Rối loạn nhịp thất ở bệnh nhân đặt máy tạo nhịp tái đồng bộ tim

Mục đích: Rối loạn nhịp thất là thường gặp và nguy hiểm trên những bệnh nhân suy tim được cấy

máy tạo nhịp tái đồng bộ tim. Chúng tôi cố gắng tìm giải pháp từ các trường hợp lâm sàng thực tế của

chúng tôi.

Phương pháp và kết quả: Chúng tôi nêu 3 trường hợp lâm sàng có rối loạn nhịp thất trong 42 bệnh

nhân được cấy máy tạo nhịp tái đồng bộ tại Viện tim mạch quốc gia Việt nam thời gian từ 1/2008 đến

3/2011. Từng trường hợp lâm sàng cụ thể sẽ được bàn luận và phân tích dựa trên các chứng cứ lâm sàng

từ các nghiên cứu mà chúng ta có được đến nay.

Kết luận: Tìm các giải pháp để hạn chế và ngăn ngừa các rối loạn nhịp này là cần thiết để cải thiện

tiên lượng cho bệnh nhân.

pdf 7 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Rối loạn nhịp thất ở bệnh nhân đặt máy tạo nhịp tái đồng bộ tim", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Rối loạn nhịp thất ở bệnh nhân đặt máy tạo nhịp tái đồng bộ tim

Rối loạn nhịp thất ở bệnh nhân đặt máy tạo nhịp tái đồng bộ tim
Ca lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014284
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, việc điều trị suy 
tim bằng máy tạo nhịp tái đồng bộ tim cho thấy 
có nhiều hiệu quả trong điều trị suy tim và số 
lượng bệnh nhân cấy máy tạo nhịp tái đồng bộ 
tim ngày càng tăng. Các nghiên cứu cho thấy 
ngoài chuyện máy tạo nhịp tái đồng bộ tim làm 
cải thiện triệu chứng và kéo dài cuộc sống cho 
bệnh nhân suy tim [1-15], một số nghiên cứu còn 
cho thấy máy tạo nhịp tái đồng bộ tim làm giảm 
tỷ lệ rối loạn nhịp ở bệnh nhân suy tim [12,16-
19]. Tuy nhiên, do tất cả các bệnh nhân đặt máy 
tạo nhịp tái đồng bộ tim đều có tình trạng suy tim 
nên rối loạn nhịp xuất hiện ở những bệnh nhân 
này là điều không hiếm gặp [20-21]. Làm thế 
nào để giảm và tránh tình trạng rối loạn nhịp thất 
nguy hiểm gây tử vong cho bệnh nhân? Chúng tôi 
nêu một số trường hợp lâm sàng và bàn luận về 
các trường hợp lâm sàng này ở những bệnh nhân 
thực tế được đặt máy tạo nhịp tái đồng bộ tim tại 
Viện Tim mạch quốc gia Việt Nam.
CA LÂM SÀNG SỐ 1 
Bệnh nhân nam 60 tuổi, được chẩn đoán bệnh 
cơ tim giãn 8 năm. Tình trạng trước khi cấy máy 
tạo nhịp tái đồng bộ, bệnh nhân trong tình trạng 
lâm sàng nặng. Bệnh nhân đã nằm điều trị liên tục 
tại Khoa tim mạch Bệnh viện Thanh Nhàn- Hà nội 
và Viện Tim mạch quốc gia Việt nam trong thời 
gian 3 tháng trời, bệnh nhân trong tình trạng suy 
tim nặng với độ NYHA IV, bệnh nhân không có 
khả năng đi bộ và gần như sinh hoạt xung quanh 
giường bệnh. Siêu âm tim được làm tại Viện Tim 
mạch quốc gia Việt nam với đường kính cuối tâm 
thu thất trái (Dd) là 92 mm và phân số tống máu 
thất trái (EF) là 27%, diện tích dòng hở hai lá là 
16,89 cm2. Điện tâm đồ là nhịp xoang, trục trái, 
blốc nhánh trái với QRS = 186 ms. Bệnh nhân được 
điều trị bằng các thuốc Dobutamine truyền tĩnh 
mạch 3 πg/kg/phút, Digoxin tiêm tĩnh mạch 0,25 
mg/ngày, Renitec 5 mg/ngày uống, Furosemide 
80 mg/ngày tiêm tĩnh mạch, Verospirone 50 mg/
ngày uống. Bệnh nhân trong tình trạng phụ thuộc 
Dobutamine vì bỏ Dobutamine, bệnh nhân có 
Rối loạn nhịp thất ở bệnh nhân đặt máy 
tạo nhịp tái đồng bộ tim
Phạm Như Hùng*, Tạ Tiến Phước**
 *Viện Tim mạch Việt Nam
**Bệnh viện Đông Đô
TÓM TẮT
Mục đích: Rối loạn nhịp thất là thường gặp và nguy hiểm trên những bệnh nhân suy tim được cấy 
máy tạo nhịp tái đồng bộ tim. Chúng tôi cố gắng tìm giải pháp từ các trường hợp lâm sàng thực tế của 
chúng tôi.
Phương pháp và kết quả: Chúng tôi nêu 3 trường hợp lâm sàng có rối loạn nhịp thất trong 42 bệnh 
nhân được cấy máy tạo nhịp tái đồng bộ tại Viện tim mạch quốc gia Việt nam thời gian từ 1/2008 đến 
3/2011. Từng trường hợp lâm sàng cụ thể sẽ được bàn luận và phân tích dựa trên các chứng cứ lâm sàng 
từ các nghiên cứu mà chúng ta có được đến nay. 
Kết luận: Tìm các giải pháp để hạn chế và ngăn ngừa các rối loạn nhịp này là cần thiết để cải thiện 
tiên lượng cho bệnh nhân.
Ca lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 285
tính trạng tụt huyết áp và gan to ra. Bệnh nhân đã 
được chỉ định và được cấy máy tạo nhịp tái đồng 
bộ tim vào 18/4/2008 tại Viện Tim mạch quốc gia 
Việt nam. Máy được cấy là máy tạo nhịp CRT-P 
loại Insync II của hãng Medtronic. Tình trạng lâm 
sàng sau khi cấy máy tạo nhịp tái đồng bộ tim, 
bệnh nhân có sự cải thiện rõ triệu chứng lâm sàng. 
Bệnh nhân có thể đi bộ quanh bệnh viện, đã có thể 
bỏ được Dobutamine mà không có tình trạng tụt 
huyết áp và gan không to. Siêu âm tim ngay sau cấy 
máy vẫn không có tình trạng cải thiện Dd và EF, 
nhưng diện tích dòng hở hai lá đã nhỏ lại rõ ràng 
với diện tích được đo là 6,32 cm2. Bệnh nhân đã 
được xuất viện 1 tuần sau khi cấy máy.
Bệnh nhân được sử dụng các thuốc khi xuất 
viện là Dilatrend 6,25 mg/ngày uống, Renitec 
5mg/ngày uống, Furosemide 40 mg/ngày uống, 
Verospirone 50 mg/ngày uống. Bệnh nhân được 
tái khám lại vào tháng thứ 1 và tháng thứ 2 trong 
tình trạng lâm sàng cải thiện rõ với độ NYHA II, 
bệnh nhân đã có thể leo lên gác 5 của nhà mình. 
Siêu âm tim làm lại vào tháng thứ 1 sau cấy máy 
Dd = 89 cm, EF 32 %. Siêu âm tim làm lại tháng 
thứ 2 sau cấy Dd = 85 cm, EF 31%. Vào tháng thứ 
3, bệnh nhân bị đột tử tại nhà.
BÀN LUẬN
Rõ ràng ta thấy trường hợp lâm sàng này bệnh 
nhân đã cải thiện rõ triệu chứng nhưng máy tạo 
nhịp tái đồng bộ đã không làm ngăn ngừa đột tử 
cho bệnh nhân. Khi bệnh nhân đã có cải thiện về 
lâm sàng từ độ NYHA IV thành độ NYHA II, vô 
hình chung chúng ta đã làm tăng nguy cơ đột tử 
ở những bệnh nhân này. Nghiên cứu MERIT-HF 
[22] cho thấy với bệnh nhân suy tim tỷ lệ đột tử 
của bệnh nhân NYHA II cao gần gấp 2 lần 64% 
so với 33% ở nhóm bệnh nhân NYHA IV. Thử 
nghiệm SCD-HeFT [23] cũng cho thấy bệnh 
nhân suy tim có độ NYHA II có nhiều nguy cơ 
đột tử hơn do vậy phải cần máy chống rung tự 
động (ICD) hơn những bệnh nhân có độ NYHA 
IV. Điều này cho thấy việc dùng máy ba buồng có 
kém theo máy chống rung tự động (CRT-D) là chỉ 
định cho những bệnh nhân này. Theo các Hướng 
dẫn của các hiệp hội Mỹ và Châu âu [24,25] cũng 
khuyến cáo sử dụng máy tạo nhịp ba buồng có 
kèm máy phá rung tự động cho những bệnh nhân 
này. Trên thực hành lâm sàng tại Mỹ và Châu âu, 
khi cấy máy tạo nhịp tái đồng bộ cho bệnh nhân 
suy tim theo chỉ định, gần như tất cả bệnh nhân 
đều được sử dụng máy CRT-D. Tuy nhiên, do giá 
thành của máy CRT-D cao gấp 3 lần giá thành của 
máy CRT-P làm ảnh hưởng đến chỉ định sử dụng 
theo đúng chỉ định tại Việt nam. Trên thực tế lâm 
sàng, số bệnh nhân được cấy CRT-D chiếm chưa 
đến 1/3 số bệnh nhân được cấy máy tạo nhịp tái 
đồng bộ của chúng tôi [26].
CA LÂM SÀNG SỐ 2
Bệnh nhân nam 56 tuổi, được chẩn đoán bệnh 
cơ tim giãn 6 năm, vào viện vì khó thở NYHA III. 
Siêu âm tim Dd = 65 cm, EF = 26%. Điện tâm đồ có 
nhịp xoang và blốc nhánh trái với QRS = 162 ms, 
có ngoại tâm thu thất. Bệnh nhân được đeo holter 
thấy có những đoạn tim nhanh thất không bền bỉ. 
Bệnh nhân được khuyến cáo cấy máy CRT-D, tuy 
nhiên do điều kiện kinh tế của bệnh nhân bệnh 
nhân đã được cấy máy CRT-P loại Stratos LV của 
hãng Biotronik vào ngày 10/8/2009. Bệnh nhân 
được xuất viện sau khi cấy máy 1 tuần. Thuốc được 
sử dụng khi bệnh nhân ra viện là Betaloc 50 mg/ 
ngày uống, Zestril 5 mg/ngày uống, Furosemide 
40 mg/ngày uống, Verospirone 25 mg/ngày uống, 
Amiodarone 200 mg/ngày uống. 
Bệnh nhân được hẹn tái khám vào tháng thứ 
1, thứ 2, thứ 3 và tháng thứ 6 sau khi cấy máy. Tình 
trạng lâm sàng của bệnh nhân sau 6 tháng cải thiện 
với độ NYHA II. Siêu âm tim vào tháng thứ 6, Dd 
= 60 cm và EF = 42 %. Bệnh nhân được đeo holter 
cho thấy không có cơn tim nhanh thất không bền 
bỉ, còn một số ngoại tâm thu thất thưa.
BÀN LUẬN
Trên bệnh nhân này, việc chỉ định đúng cho 
bệnh nhân là máy CRT-D. ở nhóm bệnh nhân có 
Ca lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014286
tim nhanh thất không bền bỉ, các nghiên cứu lâm 
sàng AVID, CASH, CIDS [27-29] đều cho thấy 
việc sử dụng máy chống rung tự động có lợi điểm 
hơn hẳn so với nhóm bệnh nhân dùng thuốc chống 
loạn nhịp. Một phân tích gộp cả ba thử nghiệm 
này cho thấy máy chống rung tự động đã làm giảm 
27% tử vong toàn bộ khi so với nhóm bệnh nhân 
dùng amiodarone và giảm 50% tử vong do rối loạn 
nhịp khi so với nhóm amiodarone [30]. Như vậy 
hiển nhiên, chỉ định CRT-D là đúng ở nhóm bệnh 
nhân này. Tuy nhiên, vấn đề kinh phí đã làm hạn 
chế chỉ định dùng loại máy này. 
Việc dùng Amiodarone trên những bệnh 
nhân này cũng cho thấy có hiểu quả trong việc 
ngăn ngừa tử vong do rối loạn nhịp. Nghiên cứu 
EMIAT đã cho thấy amiodarone làm giảm 35% tỷ 
lệ tử vong do rối loạn nhịp [31]. Tương tự là kết 
quả của nghiên cứu CAMIAT đã làm giảm tỷ lệ 
tử vong do rối loạn nhịp lên đến 48% [32]. Dù 
cả hai nghiên cứu kể trên đều không làm giảm tỷ 
lệ tử vong toàn bộ [31-32]. Như vậy, việc dùng 
amiodarone đã làm cho bệnh nhân vượt qua được 
rối loạn nhịp đe dọa tính mạng cho bệnh nhân.
Bệnh nhân đến tháng thứ 6, phân số tống máu 
thất trái (EF) đã cải thiện lên đến 42%. ở đây, xảy 
ra một điều thú vị khi chúng ta nhìn sâu lại vào 
trong các thử nghiệm lâm sàng. Phân tích gộp của 
các thử nghiệm AVID, CASH, CIDS cũng chứng 
minh một kết quả là ở những bệnh nhân có phân 
số tống máu thất trái >35% thì máy chống rung tự 
động và amiodarone không có sự khác biệt trong 
việc ngăn ngừa tử vong toàn bộ [30]. Như vậy, khi 
chức năng tim ở bệnh nhân này vượt trên 35% nhờ 
máy tạo nhịp tái đồng bộ tim thì ta đã đảo ngược 
được tình trạng rối loạn nhịp ở bệnh nhân này. Kết 
quả này cũng được chứng minh trên một số các 
nghiên cứu lâm sàng [16-19]. Như vậy, việc dùng 
máy CRT-P cho những bệnh nhân thuộc nhóm 
này không phải là không có chỉ định và lợi ích. Dù 
rằng, chúng ta cũng phải chấp nhận một nguy cơ 
nhất định như đã xảy ra tại ca lâm sàng số 1. 
CA LÂM SÀNG SỐ 3
Bệnh nhân nam 34 tuổi, được chẩn đoán bệnh 
cơ tim giãn 4 năm, vào viện vì khó thở NYHA III. 
Siêu âm tim Dd 68 cm và EF 23 %. Điện tâm đồ 
là nhịp xoang, blốc nhánh trái với QRS 152 ms. 
Holter điện tâm đồ ghi lại được tim nhanh thất 
không bền bỉ và ngoại tâm thu thất dày. Bệnh nhân 
đã được cấy máy CRT-D loại Insync MAXIMO 
của hãng Medtronic vào 28/10/2009. Bệnh nhân 
được xuất viện sau 1 tuần. Thuốc sử dụng sau khi 
xuất viện là Dilatrend 6,25 mg/ngày uống, Diovan 
80 mg/ngày uống, Furosemide 40 mg/ngày. 
Bệnh nhân được tái khám vào tháng thứ 1 có 
tính trạng lâm sàng cải thiện rõ với độ NYHA II. 
Trong tháng thứ 2 bệnh nhân đã phải nhập viện 
vì có 2 lần bệnh nhân bị đánh sốc. Trên theo dõi 
của máy tạo nhịp cho thấy bệnh nhân bị nhiều 
đoạn cơn tim nhanh thất bền bỉ được phục hồi về 
nhịp xoang bằng chương trình ATP của máy tạo 
nhịp và có đoạn rung thất và máy đã phải đánh sốc 
chuyển nhịp xoang. Bệnh nhân được cho thêm 
Amiodarone 200 mg/ngày uống trong đơn thuốc 
khi ra viện.
Bệnh nhân không phải nhập viện đến tháng 
thứ 6 sau cấy máy. Khi khám lại vào tháng thứ 6, 
bệnh nhân có cải thiện với độ NYHA I. Siêu âm 
tim Dd = 55 cm và EF = 48%. Trên máy chương 
trình ghi lại bệnh nhân vẫn còn rất nhiều đoạn 
tim nhanh thất. Bệnh nhân sau 2 tuần khi kiểm tra 
lại vào tháng thứ 6, đã phải nhập viện trở lại vì có 
nhiều nhát đánh sốc liên tục. Máy chương trình 
cho thấy có nhiều tim nhanh thất. Hình ảnh điện 
tâm đồ cho thấy rối loạn nhịp thất từ đường ra thất 
phải (hình 1). Bệnh nhân đã được tiến hành thăm 
dò điện sinh lý và triệt bỏ tim nhanh thất (hình 2). 
Sau gần 1 năm theo dõi, bệnh nhân không có 
cơn đánh sốc nào, bệnh nhân không phải nhập 
viện và thuốc phải sử dụng hiện nay của bệnh nhân 
là Dilatrend 6,25 mg/ngày uống và Diovan 80 mg/
ngày uống.
Ca lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 287
Hình 1: Hình ảnh điện tâm đồ có tim nhanh thất không bền bỉ với ổ ngoại vị từ đường ra thất phải ở ca lâm 
sàng số 3. ở những phức bộ nhịp xoang, chúng ta thấy được có spike của tạo nhịp 2 buồng thất đứng trước.
Hình 2: Hình ảnh triệt bỏ ổ loạn nhịp bằng sóng radio qua đường ống thông ở ca lâm sàng số 3.
BÀN LUẬN
Máy tạo nhịp tái đồng bộ đi kèm với máy chống rung tự động (CRT-D) đã cứu bệnh nhân này. Tuy nhiên, 
với nhiều nhát sốc điện đã làm cho bệnh nhân lo âu nhiều, thậm trí là khá sợ hãi với nhát sốc của máy. Sự lo 
lắng và trầm cảm ở bệnh nhân đặt máy chống rung tự động cũng được ghi nhận trên các báo cáo lâm sàng 
[33]. Việc triệt bỏ bằng sóng radio qua đường ống thông cho thấy là phương pháp điều trị hiệu quả làm triệt 
bỏ những rối loạn nhịp và giảm sốc điện cho bệnh nhân cũng được ghi nhận trên nhiều các nghiên cứu lâm sàng 
[34-35]. 
KẾT LUẬN
Rối loạn nhịp thất là khá thường gặp và nguy hiểm ở bệnh nhân sau cấy máy tạo nhịp tái đồng bộ tim. Tìm 
các giải pháp để hạn chế và ngăn ngừa các rối loạn nhịp này là cần thiết để cải thiện tiên lượng cho bệnh nhân.
Ca lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014288
TÀi Liệu THAM KHẢO. 
1. Auricchio A, Stellbrink C et al. Pacing Therapies in Congestive Heart Failure (PATH-CHF) Study group. 
Long term clinical effect of hymodynamically optimized cardiac resynchronization therapy in pts with 
heart failure and ventricular conduction delay. J Am Coll Cardiol 2002; 39:2026-2033.
2. Auricchio A, Stellbrink C et al. Pacing Therapies in Congestive Heart Failure II (PATH-CHF) Study 
group. Guiant Heart Failure Reseach Group. Clinical effecacy of cardiac resynchronization therapy using 
left ventricular pacing in heart failure patients stratified by severity of ventricular conduction delay. J Am 
Coll Cardiol 2003; 42:2109-2116.
3. Abraham WT, Fisher WG et al. MIRACLE study group. Multicenter InSync Randomized Clinical 
Evaluation. Cardiac resynchronization in chronic heart failure. N Engl J Med 2002; 346:1845-1853.
4. Abraham WT, Young JB et al. Effects of cardiac resynchronization on disease progression in patients with 
left ventricular systolic dysfunction, an indication for an implantable cardioverter-defibrillator, and mildly 
symptomatic chronic heart failure.. Circulation 2004;110:2864-8
5. Bristow MR, Saxon LA et al. Comparision of Medical Therapy, Pacing and Defibrilation in Heart Failure 
(COMPANION) Investigators. Cardiac resynchronization therapy with and without an implantable 
defibrillator in advanced chronic heart failure. N Engl J Med 2004;350: 2140-2150
6. Cazeau S, Leclercq C et al. Multisite Stimulation in Cardiomyopathies (MUSTIC) study investigators. 
Effects of multisite biventricularpacing in pts with heart failure and intraventricular conduction delay. N 
Engl J Med 2001;344:873-880.
7. Cleland JG, Daubert JC et al. Cardiac Resynchronization- Heart Failure (CARE-HF) study investigators. 
The effect on cardiac resynchronization on morbidity and mortality in heart failure. N Engl J Med 
2003;352;1539-1549.
8. Linde C, Leclerq C et al. Long term benefirs of biventricular pacing in congestive heart failure: Results 
from the MUltisite STimulation in cardiacmyopathy (MUSTIC) study. J Am Coll Cardiol . 2002;40:111-
118.
9. Lozano I, Bocchiardo M et al. VENTAK CHF/CONTAK CD Investigators study group. Impact of 
biventricualr pacing on mortality in a randomized crossover study of pts with heart failure and ventricular 
arrhythmias. PACE 2000; 23:1711-1712.
10. Young JB, Abraham WT et al. Multicenter InSync ICD Randomized Clinical Evaluation (MIRACLE 
ICD) Trial Investigators. Combined cardiac resynchronization and implantable cardioversion defibrilation 
in advanced chronic heart failure: MIRACLE-ICD Trial. JAMA 2003;289:2685-2694
ABSTraCT
Object: Ventricular arrhythmia is common in patients with biventricular pacing. We investigated it 
from case to case in our patients with biventricular pacing.
Method and Results: We show 3 cases with ventricular arrhythmia in 42 patients with cardiac 
resynchronization therapy from 1/2008 to 3/2011 in Vietnam National Heart Institute. From each case 
of them, we can dicuss and analyse on evidence base.
Conclusion: Try to find the solution to prevent ventricular arrhythmia is necessary for improving 
outcome of patients with biventricular pacing. 
Ca lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 289
11. Leclercq C, Walker S, Linde C, Clementy J et al. Comparative effects of permanent biventricular and right-
univentricular pacing in heart failure patients with chronic atrial fibrillation.. Eur Heart J 2002;23:1780-7.
12. Higgins SL, Hummel JD, Niazi IK et al. Cardiac resynchronization therapy for the treatment of heart 
failure in patients with intraventricular conduction delay and malignant ventricular tachyarrhythmias.. J 
Am Coll Cardiol 2003;42:1454-9.
13. Garrigue S, Bordachar P, Reuter S et al. Comparison of permanent left ventricular and biventricular pacing 
in patients with heart failure and chronic atrial fibrillation: prospective haemodynamic study.. Heart 
2002;87:529-34
14. Linde C, Abraham WT, Gold MR et al. Randomized trial of cardiac resynchronization in mildly 
symptomatic heart failure patients and in asymptomatic patients with left ventricular dysfunction and 
previous heart failure symptoms.. J Am Coll Cardiol 2008;52:1834-43.
15. Moss AJ, Hall WJ, Cannom DS et al. Cardiac-Resynchronization Therapy for the Prevention of Heart-
Failure Events. NEJM 2009;361: 1329-1338.
16. Ermis C, Seutter R Zhu A et al. Impact of upgrade to cardiac resynchronization therapy on ventricular 
arrhythmia in pts with implantable cardioverter defibrillators. J Am Coll Cardiol 2005;46:2258-63.
17. Mc Swain R, Schwartz R, Delurgio D et al. The impact of cardiac resynchronization therapy on ventricular 
tachycardia/fibrillation: an analysis from the combined Contack CD and Insync_ICD studies. J Cardiovasc 
Electrophysiol 2005;16:1168-71.
18. Higgins S, Yuong P, Scheck D et al. Biventricular pacing diminishes the need for implantable cardioverter 
defibrillator therapy. J Am Coll Cardiol 2000;36:824-7.
19. Kies P, Bax J , Molhoek S et al. Effect of left ventricular remodeling after cardiac resynchronization therapy 
on frequency of ventricular arrhythmias. Am J Cardiol 2004;94:130-2.
20. DiCori A, Bongiorni M Arena G et al. New onset ventricular tachycardia after cardiac resynchronization 
therapy. J Interv Card Electrophysiol 2005; 12:231-5.
21. Guerra J, Wu J, Meller J et al. Increase in ventricular tachycardia frequency after biventricular impkantable 
cardioverter defibrillator upgrade. J Cardiovasc Electrophysiol 2003;14:1245-7.
22. Hjalmarson A, Goldstein S, Fagerberg B, et al, for the MERIT-HF Study Group. Effects of controlled-
release metoprolol on total mortality, hospitalizations, and well-being in patients with heart failure: the 
Metoprolol CR/XL Randomized Intervention Trial in congestive heart failure (MERIT-HF). JAMA 
2000; 283: 1295-1302.
23. Bardy GH, Lee KL et al. Sudden Cardiac Death in Heart Failure Trial (SCD-HeFT) Investigators. NEJM 
2005; 352: 225-37.
24. Epstein EA, DiMarco JP et al. ACC/AHA/HRS 2008 guidelines for Device-Based therapy of cardiac 
Rhythm Abnormalities.; JACC ; 2008;21:1-62.
25. Dickstein K, Vardas P et al. 2010 ESC guideline on device therapy in heart failure. Eur Heart J 2010; 
31:203-210.
26. Ph¹m Nh Hïng, §ç Kim B¶ng, T¹ TiÕn Ph íc. §iÒu trÞ suy tim nÆng b»ng m¸y t¹o nhÞp t¸i ®ång bé tim. 
Y häc l©m sµng 2010; 64-69.
27. The Antiarrhythmics Vs Implantable Defibrillator (AVID) Investigators. A comparison of antiarrhythmic 
drug therapy with implantable defibrillators in patients resuscitated from near-fatal ventricular arrhythmias. 
N Engl J Med 1997; 337:1576-83.
28. Connolly SJ, Gent M, Roberts RS, et al. Canadian Implantable Defibrillator Study (CIDS): a randomized 
Ca lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014290
trial of the implantable cardioverter defibrillator against amiodarone. Circulation 2000; 101:1297-302.
29. Kuck KH, Cappato R, Siebels J, Rüppel. Randomized comparison of antiarrhythmic drug therapy with 
implantable defibrillators in patients resuscitated from cardiac arrest : the Cardiac Arrest Study Hamburg 
(CASH). Circulation. 2000;102(7):748-54
30. Connolly SJ, Hallstrom AP, Cappato R, Schron EB, Kuck KH, Zipes DP, Greene HL, Boczor S, Domanski 
M, Follman D, Gent M, Roberts RS. Meta-analysis of the implantable cardioverter defibrillator secondary 
prevention trials. AVID, CASH and CIDS studies. Antiarrhythmics vs Implantable Defibrillator study. 
Cardiac Arrest Study Hamburg . Canadian Implantable Defibrillator Study. Eur Heart J. 2000;21(24):2071-
8.
31. Julian DG, Camm AJ, Frangin G, et al. Randomized trial of effect of amiodarone on mortality in patients 
with left ventricular dysfunction after recent myocardial infarction: EMIAT. Lancet 1997; 349:667-74.
32. Cairns JA, Connolly SJ, Roberts R, et al. for the Canadian Myocardial Infarction Arrhythmia Trial 
Investigators. Randomized trial of outcome after myocardial infarction in patients with frequent or 
repetitive ventricular premature depolarizations: CAMIAT. Lancet 1997; 349:675-82.
33. Eleanor B. Schron, Derek V. Exner, Quality of Life in the Antiarrhythmics Versus implantable 
Defibrillators Trial: impact of Therapy and influence of Adverse Symptoms and Defibrillator 
Shocks. Circulation. 2002;105:589-594
34. Maury P, Nault i, Sacher F.202 Late Outcome of Radio-frequency ablation for monomorphic sustained 
Ventricular tachycardia in patients with underlying heart disease without implantation of a defibrillator. 
Archives of Cardiovascular Diseases Supplements 2010; 2: 64-70.
35. Reddy VY, Reynolds MR, Neuzil P, et al. Prophylactic catheter ablation for the prevention of defibrillator 
therapy. N Engl J Med 2007;357:2657-2665.

File đính kèm:

  • pdfroi_loan_nhip_that_o_benh_nhan_dat_may_tao_nhip_tai_dong_bo.pdf