Rối loạn ở cơ thể phụ nữ sau cắt tử cung theo MRS và nồng độ estradiol huyết thanh

Mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ estradiol với các rối loạn của cơ thể phụ nữ sau cắt tử

cung. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, 151 phụ nữ sau phẫu thuật cắt tử cung- phần

phụ từ tháng 12/2008 đến tháng 11/2010 tại Bệnh viện Trung ương Huế. Kết quả: Nhóm sau cắt tử cung toàn

phần kèm theo cắt 2 phần phụ có rối loạn mức độ rất nặng: về cơ thể (34,78%); về tinh thần (71,74%); về

tình dục (58,70%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các triệu chứng rối loạn này ở nhóm cắt tử cung toàn

phần kèm cắt 2 phần phụ với nhóm cắt tử cung toàn phần để lại 1 hay 2 phần phụ và nhóm mãn kinh tự nhiên

(p<0,05). kết="" luận:="" nồng="" độ="" estradiol="" huyết="" thanh="" có="" sự="" tương="" quan="" nghịch="" với="" các="" mức="" độ="" rối="" loạn="" về:="">

thể, tinh thần, tình dục và rối loạn chung.

pdf 5 trang phuongnguyen 4040
Bạn đang xem tài liệu "Rối loạn ở cơ thể phụ nữ sau cắt tử cung theo MRS và nồng độ estradiol huyết thanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Rối loạn ở cơ thể phụ nữ sau cắt tử cung theo MRS và nồng độ estradiol huyết thanh

Rối loạn ở cơ thể phụ nữ sau cắt tử cung theo MRS và nồng độ estradiol huyết thanh
41
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 4 - tháng 8/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
RỐI LOẠN Ở CƠ THỂ PHỤ NỮ SAU CẮT TỬ CUNG
THEO MRS VÀ NỒNG ĐỘ ESTRADIOL HUYẾT THANH
 Lê Lam Hương
Trường Đại học Y Dược Huế
Mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ estradiol với các rối loạn của cơ thể phụ nữ sau cắt tử 
cung. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, 151 phụ nữ sau phẫu thuật cắt tử cung- phần 
phụ từ tháng 12/2008 đến tháng 11/2010 tại Bệnh viện Trung ương Huế. Kết quả: Nhóm sau cắt tử cung toàn 
phần kèm theo cắt 2 phần phụ có rối loạn mức độ rất nặng: về cơ thể (34,78%); về tinh thần (71,74%); về 
tình dục (58,70%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các triệu chứng rối loạn này ở nhóm cắt tử cung toàn 
phần kèm cắt 2 phần phụ với nhóm cắt tử cung toàn phần để lại 1 hay 2 phần phụ và nhóm mãn kinh tự nhiên 
(p<0,05). Kết luận: Nồng độ estradiol huyết thanh có sự tương quan nghịch với các mức độ rối loạn về: cơ 
thể, tinh thần, tình dục và rối loạn chung.
Từ khóa: tử cung, nồng độ estradiol
Abstract 
PHYSICAL DISORDERS AFTER HYSTERECTOMY 
DEPEND ON MRS AND SERUM ESTRADIOL LEVELS 
Le Lam Huong
Hue University of Medicine and Pharmacy
Objectives: To study the relationship between serum estradiol and physical disorders after hysterectomy. 
Methods: A descriptive cross sectional study on 151 women after total hysterectomy from 12/2008 to 11/2010 
at Hue Cental Hospial. Results: Serious disorders in total hysterectomy group include: physical disorders (34.78%), 
maternal disorders (71.74%), sexual disorders (58.70%). There were significant differences these disorders between 
total hysterectomy group and hysterectomy with/without accessiory remove group, as well as menopause group. 
Conclusion: Serum estradiol levels was inversely correlated with physical disorders, martenal disorders, sexual 
disorders and other disorders. 
Key words: hysterectomy, serum estradiol
-----
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật cắt tử cung gây ra tác động ảnh 
hưởng lớn đối với cơ thể người phụ nữ. Mãn kinh 
nhân tạo có thể xảy ra sau cắt tử cung - phần phụ. 
Trong một số nghiên cứu, nhận thấy có sự cải thiện 
trong chất lượng cuộc sống sau khi cắt bỏ tử cung, 
do bệnh tật được loại bỏ. Tuy nhiên, sự cải thiện này 
vẫn còn một số hạn chế. Tử cung là một phần của 
cơ thể phụ nữ, sau khi cắt tử cung phụ nữ mất khả 
năng sinh sản, không còn chu kỳ kinh nguyệt có thể 
dẫn đến sự thất vọng buồn chán và trầm cảm. Người 
phụ nữ giảm sự tự tin trong các mối quan hệ[1][2]. 
Bên cạnh một số chị em có tâm lý phấn chấn vì được 
giải phóng mọi lo âu về bệnh tật mà bản thân có 
trước đây thì phần lớn chị em phụ nữ sau phẫu 
thuật cắt tử cung suy nghĩ rằng đây là một can thiệp 
vào cơ quan quan trọng trong cơ thể nên sau phẫu 
thuật cắt tử cung một số chị em phụ nữ mang tâm lý 
không ổn định, hay lo lắng, xấu hổ, mệt mỏi, và cảm 
giác thiếu một bộ phận trong cơ thể [4][6]. 
Sự thay đổi tâm sinh lý, một số biểu hiện sinh lý 
bệnh lý kết hợp với sự suy giảm estrogen có thể xảy 
ra đột ngột ở phụ nữ trẻ sau khi chiếu tia xạ vùng 
bụng, sau khi cắt bỏ tử cung-phần phụ dẫn đến mãn 
kinh phẫu thuật [1]. Mãn kinh là một sự chuyển tiếp 
tự nhiên từ một giai đoạn này sang giai khác trong 
quá trình phát triển của chị em phụ nữ, gồm các giai 
đoạn: tuổi niên thiếu, dậy thì, tuổi hoạt động sinh 
dục, tiền mãn kinh rồi mãn kinh. Ngoài ra, một số 
chị em bị mãn kinh nhân tạo do ảnh hưởng của phẫu 
thuật. Theo thống kê tuổi của dân số thế giới, số phụ 
nữ mãn kinh ngày đang gia tăng bao gồm cả mãn 
kinh tự nhiên và mãn kinh nhân tạo. Thời kỳ mãn 
- Địa chỉ liên hệ: Lê Lam Hương, email: lelamhuong19@yahoo.com
- Ngày nhận bài: 27/7/2016; Ngày đồng ý đăng: 12/9/2016; Ngày xuất bản: 20/9/2016
42
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 4 - tháng 8/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
kinh có thể tác động không tích cực đến đời sống 
của nhiều phụ nữ và những hậu quả của thời kỳ mãn 
kinh là nguyên nhân dẫn đến nhiều bệnh liên quan 
như bệnh tim và loãng xương, các thay đổi tâm sinh 
lý, các bệnh lý trên hệ niệu sinh dục[3][5]. 
Việc phát hiện sớm các rối loạn cơ thể, sự thay 
đổi nồng độ estradiol, mối liên quan giữa nồng độ 
estradiol với các rối loạn trong cơ thể sau phẫu 
thuật cắt tử cung để phòng các rối loạn bằng chế độ 
ăn uống, vận động và can thiệp kịp thời sẽ có hiệu 
quả rất lớn để nâng cao chất lượng sống cho phụ nữ 
sau phẫu thuật cắt tử cung - phần phụ. Vì vậy chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Rối loạn ở cơ thể 
phụ nữ sau cắt tử cung và nồng độ estradiol huyết 
thanh với mục tiêu nhằm: Tìm hiểu mối liên quan 
giữa nồng độ estradiol với các rối loạn của cơ thể 
phụ nữ sau cắt tử cung.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: ở 151 phụ nữ sau 
cắt tử cung toàn phần không cắt kèm theo hai phần 
phụ, kèm theo cắt một phần phụ hoặc kèm theo cắt 
hai phần phụ một năm. Được thực hiện nghiên cứu 
từ tháng 12 năm 2008 đến tháng 11 năm 2010, tại 
Bệnh viện Trung ương Huế.
Tiêu chuẩn chọn bệnh: Chưa mãn kinh khi thực 
hiện phẫu thuật cắt tử cung. Một năm sau cắt tử cung 
vì các bệnh lý lành tính ở cơ quan sinh dục. Đang còn 
sinh hoạt tình dục. Đồng ‎ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Đang dùng liệu pháp 
hormon estrogen thay thế. Mắc những bệnh nội 
khoa mãn tính như: Đái tháo đường, suy tuyến yên, 
tuyến thượng thận, và các bệnh rối loạn nội tiết khác. 
Không còn sinh hoạt tình dục. Không có khả năng 
giao tiếp, bệnh tâm thần.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
2.3. Phương tiện nghiên cứu: Phiếu điều tra, 
bộ câu hỏi của MRS.
2.4. Phương pháp tiến hành: Bệnh sau mổ cắt 
tử cung toàn phần 1 năm tại Bệnh viện Trung Ương 
Huế, hẹn tái khám phỏng vấn theo bộ câu hỏi. Quy 
ước mức độ các triệu chứng: Mức độ nhẹ: Triệu chứng 
không ảnh hưởng hoạt động bình thường. Mức độ 
trung bình: Các triệu chứng ảnh hưởng cơ thể ít. 
Mức độ nặng: Các triệu chứng làm khó chịu, luôn 
phải để tâm đến và muốn tìm cách để làm giảm các 
triệu chứng. Mức độ rất nặng khi cơ thể không thể chịu 
đựng được. Trả lời các câu hỏi của bảng đánh giá 
Menopause Rating Scale (MRS) [7]. Đánh giá theo 
thang điểm từ 0 điểm đến 4. 
Triệu chứng No Rất nhẹ Nhẹ Nặng Rất nặng
1 Bốc hoả, đổ mồ hôi 
Bốc hoả 0 0 0 0 0
Đỗ mồ hôi về đêm
2 Vấn đề về tim mạch
Hồi hộp 0 0 0 0 0
Đánh trống ngực
Đau thắt ngực
3 Rối loạn giấc ngủ
Khó ngủ 0 0 0 0 0
Buốn ngủ ngày
Thức giấc sớm
4 Tâm thần Chán nản, buồn, hay khóc. 0 0 0 0 0
5 Dễ kích thích
Căng thẳng tinh thần 0 0 0 0 0
Hay gây rắc rối
6 Hay lo âu 0 0 0 0 0
7 Kiệt sức Hay mệt 0 0 0 0 0
8 Tình dục Ít ham muốn tình dục 0 0 0 0 0
9 Vấn đề tiết niệu
Tiểu khó, tiểu nhiều lần 0 0 0 0 0
Tiểu không kiểm soát
10 Về âm đạo Khô,nóng,giao hợp đau 0 0 0 0 0
11 Xương khớp Đau khớp 0 0 0 0 0
Tổng điểm MRS: Điểm của 3 lĩnh vực nghiên cứu là tổng số điểm của 11 triệu chứng. 
43
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 4 - tháng 8/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 3. Nồng độ TB Estradiol huyết thanh của các nhóm nghiên cứu
Nhóm
Nồng độ
Nhóm 1
Cắt TC không cắt PP
Nhóm 2
Cắt TC +cắt 1 PP
Nhóm 3
Cắt TC + cắt 2 PP
Estradiol
X±SD
197,83± 8,97
 (pg/ml)
189,98±12,92
 (pg/ml)
17,74±1,72
(pg/ml)
Nồng độ Estradiol ở nhóm cắt tử cung kèm cắt 2 phần phụ là 17,74±1,72 pg/ml, ở nhóm cắt tử cung kèm 
cắt 1 phần phụ là 189,98±12,92 pg/ml
Mức độ
rối loạn
Không, nhẹ 
(Điểm)
Trung bình
(Điểm)
Nặng
(Điểm)
Rất nặng
(Điểm)
Cơ thể (Tổng điểm câu 1.2.3.11) 0-1 2-3 4-6 >7
Tinh thần (Tổng điểm câu 4.5.6.7) 0-2 3-4 5- 7 >8
Tình dục (Tổng điểm câu 8.9.10) 0 1 2-3 >4
Chung (tổng điểm) 0-4 5-8 9-15 >16
2.5. Xử lý số liệu: Số liệu tiến hành nhập vào Microsoft Office Excel 2007. Sử dụng phần mềm Stata 10.0 
để phân tích số liệu.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Mức độ rối loạn cơ thể theo MRS
 Nhóm
Mức độ rối loạn
Nhóm 1
Cắt TC không cắt PP
Nhóm 2
Cắt TC + cắt 1 PP
Nhóm 3
Cắt TC + cắt 2 PP
n % n % n %
Rối 
loạn
cơ 
thể
Không hoặc nhẹ 50 96,15 49 92,45 7 15,22
Trung bình 2 3,85 4 7,55 11 23,91
Nặng 0 0,00 0 0,00 12 26,09
Rất nặng 0 0,00 0 0,00 16 34,78
p <0,05
Rối loạn cơ thể ở mức độ rất nặng ở nhóm 3 là 26,09%, rất nặng là 34,78%.
Rối loạn tinh thần theo MRS ghi nhận được mức độ rất nặng ở nhóm 3 chiếm 71,74%. 
Bảng 2. Mức độ rối loạn tình dục theo MRS
 Nhóm
Mức độ rối loạn
Nhóm 1
Cắt TC không cắt PP
Nhóm 2
Cắt TC + cắt 1 PP
Nhóm 3
Cắt TC + cắt 2 PP
n % n % n %
Rối 
loạn 
tình
dục
Không hoặc nhẹ 7 13,46 7 13,21 16 34,78
Trung bình 4 7,69 5 9,43 0 0,00
Nặng 21 40,39 18 33,96 3 6,52
Rất nặng 20 38,46 23 43,40 27 58,70
p <0,05
Rối loạn tình dục ở mức độ rất nặng ở nhóm 3 là 58,70%; nhóm 1 là 38,46%; nhóm 2 là 43,40 sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 
 Rối loạn chung ghi nhận được ở mức độ rất nặng nhóm 3 tỷ lệ 65,22%. Rối loạn chung có tính khác biệt 
giữa các nhóm (p<0,05). 
44
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 4 - tháng 8/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
 Tương quan giữa nồng độ Estradiol với mức độ rối loạn cơ thể, tinh thần, tình dục, 
và rối loạn chung ở nhóm 3 
Biểu đồ 1. Tương quan giữa nồng độ Estradiol và chỉ 
số rối loạn cơ thể MRS ở nhóm 3
Biểu đồ 2. Tương quan giữa nồng độ Estradiol và chỉ 
số rối loạn tinh thần MRS ở nhóm 3
Biểu đồ 3. Tương quan giữa nồng độ Estradiol với 
mức độ rối loạn tình dục
Biểu đồ 4. Tương quan giữa nồng độ Estradiol với 
mức độ rối loạn chung
4. BÀN LUẬN
Qua nghiên cứu nhận thấy rằng việc để lại 
1 hay 2 phần phụ khi cắt tử cung 1 năm không 
có sự khác biệt về phương diện nội tiết, nồng độ 
Estradiol ở nhóm cắt tử cung kèm cắt 1 phần phụ 
là 189,98±12,92 pg/ml, nhóm cắt tử cung không 
cắt phần phụ là 197,83±8,97 pg/ml, sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê, p>0,05. Kết quả nghiên 
cứu ở nhóm cắt tử cung kèm cắt 2 phần phụ là 
18,08±1,85pg/ml, giảm nhiều gần như ở nhóm mãn 
kinh tự nhiên.
Nồng độ Estradiol tương quan nghịch có ý nghĩa 
thống kê với mức độ rối loạn cơ thể. Tình trạng thiếu 
estradiol sẽ gây ra nhiều thay đổi trong cơ thể. Một 
trong những hậu quả tức thời do thiếu hụt estrogen 
là nóng mặt và chảy mồ hôi. Nóng phừng mặt do sự 
dãn đột ngột các mao mạch ở da, thường ở vùng 
ngực và lan lên mặt, theo một nhiên cứu khác thì 
tần xuất nóng bừng khoảng 33,1%. Tần xuất của 
cơn bốc hoả thay đổi tùy theo cá thể. Sự sản xuất 
và nồng độ estradiol khi mãn kinh là không đủ cho 
xương và các mô niệu sinh dục. Vì vậy loãng xương 
và teo cơ quan niệu sinh dục, rối loạn tiết niệu là 
một trong những hậu quả nặng nề và không mong 
muốn nhất do thiếu estradiol ở lứa tuổi mãn kinh[8]
Qua nghiên cứu cho thấy rối loạn tinh thần ở 
mức độ nặng ở nhóm cắt tử cung cắt 2 phần phụ là 
21,74%. Rối loạn tinh thần mức độ rất nặng ở nhóm 
cắt tử cung cắt 2 phần phụ chiếm tỷ lệ 71,74%. Như 
vậy sau phẫu thuật cắt tử cung mà cắt luôn 2 phần 
phụ thì tỷ lệ rối loạn tinh thần mức độ rất nặng rất 
cao, các biểu hiện căng thẳng, hay lo âu, chán nản 
buồn có lẽ do yếu tố tâm lý kèm theo yếu tố thực thể 
là sự giảm đột ngột estradiol huyết thanh. Các nghiên 
cứu gần đây chỉ ra rằng phụ nữ có nguy cơ trầm 
cảm sau khi cắt tử cung và mức độ lo lắng sau phẫu 
thuật cao. Nghiên cứu này ghi nhận nồng độ Estradiol 
tương quan nghịch có ý nghĩa thống kê với mức độ rối 
loạn tinh thần. Các nghiên cứu khoa học gần đây cho 
rằng, bệnh quên ở người già có liên quan đến lượng 
45
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 4 - tháng 8/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
estrogen trong cơ thể[9][10]. Nghiên cứu nhận thấy 
rối loạn tình dục mức độ rất nặng ở nhóm cắt tử cung 
cắt 2 phần phụ là 58,70% chiếm tỷ lệ cao nhất. Rối 
loạn tình dục giữa nhóm cắt tử cung để lại 2 phần 
phụ hay để lại 1 phần phụ và nhóm cắt tử cung cắt 
2 phần phụ khác biệt có ý ‎‎nghĩa thống kê (p<0,05). 
Nồng độ Estradiol tương quan nghịch với mức độ rối 
loạn tình dục ở nhóm nghiên cứu. Sau phẫu thuật cắt 
tử cung cơ thể gặp phải một số triệu chứng và bệnh lý 
như ở người mãn kinh tự nhiên với các biểu hiện lâm 
sàng như mãn kinh tự nhiên nhưng nặng nề hơn. Các 
nghiên cứu thấy 41,0% có biểu hiện giao hợp đau sau 
cắt tử cung và 55,1% không thay đổi về ham muốn và 
tần suất sinh hoạt tình dục. Giảm estrogen ở phụ nữ 
có thể dẫn đến khô và teo âm đạo[11]
Qua kết quả ở nghiên cứu này cho thấy sau cắt 
tử cung kèm cắt 2 phần phụ thì cơ thể rối loạn mức 
độ nặng và rất nặng cao hơn nhiều so với nhóm mãn 
kinh tự nhiên điều này hoàn toàn hợp lý do cơ thể 
không có quá trình thích nghi dần với hiện tượng 
giảm estrogen, nên các rối loạn như: cơn bốc hỏa, 
buồn ngủ ngày thường xuất hiện sớm và nặng[12]. 
Sau cắt tử cung cơ thể có những thay đổi nhất định, 
tuy nhiên nếu 1 hay 2 phần phụ được giữ lại thì các 
rối loạn sau phẫu thuật ở 2 nhóm như nhau, 100% rối 
loạn ở mức nhẹ hoặc không rối loạn đến trung bình. 
Rối loạn chung của cơ thể có tính khác biệt giữa nhóm 
cắt tử cung để lại 1 hay 2 phần phụ so với nhóm cắt tử 
cung cắt 2 phần phụ (p<0,05). 
Nồng độ Estradiol tương quan nghịch với mức 
độ rối loạn chung ở nhóm nghiên cứu. Sau phẫu 
thuật một số phụ nữ sẽ bước vào giai đoạn mãn kinh 
rồi lão hoá trong khi tuổi đời còn rất trẻ, điều này 
khiến cho những phẫu thuật viên phụ khoa phải suy 
nghĩ khi quyết định cắt tử cung đây là vấn đề cần 
nhiều thảo luận. Nâng cao chất lượng sống cho phụ 
nữ sau phẫu thuật cắt tử cung -phần phụ bằng theo 
dõi phát hiện sớm các các rối loạn trong cơ thể sau 
phẫu thuật cắt tử cung để phòng các rối loạn bằng 
chế độ ăn uống, vận động và can thiệp kịp thời sẽ có 
hiệu quả rất lớn.
5. KẾT LUẬN
Nồng độ Estradiol ở nhóm cắt tử cung kèm cắt 2 
phần phụ là 17,74±1,72 pg/ml, ở nhóm cắt tử cung 
kèm cắt 1 phần phụ là 189,98±12,92 pg/ml. Rối loạn 
cơ thể ở mức độ rất nặng ở nhóm 3 là 26,09%, rất 
nặng 34,78%. Rối loạn tình dục ở mức độ rất nặng ở 
nhóm 3 là 58,70% (p<0,05). Mức độ rối loạn chung 
ở mức độ rất nặng nhóm 3 tỷ lệ 65,22% sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 
Nồng độ Estradiol tương quan nghịch có ý nghĩa 
thống kê với mức độ rối loạn cơ thể với y = -0,248x + 
8,782 r = 0,69. Nồng độ Estradiol tương quan nghịch 
có ý nghĩa thống kê với mức độ rối loạn tinh thần với 
y = -0,206x + 12,37 với r = 0,67 và nồng độ Estradiol 
tương quan nghịch có ý nghĩa thống kê với mức độ 
rối loạn chung. Với y = -0,383x + 25,21 với r = 0. 
----- 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Lình, Cao Ngọc Thành (2007), “Một số vấn đề 
sức khỏe trong thời kỳ mãn kinh”, Sản Phụ Khoa, NXB Y học Hà 
Nội, tr.686-689.
2. Cao Ngọc Thành (2002), “Tuổi mãn kinh và các yếu 
tố liên quan của phụ nữ mãn kinh Thành phố Huế”, Tạp chí 
khoa học Đại học Huế, số 11, tr: 159-164.
3. Bayram GO, Beji NK (2010), Psychosexual adapta-
tion and quality of life after hysterectomy, Sex Disabil, 
28:3-13.
4. Bener A, Rizk D.E, Shaheenf H et al (2000), Mea-
surement-specific quality-of life satisfaction during the 
menopause in an Arabian Gulf country, Climacteric, 3: 
43-49. 
5. Castelo-Branco C, Palacios S, Combalia J et al (2009), 
Risk of hypoactive sexual desire disorder and associated 
factors in a cohort of oophorectomized women, Climac-
teric, 12: 525-532
6. Freedman MA (2002), Quality of life and meno-
pause: The role of estrogen, Journal of women’s health, 
11(8), pp.703-715 
7. Heinemann LA (2007), Menopause Rating Scale 
(MRS) Development of the scale, Development of MRS 
scale review, pp.1-10.
8. Hendrix SL (2005), Bilateral oophorectomy and 
premature menopause, The American Journal of Medicine, 
118 (12B), 131s-135s.
9. Hemmingsson H, Jonsson H (2005), Occupational 
perspective on the concept of participation in the 
international classification of functioning, Disability and 
Health—Some Critical Remarks, The American Journal of 
Occupational Therapy, 59(5), pp.569-576. 
10. Iqbal J, Zaidi M (2009), Understanding estrogen 
action during menopause, Endocrinology, 150(8), 
pp.3443-3445.
11. Nappi RE, Wawra K, Schmitt S et al (2006), 
Hypoactive sexual desire disorder in postmenopausal 
women, Gynecological Endocrinology, 22(6), pp. 318-323.
12. Terauchi M, Obayashi S, Akiyoshi M (2010), 
Insomnia in Japanese peri-and postmenopausal women, 
Climacteric, 13(5), pp.479-486.

File đính kèm:

  • pdfroi_loan_o_co_the_phu_nu_sau_cat_tu_cung_theo_mrs_va_nong_do.pdf