Rừng và hệ sinh thái văn hóa rừng ở Tây Nguyên
Tóm tắt: Trong tâm thức của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nói đến vùng Đông Bắc, Tây Bắc,
Trường Sơn - Tây Nguyên của Tổ quốc Việt Nam là nói đến các không gian sinh thái văn hóa núi
rừng. Có thể hình dung về một “Không gian sinh tồn”, “Không gian xã hội” của các tộc người vùng
Trường Sơn - Tây Nguyên luôn giàu đậm chất núi rừng. Một số nhà nghiên cứu gọi đó là “Văn hóa
núi rừng”, “Văn hóa Cao nguyên” hay “Văn minh canh tác rẫy”.
Cũng như nhiều dân tộc ít người khác ở các vùng miền của đất nước, tự bao đời người Tây Nguyên
đã “ăn rừng”, sống dựa vào rừng và cư trú tập trung trên vùng Cao Nguyên mà ở đó dường như còn
nhiều miền đất hoang sơ, chưa có dấu chân người. Đồng bào địa phương tin rằng, những cánh rừng
thẳm, núi cao, rừng đầu nguồn là rừng thiêng, nơi ngự trị và là xứ sở của các vị thần linh cần phải
được tôn kính, bảo vệ nghiêm ngặt.
Nhưng, do sự tàn phá của chiến tranh, chính sách khai hoang, phát triển kinh tế mới, cùng tác động
của các luồng di dân,. đã làm biến đổi sâu sắc nhiều không gian rộng lớn của đất và người Tây
Nguyên. Môi trường tự nhiên bị hủy hoại, đời sống văn hóa cũng bị tổn thương vì những mục tiêu,
lợi ích kinh tế nhất thời. Trong bài viết này, chúng tôi cố gắng tập trung phân tích vai trò của rừng
trong việc duy tồn, sáng tạo các giá trị văn hóa truyền thống của Tây Nguyên, đồng thời đề xuất một
số giải pháp nhằm hướng đến mục tiêu phát triển xanh, bền vững cho Tây Nguyên, địa bàn trọng
yếu của đất nước.
Từ khóa: Hệ sinh thái văn hóa rừng, làng rừng, phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Rừng và hệ sinh thái văn hóa rừng ở Tây Nguyên
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 39-52 39 Original Article Forest and Forestry Ecocultural System in Central Highlands, Vietnam Nguyen Van Kim*, Ho Thanh Tam VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam Received 04 June 2019 Revised 23 June 2019; Accepted 23 June 2019 Abstract: In the mindset of ethnic minority communities in Vietnam, Northeastern region, Northwestern regions and Truong Son-Central Highlands refers to a forest-related & cultural ecosystem. Especially, both living space and social space of the ethnic minorities in Truong Son - Central Highlands are deeply forest-related. Researchers often call it "mountainous culture", "highland culture" or "upland culture". Similar to many other ethnic minority groups in the North East and North West, those in Central Highland have long “eaten” the forest, have their livelihood based on forest, and shelter in wild highlands without any previous human footprints. They believe that deep forests, high mountains, and watershed forests are sacred, where gods situate in and therefore needed to be strictly protected. However, wars, reclamation, economic development policies, consequences of migration and other reasons have significantly destroyed the forestry ecocultural system in Central Highlands, Vietnam. Ecological environment has been ruined rapidly while cultural spaces have also been seriously damaged. This article aims to examine roles of the forests in the preservation of traditional cultural values of the Central Highlands, and from which, provide recommendations to ensure green and sustainable development for local communities in the Central Highlands in particular and Vietnam in general. Keywords: Forestry ecocultural system, forestry village, sustainble development for the Central Highlands.* ________ * Corresponding author. E-mail address: nguyenvankimls@yahoo.com https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4179 VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 39-52 40 Rừng và hệ sinh thái văn hóa rừng ở Tây Nguyên Nguyễn Văn Kim*, Hồ Thành Tâm Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 04 tháng 6 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 23 tháng 6 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 23 tháng 6 năm 2019 Tóm tắt: Trong tâm thức của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nói đến vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn - Tây Nguyên của Tổ quốc Việt Nam là nói đến các không gian sinh thái văn hóa núi rừng. Có thể hình dung về một “Không gian sinh tồn”, “Không gian xã hội” của các tộc người vùng Trường Sơn - Tây Nguyên luôn giàu đậm chất núi rừng. Một số nhà nghiên cứu gọi đó là “Văn hóa núi rừng”, “Văn hóa Cao nguyên” hay “Văn minh canh tác rẫy”... Cũng như nhiều dân tộc ít người khác ở các vùng miền của đất nước, tự bao đời người Tây Nguyên đã “ăn rừng”, sống dựa vào rừng và cư trú tập trung trên vùng Cao Nguyên mà ở đó dường như còn nhiều miền đất hoang sơ, chưa có dấu chân người. Đồng bào địa phương tin rằng, những cánh rừng thẳm, núi cao, rừng đầu nguồn là rừng thiêng, nơi ngự trị và là xứ sở của các vị thần linh cần phải được tôn kính, bảo vệ nghiêm ngặt. Nhưng, do sự tàn phá của chiến tranh, chính sách khai hoang, phát triển kinh tế mới, cùng tác động của các luồng di dân,... đã làm biến đổi sâu sắc nhiều không gian rộng lớn của đất và người Tây Nguyên. Môi trường tự nhiên bị hủy hoại, đời sống văn hóa cũng bị tổn thương vì những mục tiêu, lợi ích kinh tế nhất thời. Trong bài viết này, chúng tôi cố gắng tập trung phân tích vai trò của rừng trong việc duy tồn, sáng tạo các giá trị văn hóa truyền thống của Tây Nguyên, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm hướng đến mục tiêu phát triển xanh, bền vững cho Tây Nguyên, địa bàn trọng yếu của đất nước. Từ khóa: Hệ sinh thái văn hóa rừng, làng rừng, phát triển bền vững vùng Tây Nguyên. 1. Hệ sinh thái rừng và không gian văn hóa - xã hội Tây Nguyên Nằm tại trung tâm của Đông Nam Á, là vùng chuyển giao giữa hai thế giới: Biển (Thái Bình ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: nguyenvankimls@yahoo.com https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4179 Dương) và lục địa (bán đảo Đông Nam Á), Việt Nam là địa bàn hợp tụ của nhiều hệ sinh thái: Hệ sinh thái núi cao/hang động - Hệ sinh thái núi trung bình và thấp - Hệ sinh thái đồi gò - Hệ sinh thái châu thổ (đồng bằng) - Hệ sinh thái ven biển N.V. Kim, H.T. Tam / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 39-52 41 - Hệ sinh thái các đảo [1, tr.319-320; 2, tr.66]1. Mỗi hệ sinh thái đều có những đặc trưng riêng, có sự khác biệt so với các hệ sinh thái khác. Tương ứng với mỗi hệ sinh thái, trải qua thời gian, cộng đồng các dân tộc Việt Nam không chỉ thích nghi với môi trường sống mà hơn thế đã sáng tạo nên những không gian văn hóa - xã hội tiêu biểu, vừa đậm đà sắc thái địa phương (vùng, tiểu vùng) vừa hòa hợp, hòa luyện với những đặc tính chung của văn hoá dân tộc. Trong số các hệ sinh thái ở Việt Nam, vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, hay tiểu vùng Nam Trường Sơn, được đặc trưng bởi kiểu địa hình núi và cao nguyên với các thung lũng, đồng bằng giữa núi và kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa Cao Nguyên [3, tr.7, 89]. Do đặc điểm địa hình và khí hậu như vậy, Tây Nguyên là một trong những trung tâm có trữ lượng phong phú các loài thực vật, động vật hoang dã bậc nhất của Đông Nam Á và thế giới [3, tr.211-254]. Sinh tụ trong môi trường đó, cộng đồng các dân tộc vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, trải bao đời đã tạo lập cho mình một lối sống thích ứng với sinh cảnh của tự nhiên. Họ đã dựa vào tự nhiên, khai thác tự nhiên để sinh tồn và cũng chính vì thế luôn bày tỏ sự ngưỡng vọng, biết ơn thế giới tự nhiên. Nói cách khác, chính tự nhiên đã quy định, là chiều tác động chủ yếu trong mối quan hệ tự nhiên - xã hội ở Tây Nguyên. Là những cộng đồng cư dân từng quen sống, hòa nhập với bạt ngàn, bao la của núi rừng, các tộc người Tây Nguyên tìm thấy trong tự nhiên nguồn sinh lực sống, sáng tạo văn hóa và cách thức ứng xử phù hợp với môi trường sống. Vì thế, khi nghiên cứu về rừng, không gian sinh tồn chủ yếu của người Tây Nguyên, cần phải đặt đúng vị trí của nó như là một “Hệ sinh thái rừng” hoàn chỉnh. Theo đó, “Hệ sinh thái rừng” không chỉ bao gồm các loài cây rừng với thảm thực vật tự nhiên (điều mà chúng ta thường ________ 1 Theo cách phân loại hiện nay, nước ta có 6 vùng kinh tế - xã hội gắn với các vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ): 1. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc; 2. Vùng đồng bằng sông Hồng và vùng KTTĐ phía Bắc; 3. Vùng duyên hải miền Trung và vùng KTTĐ miền Trung; 4. Vùng Tây Nguyên; 5. Vùng Đông Nam Bộ và vùng KTTĐ phía Nam; 6. Vùng đồng bằng sông Cửu Long. nghĩ về rừng), mà còn bao gồm tất cả các loài sinh thể sống trong rừng, tức quần xã các loài sinh vật (con người, động vật, thực vật) và sinh cảnh (môi trường sống) của tất cả những thành tố đó. Với người Tây Nguyên, cây rừng và hệ động vật sống trong rừng đều là những thành tố không tách rời khỏi “Hệ sinh thái rừng” và chúng đều có tầm quan trọng như nhau. Có thể hiểu, một khu rừng không có các loài cây tự nhiên và thú rừng (thú hoang) thì không thể là một khu rừng hoàn chỉnh theo đúng nghĩa một hệ sinh thái. Như vậy, tất cả những yếu tố tự nhiên, xã hội và văn hóa của các cộng đồng cư dân sống trong môi trường sinh thái rừng đã dần hợp luyện, tạo nên Hệ sinh thái văn hóa rừng (Forestry ecocultural system). Trong hệ sinh thái đó, con người luôn hòa nhập với thế giới tự nhiên, vượt qua những trở ngại của tự nhiên để thích ứng, sáng tạo, phát triển nguồn lực tri thức, di sản văn hóa vật thể, phi vật thể đồng thời thể hiện những khát vọng, ước mơ truyền nối của nhiều thế hệ từng gắn bó với rừng và sống dựa vào rừng. Rừng vốn là cảnh quan phổ quát, bao trùm trên một không gian rộng lớn ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Trong tâm thức của các cộng đồng cư dân địa phương, từ xa xưa những cánh rừng bạt ngàn đều có chủ. Theo đó, “rừng ấy, toàn bộ, từ ông bà xa xôi nhất truyền lại, từ những thời mờ mịt không còn nhớ được nữa, đã được Yang (Thần linh) giao cho những cộng đồng cư dân rất cụ thể, đó là các làng2. Rừng là sở hữu của các làng, từng làng, và điều này là thiêng liêng, vĩnh cửu” [4, tr.172]. Hiện nay có nhiều phương pháp phân loại tài nguyên khác nhau theo nguồn gốc, tính chất, trữ lượng, chất lượng, khả năng tái tạo. Sự phân loại tài nguyên chỉ có tính chất tương đối vì tính đa dạng của nó, đặc biệt là da dạng trong mục đích 2 Trong tiếng M’nông: Boon tức là làng, tiếng Êđê là Buôn, Gia Rai, Ba Na gọi là Plei, người Cơ Tu gọi là Veil... Trước đây, một số vùng ở Tây Nguyên có khái niệm T’ring dùng để chỉ mối quan hệ liên minh giữa một số làng. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng khái niệm làng hay buôn làng để chỉ chung cho những cộng đồng xã hội sống ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. N.V. Kim, H.T. Tam / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 39-52 42 sử dụng [2]. Theo sự phân lập của một số chuyên gia, rừng ở Tây Nguyên có thể chia thành bốn loại: Thứ nhất, rừng đã biến thành đất thổ cư, nơi người ta dựng buôn làng sống định cư, lâu dài; Thứ hai, rừng được dành để làm rẫy trong khoảng thời gian hai hay ba năm sau đó lại chuyển sang rẫy khác3; Thứ ba, rừng “sinh hoạt” nơi người ta có thể khai thác tài nguyên rừng để phục vụ cuộc sống; Thứ tư, rừng thiêng (hay rừng ma), nơi trú ngụ của thần linh, thường là rừng đầu nguồn, được “thiêng hóa” và được bảo vệ dưới những sắc màu tôn giáo. Có đủ bốn loại rừng ấy thì một buôn làng mới tồn tại được, mới thực sự là buôn làng. Cũng như các làng ở châu thổ sông Hồng, sông Mekong... thường được gọi là: “Làng lúa”, hay các làng nghề thủ công: “Làng gốm”, “Làng dệt”...; các làng ở vùng duyên hải là: “Làng chài”, “Làng biển”, v.v... Trong bối cảnh đó có thể “định vị” các buôn làng ở Tây Nguyên là “Làng rừng”. Làng rừng là hạt nhân, tâm điểm của “Hệ sinh thái văn hóa rừng” ở Tây Nguyên. Nghiên cứu về làng và hệ sinh thái làng qua trường hợp người M’nông Gar, học giả G. Condominas từng nhận định: “Đơn vị chính trị truyền thống tối cao là làng (bboon) tức là nhóm các gia đình tạo thành một khối dân cư trong một khoảng rừng (brii). Chính từ khoảng rừng này mà họ không chỉ lấy ra các nguyên liệu chủ yếu mà họ cần cho ăn mặc, nhà ở, sản xuát công cụ mà cả nguồn thực phẩm bằng việc bắt cá, săn bắn, hái rau rừng và trước hết là bằng trồng trọt” [5, tr.377]. Từ những nghiên cứu lý thuyết và khảo sát thực tế, chúng tôi cho rằng: Làng rừng ở Tây Nguyên là một cộng đồng cư trú truyền thống của những lớp cư dân có chung đặc tính về nguồn gốc tộc người, văn hóa và ngôn ngữ. Làng rừng có nền tảng kinh tế chủ yếu dựa vào rừng, các thành viên trong cộng đồng làng luôn có ý thức chung, sâu sắc về nguồn lợi kinh tế, về ________ 3 Trước đây, ở Tây Nguyên mỗi hộ gia đình thường tự khai phá cho mình 15-20 rẫy, canh tác theo chu trình. Phương thức canh tác đó nhìn chung không làm tổn hại rừng, đủ thời gian để rừng tái sinh trong một chu trình canh tác mới. 4 Tác giả Nguyên Ngọc cũng cho rằng, người Tây Nguyên có 4 loại rừng (rừng đã biến thành nơi cư trú, tức làng; rừng đã biến thành rẫy; rừng sinh hoạt; rừng ma và rừng thiêng). quyền khai thác, sử dụng, duy tồn và bảo vệ tài nguyên rừng, đất rừng, và nguồn nước. Cũng cần nói thêm là, quyền sở hữu với rừng, nguồn tài nguyên rừng, đất rừng và các vùng liên quan không phải thuộc về cá nhân mà luôn thuộc về toàn thể cộng đồng. Trong đó, già làng thường là đại diện chủ sở hữu. Rừng và đất rừng là nền tảng cho mọi sự phát triển của buôn làng Tây Nguyên. Khi nền tảng đó thay đổi thì toàn bộ cấu trúc kinh tế, xã hội và văn hóa của cộng đồng buôn làng cũng sẽ chịu tác động mạnh mẽ và phải thay đổi theo [4, tr.172-173]. Khi nghiên cứu văn hóa Tây Nguyên, một số học giả từng gọi đó là nền “Văn hóa rừng”, “Văn minh thảo mộc” hay “Văn minh nương rẫy”...[6, tr.32; 7, tr.15]. Điều đó phần nào cho thấy mối quan hệ tương hỗ, sự gắn bó mật thiết giữa đời sống của cộng đồng các dân tộc địa phương với môi trường tự nhiên rộng lớn xung quanh. Rừng là một thực thể không - thời gian che phủ, bao quanh toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của cộng đồng buôn làng. Nói như nhà Dân tộc học người Pháp G. Condominas, rừng luôn bao quanh toàn bộ “không gian xã hội” [5, tr.14-23] của người Tây Nguyên. Rừng là một không gian thực xác định (bên cạnh, xung quanh buôn làng), được ghi nhận bởi một hay một số dấu mốc nhất định như dòng suối, đỉnh núi, rặng cây để phân định một “đường biên” giữa rừng của buôn làng này với rừng của buôn làng khác4. Đó là nơi con người khai thác các sản vật phục vụ cho đời sống của mình, là nơi sinh trưởng, cư trú của các động thực vật và trên nhất, cũng là nơi cư ngụ của Yang (tức các vị thần linh trong thế giới tâm linh của người Tây Nguyên). Nhưng, rừng cũng là một không gian ảo, nơi ông bà tổ tiên ngày xưa từng hay lui tới canh tác, nay tuy không còn nữa nhưng vẫn được kể lại cho con cháu qua các bài sử thi (khan, hơ mon) Như vậy, “Không gian và thời gian sinh thái rõ ràng là cơ sở của không Tương ứng với mỗi loại rừng, mối quan hệ giữa Con người với rừng, văn hóa với tự nhiên có những biểu hiện khác nhau, nhưng nhìn chung, Tự nhiên thường thắng thế, có khuynh hướng chiếm hữu trở lại cái văn hóa. Không gian văn hóa - xã hội của người Tây Nguyên cũng chính là không gian của 4 loại rừng này [8]. N.V. Kim, H.T. Tam / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 39-52 43 gian xã hội: Không gian sinh thái cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và bản thân sự tồn tại của nhóm người, thời gian sinh thái thì thúc đẩy đời sống theo nhịp điệu của các mùa” [5, tr.22]. Cả không gian thực và không gian ảo đó đều là những bộ phận của không gian xã hội Tây Nguyên, nơi con người có thể trực tiếp đi đến (không gian tri giác được) hoặc gián tiếp đi đến thông qua các giấc mơ, các buổi tế lễ (không gian huyền thoại)... Rừng cũng còn là một khái niệm về thời gian. Nhiều tộc người Tây Nguyên có thói quen xác định thời gian bằng một biến đổi lớn diễn ra theo vòng luân chuyển của thế giới tự nhiên. Do tập quán luân canh (luân khoảnh không phải du canh), người Tây Nguyên thường cư trú (chòi rẫy), trồng trọt trên một mảnh rừng nào đó trong khoảng thời gian từ 2 đến 3 năm rồi sau đó lại di chuyển địa bàn canh tác đến một cánh rừng khác. Như vậy, địa bàn canh tác có thể thay đổi nhưng trục trung tâm là buôn làng luôn giữ thế ổn định khá cao ở Tây Nguyên. Cứ như vậy, người ta đã “ăn rừng” (theo cách gọi của người Mnông Gar) trong suốt chu trình của một vòng đời và cứ như ... bị tác động nhiều phía nên văn hóa bị suy thoái và phần nào đó đã mất đi ký ức của các cộng đồng dân tộc. Trên thực tế, Tây Nguyên phải đối diện với những khoảng trống về tâm linh, xã hội và văn hóa. Điều đó lý giải vì sao đây chính là địa bàn có mức độ thâm nhập cao nhất trên cả nước bởi đạo Tin Lành và một số hiện tượng tôn giáo mới, tôn giáo lạ. Một khi những giá trị tảng nền bị rung chuyển, văn hóa truyền thống bị suy thoái, tất yếu con người có nhu cầu tìm kiếm sự thay thế, chỗ dựa về tâm linh, văn hóa... Tại nhiều buôn làng, vai trò của các mục sư, linh mục dần nổi lên lấn lướt vai trò của già làng. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nguyên) diện tích bình quân theo đầu người trên thế giới là 75 ha/người, năm 1987 chỉ còn 3.0 ha/người, năm 2010 con số này đã giảm xuống còn 1.88 ha/người [2, tr.27]. N.V. Kim, H.T. Tam / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 39-52 49 “Yang Jesu” dần thay thế các Yang truyền thống trong tâm thức của nhiều nhóm người người Tây Nguyên Văn hóa cổ truyền suy thoái khiến một bộ phận lớp người Tây Nguyên trẻ tuổi, chủ nhân tương lai của đất nước, trở nên thờ ơ, xa lạ với các giá trị truyền thống [24, tr.271-272]. Trong số các nguyên nhân, then chốt vẫn là do tình trạng mất đất, mất rừng ở Tây Nguyên. Nhiều người không còn gắn bó với môi trường sống, hệ sinh thái văn hóa của mình nữa. Một bộ phận trong cấu trúc văn hóa truyền thống Tây Nguyên có khuynh hướng bứt ra khỏi mô thức cổ xưa để hướng đến những khuynh hướng văn hóa mới, cách tân và hội nhập. 3. Một số kiến nghị, giải pháp phát triển bền vững Tây Nguyên Ưu thế nổi bật nhưng đồng thời cũng là căn nguyên của nhiều tranh chấp, xung đột tộc người ở Tây Nguyên chính là tài nguyên đất và rừng. Hạn chế cơ bản của chính sách quản lý tài nguyên đất, rừng ở Tây Nguyên là ở chỗ tầm nhìn và quy hoạch vùng không đồng bộ, cân đối, quá thiên về khai thác tiềm năng kinh tế mà không coi trọng việc duy trì sự cân bằng sinh thái và những hệ lụy về mặt văn hóa, xã hội, đời sống tâm lý do biến đổi môi trường sống tạo nên. Điều cần thiết hiện nay là, cần sớm thay đổi nhận thức về Tây Nguyên một cách căn bản để hướng đến những mục tiêu phát triển toàn diện, bền vững. Phải thực hiện, triển khai đồng bộ các giải pháp đã được xác định tại Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12/1/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và tại “Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016-2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 886/QĐ- TTg ngày 6/6/2017 và “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020” của Chính phủ. Để bảo vệ nguồn tài nguyên rừng Tây Nguyên có thể tập trung vào một số nhóm giải pháp sau đây: ________ 12 Trách nhiệm bảo vệ rừng được giao cụ thể cho bí thư, chủ tịch xã, kiểm lâm. Hiện nay, trung bình một kiểm lâm phải có trách nhiệm quản lý 1.200 ha rừng. Đó là lực lượng quá mỏng nhất là với những địa bàn hiểm trở, rừng nguyên sinh 1. Thực hiện nghiêm túc chủ trương: “Tăng cường bảo vệ và phát triển rừng bền vững, nhất là rừng phòng hộ ven biển, rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học” [25, tr.306]. Trước hết, cần có nhận thức đúng, tổng thể, tầm nhìn lâu dài về các nguồn tài nguyên của đất nước trong đó có tài nguyên rừng đối với chiến lược phát triển xanh, bền vững và sự nghiệp bảo vệ an ninh, an sinh của đất nước. Thứ hai, phải thực hiện quy hoạch, phân loại rừng, củng cố các khu rừng đặc dụng, rừng quốc gia nhằm bảo tồn, phát triển nguồn gen các loài sinh vật quý hiếm. Thứ ba, bảo vệ nghiêm ngặt diện tích rừng tự nhiên còn lại, đồng thời tăng cường các biện pháp đủ mạnh để bảo vệ tài nguyên rừng (kể cả việc tăng cường điều hành, quản lý rừng và xã hội bằng cách phát huy giá trị tích cực của luật tục) [26, tr.104-108], phát triển nguồn lực kinh tế rừng, khẳng định trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan quản lý trong việc bảo vệ đất và rừng Đây chính là nhóm giải pháp trọng yếu, cấp thiết để bảo vệ tài nguyên, hệ sinh thái văn hóa rừng Tây Nguyên12. 2. Thực hiện nghiêm túc lệnh đóng cửa rừng của Chính phủ ngày 1/11/2017, nghiêm cấm và có chế tài nghiêm khắc đối với hành vi xâm phạm tài nguyên rừng (chiếm dụng đất rừng, phá rừng, khai thác gỗ, săn bắn thú rừng...) dưới mọi hình thức. Cần nhận thức rõ ràng rằng, rừng là nguồn sinh kế, môi trường sống chủ yếu của cư dân miền núi nói chung, người Tây Nguyên nói riêng. Khi không còn rừng thì nguồn sống của người Tây Nguyên sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Từ cách tiếp cận vĩ mô, khu vực ta cũng thấy, do chiếm phần đỉnh của “ngã ba Đông Dương” nên việc bảo vệ môi trường sinh thái, rừng nguyên sinh ở Tây Nguyên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Khi rừng ở Tây Nguyên bị hủy hoại thì chắc chắn môi trường sinh thái, nguồn nước và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của toàn bộ cư dân vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và trên một khu vực rộng lớn hơn cũng sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. có nhiều tài nguyên quý. Trách nhiệm giao quản lý rừng giao cho bí thư, chủ tịch xã cũng có nhiều điểm bất cập. Theo chúng tôi, trách nhiệm phải thuộc về người đứng đầu các cấp ủy đảng, chính quyền và các bộ, ngành. N.V. Kim, H.T. Tam / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 39-52 50 3. Tăng nhanh diện tích đất rừng trong đó chú trọng khôi phục những diện tích rừng tự nhiên đã bị khai thác cạn kiệt, phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ che phủ rừng đạt 42%13. Đẩy nhanh tốc độ trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc ở Tây Nguyên; quản lý, kiểm soát chặt chẽ và tạm dừng việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất có rừng tự nhiên sang trồng cây công nghiệp, cây nông nghiệp và các mục đích sử dụng khác. Diện tích đất rừng đã trồng cây công nghiệp phải chuyển nhanh sang thâm canh, chế biến sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm để trở thành những sản phẩm có giá trị kinh tế cao, đặc hữu của Tây Nguyên. Bên cạnh đó cần có giải pháp nâng cao thu nhập cho cư dân địa phương từ những nguồn lợi của rừng, thực hiện tốt chủ trương “làm giàu từ rừng” đồng thời tạo việc làm mới, hướng nghiệp cho người dân đặc biệt là giới trẻ ở Tây Nguyên14. 4. Đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho cộng đồng (hộ gia đình), xác định rõ chủ rừng, người chịu trách nhiệm cụ thể về mỗi diện tích rừng trước hết là những vùng rừng đầu nguồn, rừng gắn với truyền thống văn hóa tâm linh của cộng đồng. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân về tầm quan trọng, lợi ích lâu dài, sâu xa của rừng với môi trường sống và bảo tồn hệ sinh thái, văn hóa. Đặc biệt, với các sách giáo khoa, giáo trình “Địa phương học” tại các tỉnh Tây Nguyên, cần phải tăng cường các nội dung, kiến thức về bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống gắn với việc bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, nguồn nước quý hiếm của Tây Nguyên ________ 13 Để đạt được chỉ tiêu trên, Chính phủ xác định nhiệm vụ (2016-2020): Đảm bảo 15% diện tích hệ sinh thái rừng bị suy thoái được phục hồi và bảo tồn, đặc biệt là hệ thống rừng đặc dụng, phấn đấu đến năm 2020 tăng thêm khoảng 100.000 ha rừng đặc dụng; Tăng cường năng lực thực thi pháp luật, giảm căn bản tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, trong đó diện tích rừng bị thiệt hại và số vụ bị vi phạm giảm 30-35% so với giai đoạn 2011-2015; Trồng rừng: 1.025.000 ha, trong đó có 75.000 ha rừng phòng hộ, đặc dụng, 200.000 ha rừng trồng thâm canh gỗ lớn; Khoanh nuôi, tái sinh rừng: 360.000 ha/năm; Trồng cây phân tán: 250 triệu cây; Chuyển hóa rừng trồng, kinh doanh gỗ nhỏ sang gỗ lớn: 90.000 ha; Tỷ lệ diện tích rừng trồng được kiểm soát chất lượng giống: 75-80%. 14 Tại Hội nghị “Định hướng, giải pháp phát triển nhanh, 5. Trên phương diện văn hóa, nếu coi buôn làng và cả nương rẫy là một bộ phận của rừng, tức thế giới tự nhiên, gắn với tâm thức văn hóa, đời sống tâm linh của các thế hệ cư dân địa phương thì điều rõ ràng là, tự nhiên là cái bao trùm, tảng nền mà từ đó hình thành nên văn hóa. Văn hóa Tây Nguyên luôn gắn với rừng, với môi trường sinh thái, môi trường xã hội mà từ đó các giá trị văn hóa sinh thành. Mặt khác, rừng đã thâm nhập vào mọi thành tố của đời sống văn hóa và là những nhân tố tạo thành các giá trị căn cốt của văn hóa. Như vậy, bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sống và hệ sinh thái là bảo vệ văn hóa Tây Nguyên, giữ thế ổn định và phát triển lâu bền cho một khu vực địa - văn hóa, địa - kinh tế, địa - chiến lược trọng yếu của đất nước. Từ những trình bày, phân tích nêu trên, có thể chia sẻ một nhận thức chung là: Rừng với người Tây Nguyên không chỉ là nguồn tài nguyên, hệ sinh thái tự nhiên mà chính là cội nguồn của đời sống văn hóa, tâm linh. Trong thẳm sâu tâm hồn, ký ức của các cộng đồng dân tộc luôn có một sự gắn bó tự nhiên, tình cảm ruột thịt và lòng tôn kính với thế giới tự nhiên đã nuôi dưỡng, che chở cho họ. Rừng không chỉ là không gian sinh tồn mà còn là “không gian xã hội” mà ở đó con người luôn sống, hoạt động và tác động vào môi trường sống. “Mất rừng, con người và cộng đồng mất đi cái nền rộng lớn, bền chặt, thẳm sâu nhất của mình, trở nên tha hóa, mất gốc, mất cội nguồn. Văn hóa Tây Nguyên là văn hóa rừng, khi không còn rừng thì tất yếu văn hóa rừng sẽ mai một và dần biến mất” [28, tr.4]. bền vững ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu” ngày 8/8/2018 tại thành phố Hồ Chí Minh, Thủ tướng Chính phủ cho rằng: hiện nay xuất khẩu gỗ và các sản phẩm chế biến từ gỗ chiếm 21% tổng giá trị xuất khẩu của ngành nông nghiệp, đạt gần 8 tỷ USD năm 2017. Mức tăng trưởng bình quân của ngành gỗ 18 năm qua đạt trung bình 15% mỗi năm, cao hơn 5 lần so với mức tăng trưởng trong nông nghiệp. Việt Nam hiện có 4.500 doanh nghiệp, 350.000 lao động trong toàn ngành, tạo giá trị bình quân trên 23.000USD/ lao động. Ngành chế biến gỗ, lâm sản của Việt Nam có thể trở thành ngành múi nhọn, đến năm 2020 phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu 12-13 tỷ USD, năm 2025 đạt 18-20 tỷ USD. Muốn vậy, Việt Nam phải tập trung đầu tư vào trồng rừng nguyên liệu gỗ lớn, đổi mới KH&CN trong trồng rừng, chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu [27]. N.V. Kim, H.T. Tam / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 39-52 51 Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên là một chương trình toàn diện, cần phải có những giải pháp đồng bộ cả về kinh tế, văn hóa, xã hội Trong chương trình đó, vấn đề bảo vệ các nguồn tài nguyên tự nhiên, “Hệ sinh thái văn hóa rừng” có vai trò hết sức quan trọng. Việc bảo vệ thành công “Hệ sinh thái văn hóa rừng” chính là nhằm đến mục tiêu đảm bảo cho một Tây Nguyên phát triển trong tương lai vừa thích ứng, hội nhập, vừa lưu giữ được những hồn xưa, nếp cổ của một vùng văn hóa giàu đậm bản sắc và sinh lực sáng tạo. Tài liệu tham khảo [1] Trần Quốc Vượng, Việt Nam: Cái nhìn địa - văn hóa, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998. [2] Trương Quang Học, Việt Nam - Thiên nhiên, Môi trường và Phát triển bền vững, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2012. [3] Nguyễn Văn Chiển, (chủ biên), Tây Nguyên - Các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1985. [4] Lê Văn Khoa, Phạm Quang Tú (Đồng Cb.), Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên, NXB Tri thức, Hà Nội, 2014. [5] Georges Condominas, Không gian xã hội vùng Đông Nam Á, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1997. [6] Ngô Đức Thịnh, Một số đặc trưng văn hóa Tây Nguyên, Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên 1 (2011), 32. [7] Jacques Dournes, Rừng, Đàn bà, Điên loạn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006. [8] Nguoidothi.net, Người Tây Nguyên “làm” văn hóa ra sao?, https://nguoidothi.net.vn/nguyen-ngoc- nguoi-tay-nguyen-lam-van-hoa-nhu-the-nao- 12614.html 2018 (truy cập ngày 27/4/2018). [9] G. Condominas, Chúng tôi ăn rừng, NXB Thế giới, Hà Nội, 2003. [10] Ngô Văn Doanh, Bơ thi - Cái chết được hồi sinh, NXB Thế giới, Hà Nội, 2007. [11] Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2003. [12] Nguyễn Thị Kim Vân, Tín ngưỡng và tôn giáo dân tộc Bahnar, Jrai, NXBVăn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2013. [13] Viện Dân tộc học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía nam), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984. [14] Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Luật tục Êđê (Tập quán pháp), NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2012. [15] Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian, Luật tục M’nông (tập quán pháp), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998. [16] William D. Sunderlin, Huỳnh Thu Ba, Giảm nghèo và Rừng ở Việt Nam, CIFOR xuất bản, 2005. [17] Baodientu.chinhphu, Thủ tướng: Kiên quyết đóng cửa rừng tự nhiên, Kien-quyet-dong-cua-rung-tu-nhien/279302.vgp 2016 (truy cập ngày 20/6/2016). [18] Văn phòng Chính phủ (2017), Thông báo Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về “Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng và giải pháp thực hiện trong thời gian tới, tac-quan-ly-bao-ve-rung/201711/22705.vgp 2016, 2017 (truy cập ngày 20/6/2016 và 1/11/2017). [19] Lưu Hùng, Góp phần tìm hiểu Trường Sơn - Tây Nguyên, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2014. [20] Vương Xuân Tình, Tái lập quản lý cộng đồng về đất đai ở các buôn làng Tây Nguyên, Báo cáo tại Hội thảo Khoa học Luật tục - hương ước và những vấn đề phát triển kinh tế xã hộiở buôn làng các dân tộc Tây Nguyên, Pleiku, 2001. [21] Nguyễn Văn Kim, Ché và tâm thức ché, Tạp chí Văn hóa học 4 (2018) 45-59. [22] Oscar Salemink, The King of Fire and Vietnamese Ethnic Policy in the Central Highlands in Don McCaskill, Ken Kampe (Ed.), Development or Domestication? Indigenous Peoples of Southeast Asia, Silkworm Books, Thailand, 1997, 488-532. [23] Nguyên Ngọc, Phát triển bền vững ở Tây Nguyên trong Nhiều tác giả, Nông dân, nông nghiệp, nông thôn: Những vấn đề đang đặt ra, NXB Tri thức, Hà Nội, 2008. [24] Trương Minh Dục, Quan hệ tộc người ở Tây Nguyên trong thời kỳ Đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016. [25] Đảng Cộng sản Việt Nam, (2016). Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. [26] Phan Đăng Nhật, Ba nguyên tắc căn bản trong việc phát triển bền vững vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, trong: Viện Việt Nam học và KHPT, ĐHQG Hà Nội (2011). Cơ sở khoa học cho Phát triển vùng trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam, Hà Nội, 2001. N.V. Kim, H.T. Tam / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 39-52 52 [27] Dantri, Thủ tướng: Kiên quyết đóng cửa rừng tự nhiên, không phá rừng làm cây cây công nghiệp, https://dantri.com.vn/xa-hoi/thu-tuong-kien-quyet- dong-cua-rung-tu-nhien-khong-pha-rung-lam-cay- cong-nghiep-20180808202734776.htm 2018, (truy cập ngày 8/8/2018). [28] Uông Thái Biểu, Làm gì để bảo vệ văn hóa cổ truyền Tây Nguyên, Báo Nhân Dân 22929 (2018), tr.4.
File đính kèm:
- rung_va_he_sinh_thai_van_hoa_rung_o_tay_nguyen.pdf