tình yêu và sự gắn bó với cội nguồn lịch sử dân tộc cho thế hệ trẻ qua những vở diễn sinh động, độc đáo. Thứ hai, Nhà nước và các cơ quan ban ngành cần có cơ chế, chính sách đặc thù đối với lĩnh vực hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Đầu tư kinh phí, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị theo hướng đồng bộ, tiên tiến, tận dụng những ưu thế của cuộc CMCN 4.0 để làm mới nghệ thuật sân khấu. Có chính sách đãi ngộ nghệ sĩ, nghệ nhân và tuyển chọn những tài năng sân khấu trẻ, bổ sung nguồn lực và đội ngũ kế cận trong việc trao truyền, tiếp nhận di sản sân khấu của cha ông. Thứ ba, nâng cao tính chủ động, tích cực, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ, đạo diễn, diễn viên trong việc sáng tạo nhiều tác phẩm mới, phù hợp với tâm lý và thị hiếu công chúng. Xã hội hóa các hoạt động nghệ thuật, phối kết hợp với các tổ chức, đơn vị nghệ thuật tư nhân để khảo sát nắm bắt tâm lý, nhu cầu của thị trường. Mạnh dạn thử nghiệm các loại hình sân khấu mới; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm sản xuất, quảng bá và kinh doanh nghệ thuật của các đoàn nghệ thuật tiêu biểu trên thế giới. Tiến tới cổ phần hóa một số nhà hát, đoàn nghệ thuật theo hướng tự chủ tài chính, nguồn biên chế, đào tạo, tuyển chọn diễn viên, tạo tính cạnh tranh, thi đua giữa các đoàn, đơn vị nghệ thuật. Bên cạnh đó cần tăng cường mở rộng, giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa, nghệ thuật. Tăng cường quảng bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè thế giới thông qua nghệ thuật sân khấu truyền thống. Có thể nói, cuộc CMCN 4.0 mang đến những thời cơ thuận lợi và cả những khó khăn, thách thức đòi hỏi sân khấu phải có sự lựa chọn khéo léo để tồn tại và phát triển, được công chúng Số 24 - Tháng 6 - 2018 97 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA TRAO ĐỔI mến mộ, tìm tới như một nhu cầu tự nhiên nhất. Điều quan trọng trong phát triển loại hình nghệ thuật này là sự kết hợp nhuần nhuyễn, tài tình giữa truyền thống, bản sắc với hiện đại, hội nhập toàn cầu. Việc bảo tồn vẻ đẹp tâm hồn dân tộc, nét độc đáo của văn hóa truyền thống qua cách thể hiện mới lạ, độc đáo cùng sự hỗ trợ của công nghệ nghe nhìn hiện đại sẽ là hướng đi bền vững của sân khấu trong bối cảnh hiện nay. Điều đang chờ đợi là sự nỗ lực, cố gắng và khả năng dự báo, đi trước đón đầu của nhà quản lý; tình yêu, tài năng và nhiệt huyết của đội ngũ văn nghệ sĩ; sự mặn mà của công chúng thì sân khấu sẽ trở thành một trong “nguồn lực nội sinh quan trọng” trong quá trình phát triển đất nước hiện nay. N.H.P (TS., Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) Chú thích 1 Theo ông Nguyễn Bắc Son, Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình báo chí, với hơn 800 cơ quan. Đặc biệt chưa nước nào có nhiều đài truyền hình như Việt Nam, với hơn 300 kênh phát thanh, truyền hình phát sóng hàng ngày. Nguồn: https://thanhnien.vn/thoi-su/viet-nam- co-nhieu-dai-truyen-hinh-nhat-the-gioi-555878. html 2 Năm 2017, Việt Nam đạt doanh thu 3.250 tỷ đồng trong lĩnh vực điện ảnh. Trong đó, doanh thu từ phim Việt chỉ chiếm 28%, điều đó cho thấy phim trong nước vẫn bị phim ngoại lấn át về sức cạnh tranh. 3 Rạp Hồng Hà thuộc quyền quản lý của Nhà hát Tuồng với sân khấu chính gồm 339 ghế ngồi nhưng có những đêm diễn chỉ có 5 khán giả. Còn với Nhà hát Kịch Tuổi trẻ Hà Nội, đa số các vở diễn phát vé mời mới đông khán giả. Theo NSƯT. Chí Trung, một tuần nhà hát Tuổi trẻ vẫn diễn 2-3 buổi nhưng không được như ngày xưa, một vở ra mắt diễn 70 buổi liên tục. Khán giả chỉ tập trung mua vé các vở hài kịch, còn chính kịch thường thưa vắng khách. Các sàn kịch trụ cột của làng kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh như: IDECAF, Hồng Vân, Hoàng Thái Thanh, 5B, Kịch Sài Gòn, Nụ Cười Mới,... đều rơi vào tình trạng không đủ khán giả. Mỗi suất, khán giả được nửa rạp hoặc chỉ vài hàng ghế vẫn phải mở màn biểu diễn. 4 Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị đào tạo về sân khấu, điện ảnh trình độ đại học, cao đẳng chính quy duy nhất của khu vực phía Nam, tuy nhiên năm 2015, số thí sinh đăng ký dự thi vào trường giảm đến 50% so với trước đó. Còn theo thống kê của Đại học Huế, trong đợt tuyển sinh năm 2016, Trường Đại học Nghệ thuật chỉ tuyển sinh được 63 thí sinh, đạt 30% so với 210 chỉ tiêu đề ra. Tài liệu tham khảo 1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: thời cơ và thách thức đối với Việt Nam, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội. 2. Đào Mạnh Hùng (2003), Sân khấu truyền thống bản sắc dân tộc và sự phát triển, Nxb. Sân Khấu, Hà Nội. 3. Nguyễn Đình Thi, Lê Mạnh Hùng (2008), Tiếng nói sân khấu, Nxb. Văn học, Hà Nội. 4. Đinh Thị Thuận (2007), Đưa nghệ thuật truyền thống thành sản phẩm du lịch hấp dẫn, https://baotintuc.vn/doi-song-van-hoa/dua- nghe-thuat-truyen-thong-thanh-san-pham-du- lich-hap-dan-20170608114847757.htm 5. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 6. Tổng cục Thống kê (2019), Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 4 và 4 tháng năm 2018, http:// vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/26394 Ngày nhận bài: 13 - 1 - 2018 Ngày phản biện, đánh giá: 15- 6 - 2018 Ngày chấp nhận đăng: 23 - 6- 2018
File đính kèm:
san_khau_truyen_thong_trong_boi_canh_cuoc_cach_mang_cong_ngh.pdf