Sai sót Báo cáo tài chính của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Tóm tắt - Sai sót trong công bố thông tin trên Báo cáo tài chính

(BCTC) là một trong những chủ đề đặc biệt được quan tâm và mang

tính thời sự tại Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm cung cấp bức tranh

tổng quát về thực trạng sai sót BCTC theo các chỉ tiêu trọng yếu như

lợi nhuận, tài sản. Dựa vào cách tiếp cận mô tả, so sánh và giải thích,

kết quả phân tích cho thấy sai sót lợi nhuận và tài sản của các công

ty niêm yết phổ biến cả về số lượng và mức độ sai sót. Sai sót cũng

không giảm qua 5 năm và không phụ thuộc vào thị trường niêm yết

và ngành nghề hoạt động. Kết quả này một mặt cung cấp thông tin

có giá trị cho cơ quan quản lý, nhà đầu tư để xem xét trong việc quản

lý và ra quyết định, mặt khác cung cấp kết quả cho các nhà nghiên

cứu để nghiên cứu giải thích hiện tượng sai sót BCTC.

pdf 5 trang phuongnguyen 7640
Bạn đang xem tài liệu "Sai sót Báo cáo tài chính của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sai sót Báo cáo tài chính của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Sai sót Báo cáo tài chính của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(131).2018 15 
SAI SÓT BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN 
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 
FRAUDULENT FINANCIAL STATEMENT OF LISTED COMPANIES ON 
THE VIETNAMESE STOCK MARKET 
Nguyễn Công Phương1, Nguyễn Trọng Hiếu2, Nguyễn Mạnh Cường2 
1Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng; phuong.nc@due.edu.vn 
2Công ty TNHH Kiểm toán và Thẩm định giá AFA; hieu.nt@afac.com.vn, cuongnm.afa@gmail.com 
Tóm tắt - Sai sót trong công bố thông tin trên Báo cáo tài chính 
(BCTC) là một trong những chủ đề đặc biệt được quan tâm và mang 
tính thời sự tại Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm cung cấp bức tranh 
tổng quát về thực trạng sai sót BCTC theo các chỉ tiêu trọng yếu như 
lợi nhuận, tài sản. Dựa vào cách tiếp cận mô tả, so sánh và giải thích, 
kết quả phân tích cho thấy sai sót lợi nhuận và tài sản của các công 
ty niêm yết phổ biến cả về số lượng và mức độ sai sót. Sai sót cũng 
không giảm qua 5 năm và không phụ thuộc vào thị trường niêm yết 
và ngành nghề hoạt động. Kết quả này một mặt cung cấp thông tin 
có giá trị cho cơ quan quản lý, nhà đầu tư để xem xét trong việc quản 
lý và ra quyết định, mặt khác cung cấp kết quả cho các nhà nghiên 
cứu để nghiên cứu giải thích hiện tượng sai sót BCTC. 
Abstract - This study aims to provide a general picture of 
fraudulent financial statements through the key indicators such as 
profit and assets. Based on the descriptive, comparative and 
explanatory approaches, the results of the analysis show that the 
fraudulent profit and assets of listed companies are popular both in 
terms of quantity and level of error. Errors also do not decrease 
over 5 years and are not dependent on the listed stock market and 
the industry. This result, on the one hand, provides valuable 
information to regulators and investors for consideration in 
management and decision making, and on the other hand provides 
results for researchers to do research in the future. 
Từ khóa - sai sót báo cáo tài chính; sai sót lợi nhuận; sai sót tài 
sản; thị trường chứng khoán; công ty niêm yết. 
Key words - fraudulent financial statement; profit errors; asset 
errors; stock market; listed company. 
1. Đặt vấn đề 
Báo cáo tài chính (BCTC) nhằm cung cấp thông tin 
hữu ích cho người sử dụng để ra quyết định. Thông tin sai 
sót có thể làm tổn hại đến việc ra quyết định đầu tư của 
nhà đầu tư. Sai sót BCTC là một chủ đề có tính thời sự 
trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị. Tính phổ biến 
của sai sót BCTC trên thế giới và ở nước ta (Nguyễn Công 
Phương, 2016) đặt ra vấn đề, cần tìm hiểu bản chất, 
nguyên nhân và hệ quả của sai sót. Một chủ đề nghiên cứu 
rộng rãi trong học thuật là nghiên cứu về gian lận BCTC 
(fraudulent financial statements). Chủ đề này đã và đang 
thu hút sự quan tâm của công chúng, quản lý nhà nước và 
các bên có liên quan khác vì hành vi này xảy ra ở nhiều 
công ty với mức độ khác nhau, làm ảnh hưởng tiêu cực 
đến lợi ích của các bên có liên quan trên thị trường và cả 
trong đời sống xã hội (chẳng hạn trường hợp của Enron, 
WorldCom, Global Crossing, Adelphia, ... ở Mỹ hay 
Bông Bạch Tuyết, Dược Viễn Đông, Gỗ Trường Thành, 
... ở Việt Nam.). Không như ở một số nước, chẳng hạn 
như ở Mỹ, gian lận và sai sót BCTC được tổng hợp và 
công bố rộng rãi hàng năm bởi cơ quan công quyền có 
liên quan hoặc các hiệp hội để cung cấp thông tin cho 
công chúng. Ở Việt Nam cơ quan quản lý nhà nước (như 
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) hoặc các tổ chức nghề 
nghiệp không công bố các báo cáo về sai phạm BCTC của 
các công ty niêm yết. Sai sót nói chung và gian lận BCTC 
của các công ty niêm yết nói riêng ở Việt Nam được báo 
chí phản ánh rời rạc thông qua báo cáo kiểm toán của các 
công ty kiểm toán độc lập. Từ đó, rất khó để có một đánh 
giá đầy đủ, bao quát thực trạng sai sót BCTC của các công 
ty niêm yết tại Việt Nam. Ngoài nghiên cứu của Nguyễn 
Công Phương và cộng sự (2016) về sai sót BCTC trong 
ba năm từ 2010 đến 2012, chưa tìm thấy một nghiên cứu 
phân tích có hệ thống sai sót BCTC trong nhiều năm. 
Bài viết phân tích sai sót BCTC của các công ty niêm 
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 2012 đến 
năm 2016. Phân tích sai sót tập trung vào các nội dung 
trọng yếu gồm: sai sót về lợi nhuận, sai sót về tài sản. Nhằm 
cung cấp bức tranh về thực trạng sai sót BCTC của các 
công ty niêm yết theo thời gian. Kết quả phân tích, cung 
cấp bằng chứng thực tế giúp cho các nghiên cứu thực 
nghiệm về sau, trong việc nhận diện và đo lường biến phụ 
thuộc (sai sót BCTC) trên cơ sở kết hợp đánh giá nguyên 
nhân sai sót. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Về mặt phương pháp, phân tích dựa vào số liệu thống 
kê mô tả (còn được gọi là nghiên cứu dạng mô tả - 
Descriptive studies). Mục đích là cung cấp một bức tranh 
hiện thực về sai sót BCTC của các công ty niêm yết, nhận 
diện một số thuộc tính của sai sót, qua đó cung cấp các bằng 
chứng làm căn cứ cho thực hiện các nghiên cứu phân tích 
chuyên sâu hơn ở các nghiên cứu tiếp theo. Cách tiếp cận 
phân tích dựa vào số liệu thống kê mô tả đã được nghiên 
cứu thực hiện ở nhiều nước trên thế giới, nhất là ở Mỹ. 
Bremser, LicataRollins (1991) phân tích sai sót của các 
công ty và kiểm toán viên trong giai đoạn từ 1982-1989 đã 
tổng hợp các thông tin về các dạng vi phạm trong kế toán, 
của kiểm toán viên và ý kiến kiểm toán đối với BCTC của 
các công ty này và những hình phạt do Ủy ban Chứng 
khoán và Hối đoái Mỹ (SEC) áp dụng. Beasley, Carcello 
Hermanson (1999) đã phân tích các BCTC có sai sót do 
COSO công bố. Dựa vào thống kê mô tả, phân tích các 
nghiên cứu đã hệ thống hóa các thuộc tính của các công ty 
có BCTC sai sót. Nghiên cứu của Hiệp hội các nhà điều tra 
16 Nguyễn Công Phương, Nguyễn Trọng Hiếu, Nguyễn Mạnh Cường 
gian lận Hoa Kỳ (ACFE) 1 cũng sử dụng phương pháp 
thống kê mô tả để thống kê các trường hợp và tỷ lệ các công 
ty có sai phạm gian lận BCTC theo các trường hợp (ghi 
nhận, đo lường và công bố thông tin). Sử dụng thống kê 
mô tả, nghiên cứu của KPMG (2003) đã nhận diện top 4 
dạng sai phạm tài chính, đó là sai sót về xác định giá tài sản 
và ghi nhận doanh thu, cho dấu nợ và chi phí, ghi nhận 
doanh thu không có thực, và bỏ sót hoặc công bố thông tin 
không hợp lý2. Điều tra của COSO từ năm 1987 đến 1997 
đối với 204 công ty đại chúng ở Mỹ cung cấp bằng chứng 
về sai phạm BCTC, nhất là sai phạm về xác định giá trị tài 
sản cao hơn thực tế thông qua việc ghi nhận tài sản không 
có thực hoặc vốn hoá chi phí đáng ra phải ghi nhận vào chi 
phí xác định lợi nhuận trong kỳ (COSO, 1999). Ở Việt 
Nam, nghiên cứu của Nguyễn Công Phương và cộng sự 
(2016) đã thống kê mô tả về sai sót BCTC trong ba năm từ 
2010 đến 2012. 
Kế thừa các nghiên cứu trước đây, phương pháp sử 
dụng trong các nghiên cứu này là phương pháp thống kê 
mô tả. Do đó, cách tiếp cận của bài viết là phân tích mô tả 
dựa vào số liệu thứ cấp là BCTC trước và sau kiểm toán. 
Sự sai lệch số liệu trước với sau kiểm toán này phản ánh 
sai sót BCTC, chưa thể khẳng định hành vi, nguyên nhân 
và hệ quả của sai sót này. Để thu thập thông tin về các công 
ty có sai sót BCTC, nghiên cứu này nhận được sự trợ giúp 
từ công ty chuyên cung cấp số liệu tài chính StockPlus, đây 
là Công ty hàng đầu chuyên về cung cấp các giải pháp 
thông tin tài chính, dữ liệu thị trường. 
Dữ liệu về các công ty niêm yết có sai sót BCTC trong 
thời gian 2012 đến 2016 được thu thập thông qua cơ sở dữ 
liệu StockPlus. Số liệu này do StockPlus tổng hợp từ BCTC 
trước và sau kiểm toán, đính kèm báo cáo kiểm toán của 
công ty kiểm toán độc lập được công bố trên hai sở giao 
dịch chứng khoán HNX và HOSE. Ngoài ra, một số dữ liệu 
còn thiếu được thu thập trực tiếp trên website của 
StockPlus, S.cafef.vn và từ wesite của doanh nghiệp niêm 
yết cần thu thập. Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngân 
hàng và công ty tài chính không đưa vào nghiên cứu, do có 
khác biệt về BCTC. 
Về mặt đo lường sai sót BCTC, sai sót BCTC là chênh 
lệch số liệu trước kiểm toán với số liệu sau kiểm toán. 
Chênh lệch số liệu BCTC trước và sau kiểm toán chỉ phản 
ánh sai sót, chưa thể khẳng định có gian lận hay không. Vì 
không có thông tin về gian lận, việc ước tính gian lận mang 
tính tương đối thông qua động cơ gian lận. Dựa vào động 
cơ và thủ thuật gian lận, các nhà nghiên cứu cho rằng, động 
cơ gian lận đi kèm với thủ thuật thổi phồng lợi nhuận như 
tăng doanh thu, giảm chi phí; tăng giá trị tài sản; che giấu 
nợ; che giấu thông tin cung cấp trong BCTC.... Trên cơ sở 
này, đo lường tương đối gán cho hành vi có thể xảy ra gian 
lận khi công ty báo cáo lợi nhuận, tài sản (số liệu trước 
kiểm toán) cao hơn thực tế (số liệu sau kiểm toán). Trường 
hợp ngược lại được xem là sai sót không cố ý (có thể do hệ 
thống kế toán của doanh nghiệp yếu kém hoặc do nhầm 
lẫn). Từ đó, nghiên cứu phân loại một cách tương đối (dựa 
1 Trích dẫn trong nghiên cứu của Trần Thị Giang Tân [7]. Trần Thị Giang Tân, "Gian lận trên báo cáo tài chính: thực trạng và kiến nghị đối với các 
doanh nghiệp Việt Nam", Tạp chí Kinh tế Phát triển, 225, tháng 7, 2009, pp. 7.. 
2 Trích dẫn trong nghiên cứu của Beasley et al. [2]. Beasley M.S., Carcello J.V., Hermanson D.R., Lapides P.D., "Fraudulent financial reporting: 
Consideration of industry traits and corporate governance mechanisms", Accounting Horizons, 14(4), 2000, pp. 441-454. 
vào tính phổ biến) hai dạng sai sót theo cơ sở này, như được 
tóm tắt ở Bảng 1. 
Bảng 1. Phân loại sai sót 
Loại sai sót 
Thực tế báo cáo so với số liệu kiểm toán 
Lợi nhuận 
Tài 
sản 
Nợ 
Công bố 
thông tin 
Doanh 
thu 
Chi 
phí 
Sai sót cố ý 
(gian lận) 
Cao hơn 
Thấp 
hơn 
Cao 
hơn 
Thấp 
hơn 
Ít hơn 
Sai sót 
không cố ý 
Thấp 
hơn 
Cao 
hơn 
Thấp 
hơn 
Cao 
hơn 
Không thể gán 
tương đồng 
3. Kết quả phân tích 
3.1. Số lượng công ty có sai sót BCTC qua năm từ 2012-
2016 
Số liệu tổng hợp của StockPlus cung cấp cho thấy, số 
lượng các công ty niêm yết chính thức trên sàn HOSE và 
HNX qua các năm như sau: năm 2012 có 689 công ty, năm 
2013 có 662, năm 2014 có 679 công ty, năm 2015 có 684 
công ty và năm 2016 có 698 công ty. Trong đó, các công 
ty thiếu số liệu trước kiểm toán hoặc thiếu số liệu sau kiểm 
toán cũng như các công ty thuộc ngành nghề tài chính, ngân 
hàng, chứng khoán sẽ loại ra khỏi dữ liệu nghiên cứu. Như 
vậy, số liệu các công ty được đưa vào dữ liệu nghiên cứu 
như sau: năm 2012: 612 công ty, năm 2013: 580, năm 
2014: 585 công ty, năm 2015: 599 công ty và năm 2016: 
649 công ty. 
Số lượng và tỷ lệ phần trăm các công ty báo cáo lợi 
nhuận cao hơn, thấp hơn, và không thay đổi so với số liệu 
của kiểm toán được trình bày ở Bảng 2. Bảng 3, trình bày 
số lượng và tỷ lệ các công ty có sai sót về tổng tài sản trước 
và sau kiểm toán. 
Bảng 2. Thống kê các công ty có sai sót lợi nhuận 
Thực tế báo 
cáo so với 
kết quả 
kiểm toán 
2012 2013 2014 2015 2016 
SL 
Tỷ 
lệ 
(%) 
SL 
Tỷ 
lệ 
(%) 
SL 
Tỷ 
lệ 
(%) 
SL 
Tỷ 
lệ 
(%) 
SL 
Tỷ 
lệ 
(%) 
1. Lệch so 
với số liệu 
kiểm toán, 
trong đó 
511 83,5 464 80,0 435 74,4 456 76,1 502 77,3 
- Báo cáo 
cao hơn 
307 50,2 307 52,9 242 41,4 264 44,0 302 46,5 
- Báo cáo 
thấp hơn 
204 33,3 157 27,1 193 33,0 192 32,1 200 30,8 
2. Không 
thay đổi 
101 16,5 116 20,0 150 25,6 143 23,9 147 22,7 
Tổng 612 100 580 100 585 100 599 100 649 100 
Bảng 2 cho thấy các công ty có sai sót lợi nhuận chiếm 
một tỷ lệ tương đối cao, dao động quanh mức 80% trong 
tổng số công ty được lựa chọn nghiên cứu. Cụ thể, năm 2012 
tỷ lệ này là 83,5%, năm 2013 là 80%, năm 2014 là 74,4%, 
năm 2015 là 76,1% và năm 2016 là 77,3 %. Số liệu thống kê 
này cho thấy, tình trạng sai sót trong lợi nhuận có xu hướng 
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(131).2018 17 
giảm trong những năm gần đây. Trong đó, các công ty có số 
liệu trước kiểm toán toán cao hơn số liệu sau kiểm toán (sai 
sót cố ý) chiếm tỷ lệ khá cao. Tuy nhiên, tỷ lệ này có xu 
hướng giảm trong các năm về sau (năm 2012 là 50,2%, năm 
2013 là 52,9%, năm 2014 là 41,4%, năm 2015 là 44% và 
năm 2016 là 46,5%). Đồng thời các công ty có báo cáo lợi 
nhuận thấp hơn lợi nhuận kiểm toán (sai sót không cố ý) 
cũng chiếm tỷ lệ tương đối cao, cụ thể: năm 2012 là 33,3%, 
năm 2013 là 27,1%, năm 2014 là 33%, năm 2015 là 32,1% 
và năm 2016 là 30,8%. Câu hỏi đặt ra ở đây là phải chăng 
đây là những sai sót không cố ý do kế toán ở các công ty còn 
hạn chế về mặt chuyên môn, chưa nắm vững các nguyên tắc 
kế toán hoặc do nhầm lẫn hay là chủ ý của doanh nghiệp 
niêm yết. Thực tế, cũng có trường hợp công ty công bố lợi 
nhuận thấp hơn để phục vụ các mục đích riêng của ban điều 
hành công ty, chẳng hạn như muốn giá cổ phiếu xuống thấp 
để mua vào, sau đó khi công bố lợi nhuận chính thức sau 
kiểm toán thì lại bán ra với mức giá cao hơn. 
Bảng 3. Thống kê các công ty có sai sót giá trị tài sản 
Thực tế báo 
cáo so với 
kết quả 
kiểm toán 
2012 2013 2014 2015 2016 
SL 
Tỷ 
lệ 
(%) 
SL 
Tỷ 
lệ 
(%) 
SL 
Tỷ 
lệ 
(%) 
SL 
Tỷ 
lệ 
(%) 
SL 
Tỷ 
lệ 
(%) 
1. Lệch so 
với số liệu 
kiểm toán, 
trong đó 
499 81,5 455 78,4 435 74,4 455 76,0 491 75,7 
- Báo cáo 
cao hơn 
290 47,4 276 47,6 244 41,7 248 41,4 282 43,5 
- Báo cáo 
thấp hơn 
209 34,1 179 30,8 191 32,7 207 34,6 209 32,2 
2. Không 
thay đổi 
113 18,5 125 21,6 150 25,6 144 24,0 158 24,3 
Tổng 612 100 580 100 585 100 599 100 649 100 
Về sai sót trên bảng cân đối kế toán thể hiện ở số liệu 
tổng hợp là giá trị tổng tài sản (Bảng 3) cũng có chiều 
hướng giảm qua các năm. Cụ thể, năm 2012 tỷ lệ này là 
81,5%, năm 2013 là 78,4%, năm 2014 là 74,4%, có tăng 
nhẹ năm 2015 là 76% và năm 2016 là 75,7% nhưng vẫn 
còn thấp so với năm 2012. Sai sót giá trị tổng tài sản do các 
sai sót của một số khoản mục phổ biến sẽ được trình bày 
dưới đây. 
Kết quả trên có thể phản ánh ba vấn đề đối với nhà quản 
lý. Thứ nhất, tình hình sai sót BCTC đang có xu hướng 
giảm, tuy nhiên nhìn chung vẫn còn tương đối cao. Thứ hai, 
thái độ tiêu cực của các công ty niêm yết về tuân thủ 
nguyên tắc kế toán trong lập và trình bày BCTC. Thứ ba, 
trình độ của kế toán ở nhiều công ty niêm yết (các công ty 
có báo cáo lợi nhuận trước kiểm toán thấp hơn lợi nhuận 
sau khi được kiểm toán) chưa đáp ứng được yêu cầu. 
Các công ty trong mẫu nghiên cứu được thu thập từ số 
liệu của hai sở giao dịch chứng khoán (HNX và HOSE). 
Mặc dù hai sở giao dịch chứng khoán hoạt động theo khuôn 
khổ pháp lý chung, nhưng giữa chúng có sự khác biệt ít 
nhiều về quản lý, điều hành, uy tín, ... Để đánh giá xem liệu 
sai sót BCTC của các công ty niêm yết có sự khác biệt giữa 
hai thị trường, kiểm định so sánh T-test được áp dụng. Kết 
quả phân tích được trình bày ở Bảng 4. Kết quả cho thấy, 
kiểm định T-test không có ý nghĩa thống kê (mức ý nghĩa 
sig. = 0,651). Kết quả này muốn nói rằng không có sự khác 
biệt về sai sót lợi nhuận trong BCTC của các công ty niêm 
yết giữa hai sở giao dịch chứng khoán. 
Để phân tích có sự khác biệt về mức độ sai sót chỉ tiêu 
lợi nhuận của các công ty thuộc các nhóm ngành khác nhau, 
kiểm định so sánh ANOVA được sử dụng. Các công ty 
trong mẫu được xếp vào chính ngành theo phân loại của 
Ủy ban Chứng khoán. Kết quả phân tích được trình bày ở 
Bảng 5. 
Bảng 4. Kiểm định T-test so sánh sai sót của các công ty giữa hai sở giao dịch chứng khoán 
Levene's Test T-test for Equality of Means 
F Sig. t df Sig. (2-tailed) Mean Difference Std. Error Difference 
Chênh 
lệch 
Lợi 
nhuận 
Phương sai của hai tổng 
thể bằng nhau 
3,803 0,051 0,497 3.023 0,619 1.088.885.966,3 2.190.549.185,7 
Phương sai của hai tổng 
thể không bằng nhau 
 0,453 1.565,6 0,651 1.088.885.966,3 2.403.742.252,9 
Bảng 5. Kiểm định ANOVA so sánh sai sót lợi nhuận giữa các ngành 
Source of Variation SS df MS F P-value F crit 
Between Groups 4,26E+22 8 5,32E+21 1,33865 0,21929 1,941824 
Within Groups 1,07E+25 2.704 3,98E+21 
Total 1,08E+25 2.712 
Kết quả kiểm định ở Bảng 5 cho thấy mức ý nghĩa 
thống kê của kiểm định ANOVA là 0,21 lớn hơn 0,05. Có 
nghĩa là sai sót lợi nhuận trước và sau kiểm toán của các 
công ty giữa các ngành là không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê. 
Từ hai kết quả kiểm định trên cho thấy, sai sót lợi nhuận 
của các công ty không phụ thuộc vào nơi niêm yết (HNX 
hay HOSE) và cũng không phụ thuộc vào ngành nghề kinh 
doanh. Điều này có nghĩa rằng, sai sót lợi nhuận là do yếu tố 
nội tại của công ty như quản lý điều hành, quản trị công ty. 
3.2. Quy mô sai sót BCTC 
Sai sót lợi nhuận là chênh lệch giữa lợi nhuận sau thuế 
trước kiểm toán và lợi nhuận sau thuế sau kiểm toán. Bảng 
6 trình bày quy mô lợi nhuận sai sót của các công ty báo 
cáo lợi nhuận cao hơn lợi nhuận sau kiểm toán. Bảng 7 
trình bày quy mô lợi nhuận sai sót của các công ty báo cáo 
lợi nhuận thấp hơn lợi nhuận sau kiểm toán. 
Xét về quy mô sai sót lợi nhuận (xem các Bảng 6, 7), 
giá trị lợi nhuận sai sót là tương đối lớn. Đối với các công 
ty báo cáo lợi nhuận cao hơn lợi nhuận sau kiểm toán (Bảng 
18 Nguyễn Công Phương, Nguyễn Trọng Hiếu, Nguyễn Mạnh Cường 
6), quy mô sai sót như sau: năm 2012 (giá trị sai sót 1.588 
tỷ đồng), năm 2013 (giá trị sai sót 1.094 tỷ đồng), năm 2014 
(giá trị sai sót 4.421 tỷ đồng), năm 2015 (giá trị sai sót 
1.080 tỷ đồng) và năm 2016 (giá trị sai sót 1.286 tỷ đồng). 
Qua đó ta thấy, giá trị sai sót trong năm 2014 có sự đột biến 
so với các năm còn lại, sở dĩ như vậy là vì trong năm 2014, 
qua kết quả kiểm toán BCTC năm 2014 thì lợi nhuận sau 
thuế của công ty Cổ phần Tập đoàn Đại Dương (mã chứng 
khoán OGC) có chênh lệch lợi nhuận lên đến 2.956 tỷ (lợi 
nhuận trước kiểm toán lãi 408 tỷ đồng, lợi nhuận sau kiểm 
toán lỗ 2.548 tỷ). Đây cũng là chênh lệch lợi nhuận cao 
nhất của một công ty trong 5 năm nghiên cứu. Như vậy, 
nếu ngoại trừ số liệu sai sót của OGC nói trên thì tổng giá 
trị sai sót lợi nhuận của các công ty này qua các năm ở mức 
từ 1.080 tỷ đồng đến 1.688 tỷ đồng. 
Bảng 6. Quy mô sai sót lợi nhuận, trường hợp các công ty báo 
cáo lợi nhuận cao hơn lợi nhuận kiểm toán (ĐVT: Triệu đồng) 
Chỉ tiêu 2012 2013 2014 2015 2016 
Tổng lợi nhuận 
sai sót 
1.588.388 1.093.777 4.421.334 1.080.013 1.286.006 
Mean của lợi 
nhuận sai sót 
5.174 3.563 18.270 4.091 4.258 
Median của lợi 
nhuận sai lệch 532 417 393 394 623 
Minimum của lợi 
nhuận sai sót 
0 0 0 0 0 
Maximum của lợi 
nhuận sai sót 326.812 155.805 2.956.283 103.452 126.926 
Số lượng công ty 307 307 242 264 302 
Đối với những công ty báo cáo lợi nhuận thấp hơn lợi 
nhuận sau kiểm toán (Bảng 7), quy mô sai sót như sau: năm 
2012 (giá trị lợi nhuận sai sót là 756 tỷ đồng), năm 2013 
(giá trị lợi nhuận sai sót là 1.207 tỷ đồng), năm 2014 (giá 
trị lợi nhuận sai sót là 1.538 tỷ đồng), năm 2015 (giá trị lợi 
nhuận sai sót là 861 tỷ đồng) và năm 2016 (giá trị lợi nhuận 
sai sót là 1.191 tỷ đồng). Như vậy, tổng giá trị sai sót lợi 
nhuận của các công ty này qua các năm ở mức từ 756 tỷ 
đồng đến 1.538 tỷ đồng. 
Xét về giá trị sai sót bình quân cho từng công ty (xem 
các Bảng 6, 7), giá trị sai sót từ năm 2012 đến 2016 biến 
động lớn và không theo xu hướng rõ ràng. Cụ thể, đối với 
những công ty báo cáo lợi nhuận cao hơn lợi nhuận sau 
kiểm toán (Bảng 6), giá trị lợi nhuận sai sót từ năm 2012 
đến 2016 tương ứng là 5,18 tỷ đồng, 3,56 tỷ đồng, 18,27 tỷ 
đồng, 4,09 tỷ đồng và 4,26 tỷ đồng. Như vậy, số liệu năm 
2014 cũng có sự đột biến so với các năm còn lại là do ảnh 
hưởng từ sai sót lợi nhuận của OGC. 
Với những công ty có báo cáo lợi nhuận thấp hơn lợi 
nhuận sau kiểm toán (Bảng 7), các giá trị này lần lượt là 
3,71 tỷ đồng, 7,69 tỷ đồng, 7,97 tỷ đồng, 4,49 tỷ đồng và 
5,96 tỷ đồng. Với sai sót này, giá trị sai sót bình quân cho 
1 công ty năm 2014 là cao nhất (7,97 tỷ đồng). 
Mức sai sót lớn nhất (giá trị maximum) là chỉ số đáng 
quan tâm vì giá trị sai sót quá lớn. Với những công ty có 
báo cáo lợi nhuận cao hơn lợi nhuận sau kiểm toán (Bảng 
6), mức sai sót lớn nhất qua 5 năm lần lượt là 326,81 tỷ 
đồng, 155,81 tỷ đồng, 2.956,28 tỷ đồng, 103,45 tỷ đồng và 
126,93 tỷ đồng. Đối với những công ty có báo cáo lợi 
nhuận thấp hơn lợi nhuận sau kiểm toán (Bảng 7), giá trị 
sai sót lớn nhất cũng rất lớn, lần lượt qua 5 năm là 119,45 
tỷ đồng, 403,95 tỷ đồng, 657.95 tỷ đồng, 101,30 đồng và 
333,65 tỷ đồng. 
Bảng 7. Quy mô sai sót lợi nhuận, trường hợp các công ty báo 
cáo lợi nhuận thấp hơn lợi nhuận kiểm toán (ĐVT: Triệu đồng) 
Chỉ tiêu 2012 2013 2014 2015 2016 
Tổng lợi nhuận 
sai sót 
756.400 1.207.245 1.538.164 861.306 1.191.278 
Mean của lợi 
nhuận sai sót 
3.708 7.689 7.970 4.486 5.956 
Median của lợi 
nhuận sai lệch 
562 583 338 388 396 
Minimum của 
lợi nhuận sai sót 
0 0 0 0 0 
Maximum của 
lợi nhuận sai sót 
119.450 403.948 657.946 101.295 333.648 
Số lượng công ty 204 157 193 192 200 
Bảng 8 trình bày giá trị lợi nhuận sai sót so với giá trị 
vốn hoá thị trường dao động từ 0,16% đến 0,57%, đặc biệt 
tỷ lệ này cao nhất ở năm 2014 (chiếm 0,57% giá trị vốn hoá 
thị trường). Kết quả này cho thấy, tình trạng xấu của thị 
trường có liên quan đến mức độ sai sót BCTC của các công 
ty? Nhận định này tương tự nhận định về mức độ gian lận 
của các công ty khi rơi vào tình trạng khó khăn tài chính 
như đã được đề cập nhiều trong lý thuyết, theo đó khi công 
ty càng khó khăn thì mức độ sai sót càng lớn. 
Bảng 8. Quy mô sai sót lợi nhuận so với giá trị vốn hoá thị trường 
Chỉ tiêu 2012 2013 2014 2015 2016 
Tổng lợi 
nhuận sai sót 
(nghìn tỷ) 
2,344 2,301 5,959 1,941 2,477 
Giá trị vốn 
hóa thị trường 
(nghìn tỷ) 
648,750 850,350 1.038,500 1.243,783 1.500,933 
Tỷ lệ hksai 
sót so với giá 
trị vốn hóa thị 
trường (%) 
0,36% 0,27% 0,57% 0,16% 0,17% 
*Giá trị vốn hoá thị trường (HOSE và HNX) thu thập từ nguồn 
StockPlus. 
Nhìn chung, giá trị lợi nhuận sai sót của các công ty báo 
cáo lợi nhuận có xu hướng tăng (được xem là gian lận) và 
của các công ty báo cáo lợi nhuận giảm (được xem là sai 
sót không cố ý) đều có xu hướng tăng. Những số liệu này 
báo động về mức độ sai sót BCTC cũng như chiều hướng 
sai sót và gợi ý cho các cơ quan quản lý nhiều điều cần suy 
nghĩ để có giải pháp thích hợp nhằm hạn chế sai sót BCTC 
của các công ty niêm yết. 
4. Kết luận 
Tổng kết từ các nội dung phân tích sai sót BCTC của 
các công ty niêm yết tại Việt Nam có thể thấy, tình trạng 
sai sót BCTC là phổ biến cả về số lượng, về chất lượng 
(mức độ sai sót lớn) và về thời gian sai sót. Từ kết quả phân 
tích có thể rút ra một số kết luận sau: 
i) Sai sót BCTC của công ty niêm yết là phổ biến cả về 
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(131).2018 19 
số lượng công ty và về quy mô sai sót; 
ii) Sai sót không có chiều hướng giảm qua 5 năm; 
iii) Ngoài sai sót có dấu hiện gian lận (báo cáo doanh 
thu, lợi nhuận cao, chi phí thấp, giá trị tài sản cao, nợ thấp), 
sai sót theo chiều hướng ngược lại cũng đáng kể ở tất cả 
các khía cạnh. Dạng sai sót này thường được cho là nhầm 
lẫn. Điều này đặt ra vấn đề về trình độ kế toán của các công 
ty niêm yết. 
Phân tích trên chỉ đánh giá hiện tượng, chưa giải thích 
nguyên nhân. Nghiên cứu về sau cần đánh giá nguyên nhân 
của sai sót thông qua phân tích mối liên hệ giữa sai sót 
BCTC và các yếu tố có liên quan đến lập và công bố BCTC, 
đặc biệt là quản trị công ty. Qua đó có giải pháp quản lý tốt 
hơn các yếu tố này nhằm giảm thiểu sai sót BCTC, giúp thị 
trường chứng khoán minh bạch hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Beasley M. S., Carcello J. V., Hermanson D. R., Fraudulent 
Financial Reporting: 1987-1997, An Analysis of Public Companies, 
NY: COSO, New York, 1999. 
[2] Beasley M. S., Carcello J. V., Hermanson D. R., Lapides P. D., 
“Fraudulent Financial Reporting: Consideration of Industry Traits 
and Corporate Governance Mechanisms”, Accounting Horizons, 
14(4), 2000, pp. 441-454. 
[3] Bremser W. G., Licata M. P., Rollins T. P., “SEC Enforcement 
Activities: A Survey and Critical Perspective”, Critical Perspectives 
on Accounting, 2(2), 1991, pp. 185-199. 
[4] COSO, Fraudulent Financial Reporting: 1987-1997, An Analysis of 
U.S. Public Companies, Report of the National Commission on 
Fraudulent Financial Reporting, 1999, pp. 
[5] Nguyễn Công Phương, Ngô Hà Tấn, Trần Đình Khôi Nguyên, Đoàn 
Thị Ngọc Trai, Nguyễn Trọng Hiếu, Thao túng báo cáo tài chính 
của các công ty niêm yết và tác động tới thị trường chứng khoán Việt 
Nam, Đề tài KH&CN cấp Bộ, Mã số B2015-04-15. 2016. 
[6] Nguyễn Công Phương, Nguyễn Trần Nguyên Trân, “Mô hình 
Beneish dự đoán sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính”, Tạp chí 
Kinh tế & Phát triển, 206, 2014, trang 54-60. 
[7] Trần Thị Giang Tân, “Gian lận trên báo cáo tài chính: Thực trạng và 
kiến nghị đối với các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế Phát 
triển, 225, tháng 7, 2009, trang 7. 
(BBT nhận bài: 03/10/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 25/10/2018) 

File đính kèm:

  • pdfsai_sot_bao_cao_tai_chinh_cua_cong_ty_niem_yet_tren_thi_truo.pdf