Rối loạn lo âu ở trẻ nhiễm HIV đang điều trị ARV

Trẻ nhiễm HIV thường sống trong hoàn cảnh gia đình đặc biệt, chịu sự xa lánh của xã hội, gây ra những

biến đổi tâm lý của trẻ, dẫn đến trẻ nhiễm HIV có nguy cơ cao mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần. Nghiên cứu

này nhằm khảo sát tình trạng rối loạn lo âu ở trẻ nhiễm HIV đang điều trị ARV. Nghiên cứu mô tả trên 315 trẻ

từ 6 – 16 tuổi được chẩn đoán xác định nhiễm HIV giai đoạn chu sinh, đang được điều trị ARV tại phòng khám

ngoại trú Khoa Truyền nhiễm – Bệnh viện Nhi Trung ương từ 01/10/2015 đến 30/9/2016. Đối tượng nghiên cứu

được sàng lọc các vấn đề sức khỏe tâm thần bằng trắc nghiệm tâm lý và xác định chẩn đoán rối loạn lo âu theo

ICD – 10. Kết quả cho thấy, tỷ lệ có vấn đề sức khỏe tâm thần là 18,41% và rối loạn lo âu là 3,5%, trong đó

phổ biến là rối loạn lo âu chia ly, rối loạn lo âu ám ảnh cưỡng chế, rối loạn lo âu ám sợ đặc hiệu. Như vậy, cần

quan tâm về các vấn đề sức khỏe tâm thần, đặc biệt là rối loạn lo âu ở nhóm trẻ nhiễm HIV đang điều trị ARV.

pdf 7 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Rối loạn lo âu ở trẻ nhiễm HIV đang điều trị ARV", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Rối loạn lo âu ở trẻ nhiễm HIV đang điều trị ARV

Rối loạn lo âu ở trẻ nhiễm HIV đang điều trị ARV
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
230 TCNCYH 131 (7) - 2020
RỐI LOẠN LO ÂU Ở TRẺ NHIỄM HIV ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV
Nguyễn Thị Thanh Mai1, , Đoàn Ngọc Quỳnh2, Nguyễn Thị Phương Mai1
1Trường Đại học Y Hà Nội,
 2Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City
Trẻ nhiễm HIV thường sống trong hoàn cảnh gia đình đặc biệt, chịu sự xa lánh của xã hội, gây ra những 
biến đổi tâm lý của trẻ, dẫn đến trẻ nhiễm HIV có nguy cơ cao mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần. Nghiên cứu 
này nhằm khảo sát tình trạng rối loạn lo âu ở trẻ nhiễm HIV đang điều trị ARV. Nghiên cứu mô tả trên 315 trẻ 
từ 6 – 16 tuổi được chẩn đoán xác định nhiễm HIV giai đoạn chu sinh, đang được điều trị ARV tại phòng khám 
ngoại trú Khoa Truyền nhiễm – Bệnh viện Nhi Trung ương từ 01/10/2015 đến 30/9/2016. Đối tượng nghiên cứu 
được sàng lọc các vấn đề sức khỏe tâm thần bằng trắc nghiệm tâm lý và xác định chẩn đoán rối loạn lo âu theo 
ICD – 10. Kết quả cho thấy, tỷ lệ có vấn đề sức khỏe tâm thần là 18,41% và rối loạn lo âu là 3,5%, trong đó 
phổ biến là rối loạn lo âu chia ly, rối loạn lo âu ám ảnh cưỡng chế, rối loạn lo âu ám sợ đặc hiệu. Như vậy, cần 
quan tâm về các vấn đề sức khỏe tâm thần, đặc biệt là rối loạn lo âu ở nhóm trẻ nhiễm HIV đang điều trị ARV.
Từ khóa: HIV, ARV, sức khỏe tâm thần, rối loạn lo âu, trẻ em
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thanh Mai, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 06/05/2020
Ngày được chấp nhận: 28/07/2020
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại dịch HIV/AIDS đã, đang là mối đe dọa 
toàn nhân loại, ảnh hưởng đến mọi đối tượng. 
Trong đó, trẻ em là đối tượng chịu hậu quả nặng 
nề nhất. Tại Việt Nam, theo báo cáo của Bộ Y tế 
tháng 6/2015, tổng số trẻ em đang được điều trị 
ARV là 4.596 và tỷ lệ lây truyền từ mẹ sang con 
năm 2014 là 3,2%.1 
Nhiễm HIV khiến cho trẻ phải tách mình ra 
khỏi cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, trẻ phải 
nghỉ học đi khám định kỳ, trẻ có những đợt 
nhiễm trùng cơ hội phải nằm viện, chịu đau 
đớn, căng thẳng khi lấy máu làm xét nghiệm, 
khi bị tiêm truyền và khi uống thuốc. Thêm vào 
đó, những trẻ nhiễm HIV thường sống trong 
hoàn cảnh gia đình đặc biệt, chịu sự xa lánh 
của xã hội, gây ra những biến đổi tâm lý của trẻ, 
thường theo xu hướng tiêu cực như thu mình, 
lo lắng, sợ sệt, cáu gắt... Tất cả những vấn đề 
này cho thấy nhiễm HIV không chỉ thuần túy 
gây ra những biến đổi về mặt sinh học, mà còn 
khiến cho trẻ có nguy cơ mắc các vấn đề sức 
khỏe tâm thần. Nghiên cứu của Mellins CA và 
cộng sự trên 47 trẻ từ 9 – 16 tuổi nhiễm HIV 
giai đoạn chu sinh và người chăm sóc, khảo sát 
bằng thang đo tâm lý, cho kết quả 55% trẻ bị rối 
loạn tâm thần, phổ biến là rối loạn lo âu (40%), 
rối loạn tăng động giảm chú ý (21%), rối loạn 
hành vi (13%)2. Đặc biệt ở tuổi vị thành niên 
nhiễm HIV, theo Musisi S và cộng sự (2009) 
khảo sát qua các thang đo tâm lý cũng ghi nhận 
tỷ lệ cao về rối loạn tâm thần (51,2%), trong đó 
các rối loạn cảm xúc là phổ biến như 45,6% có 
rối loạn lo âu, 40,8% có rối loạn trầm cảm và 
17,1% có hành vi tự sát.3 Nghiên cứu 319 trẻ 
nhiễm HIV giai đoạn chu sinh, Gadow KD và 
cộng sự (2010) cũng ghi nhận 2% số trẻ đáp 
ứng đủ tiêu chuẩn chẩn đoán xác định của rối 
loạn lo âu lan tỏa và 1% đáp ứng chẩn đoán rối 
loạn lo âu chia ly.4
Những biến đổi về tâm lý này gây nên các 
tác động không có lợi cho cơ thể, đặc biệt là 
làm giảm chức năng của hệ thống miễn dịch, 
đã được nhiều công trình nghiên cứu trên thế 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
231TCNCYH 131 (7) - 2020
giới xác nhận.5,6,7 Tuy nhiên, lĩnh vực này còn 
chưa được quan tâm nhiều ở Việt Nam, vì vậy 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu 
khảo sát tình trạng rối loạn lo âu ở trẻ nhiễm 
HIV đang điều trị ARV tại Bệnh viện Nhi Trung 
ương.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
315 trẻ em từ 6 – 16 tuổi được chẩn đoán 
xác định nhiễm HIV giai đoạn chu sinh đang 
được theo dõi và điều trị tại phòng khám ngoại 
trú Khoa Truyền nhiễm – Bệnh viện Nhi Trung 
ương từ ngày 01/10/2015 đến 30/09/2016. Tại 
thời điểm nghiên cứu, những trẻ không đồng ý 
tham gia nghiên cứu sẽ được loại khỏi nghiên 
cứu
2. Phương pháp
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp 
tiến cứu, mô tả loạt ca bệnh, lấy mẫu thuận tiện 
bao gồm tất cả các bệnh nhân nhiễm HIV điều 
trị ARV tại phòng khám ngoại trú khoa Truyền 
nhiễm – Bệnh viện Nhi Trung ương trong thời 
gian 12 tháng từ 1/10/2015 - 30/9/2016.
Biến số, chỉ số nghiên cứu: 
Đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm bệnh lý 
HIV ở thời điểm nghiên cứu. Tỷ lệ có vấn đề 
sức khỏe tâm thần, tỷ lệ rối loạn lo âu, các phân 
nhóm rối loạn lo âu. 
Công cụ nghiên cứu: 
Bảng hỏi điểm mạnh và khó khăn ở trẻ em 
(The Strengths and Difficulties Questionnaire 
25, SDQ – 25) do Goodman xây dựng năm 
19978 được sử dụng nhằm sàng lọc các vấn đề 
sức khỏe tâm thần cho trẻ từ 4 – 18 tuổi. Phiên 
bản tiếng Việt dịch bởi Trung tâm Nghiên cứu 
và Đào tạo Phát triển Cộng đồng năm 20059 
bao gồm 25 câu hỏi được chia làm 5 nhóm: các 
triệu chứng cảm xúc, các vấn đề đạo đức, tăng 
động giảm chú ý, các vấn đề quan hệ bạn bè, 
các vấn đề xã hội. Phiên bản dành cho cha mẹ 
hoặc người chăm sóc trẻ được dùng cho trẻ ≤ 
10 tuổi, phiên bản tự đánh giá dùng cho trẻ > 10 
tuổi. Điểm đánh giá được tính bằng cách cộng 
các điểm tương ứng tại các ô mà bệnh nhân 
lựa chọn. Khi tổng điểm ≥ 14 điểm nghi ngờ 
có vấn đề sức khỏe tâm thần. 
Thang đánh giá lo âu ở trẻ em (Spence 
Children’s Anxiety Scale, SCAS), do Susan 
Spence xây dựng năm 1997.10 Thang đã được 
dịch ra tiếng Việt và sử dụng rộng rãi ở Việt 
Nam, bao gồm 44 mục, mỗi mục đánh giá cho 
một vấn đề về lo âu của trẻ em nhưng chỉ có 38 
mục được cho điểm. Mỗi vấn đề được xác định 
bằng các mức độ không bao giờ, thỉnh thoảng, 
thường xuyên, rất thường xuyên tương ứng với 
điểm số từ 0 3 điểm. Thang điểm được thiết 
kế đánh giá cho 6 vấn đề về rối loạn lo âu. Tổng 
điểm thu được sẽ quy đổi sang T – score theo 
bảng T – score và tra bảng T – score tương ứng 
với tuổi và giới để đánh giá các vấn đề về rối 
loạn lo âu. 
Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn lo âu theo ICD 
– 10: tiêu chuẩn chẩn đoán dành cho nghiên 
cứu của WHO năm 199311 bao gồm: rối loạn lo 
âu ám ảnh sợ đặc hiệu (F40), rối loạn lo âu ám 
sợ xã hội (40.1), rối loạn hoảng sợ (F41.0), rối 
loạn lo âu lan tỏa (F41.1), rối loạn ám sợ nghi 
thức (F42), rối loạn lo âu chia ly (F93.0). 
Phương pháp thu thập số liệu: trẻ đáp ứng 
đủ tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân sẽ được 
phỏng vấn thông tin theo bệnh án cấu trúc và 
sàng lọc các vấn đề sức khỏe tâm thần bằng 
thang SDQ – 25. Những trẻ có tổng điểm SDQ 
– 25 ≥ 14 điểm được tiến hành đánh giá lo âu 
bằng SCAS, đồng thời được bác sĩ chuyên 
khoa tâm thần trẻ em khám để xác định chẩn 
đoán rối loạn lo âu theo tiêu chuẩn ICD – 10.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống 
kê SPSS 20.0
4. Đạo đức nghiên cứu
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
232 TCNCYH 131 (7) - 2020
Nghiên cứu được xem xét về y đức trong hội đồng đánh giá đề cương luận văn Thạc sĩ y học 
của Trường Đại học Y Hà Nội và được sự chấp nhận của Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện Nhi Trung 
ương. Trẻ và người chăm sóc được giải thích và tự nguyện tham gia nghiên cứu. Trẻ được khảo sát 
bằng thang đo tâm lý, thiết lập chẩn đoán thông qua phỏng vấn, khám và không có các hoạt động 
can thiệp đến cơ thể. Thông tin thu thập sẽ được giữ bí mật và chỉ cung cấp cho mục tiêu nghiên 
cứu.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm chung n = 315 Tỷ lệ %
Nhóm tuổi
6 - 10 tuổi 163 51,7
11 - 16 tuổi 152 48,3
Tuổi trung bình
 X ± SD (min - max)
10,76 ± 2,62 (6 – 16) tuổi
Giới
Nam 179 56,8
Nữ 136 43,2
Tình trạng gia 
đình
Bình thường 144 45,7
Đặc biệt* 171 54,3
Thời gian bị 
bệnh
< 3 năm 23 7,3
3 – 5 năm 72 22,9
5 – 10 năm 197 62,5
> 10 năm 23 7,3
Thời gian bị bệnh trung bình
X ± SD (min - max)
6,94 ± 2,52 năm
(11 tháng – 14 năm)
Giai đoạn lâm 
sàng hiện tại
I 306 97,1
II 9 2,9
Thời gian điều trị 
(năm)
< 1 năm 13 4,1
1 - 3 năm 27 8,6
3 - 5 năm 77 24,4
5 - 10 năm 187 59,4
> 10 năm 11 3,5
Thời gian điều trị trung bình 5,89 ± 2,49 năm
* Tình trạng gia đình có cha mẹ ly thân/ ly dị, ở tù/ đi trại, mô côi cha/ mẹ/ cả hai
Phần lớn nhóm đối tượng nghiên cứu có thời gian bị HIV từ 5 – 10 năm, 97,1% trẻ mắc bệnh ở 
giai đoạn 1 và hơn 50% số trẻ có thời gian điều trị bằng ARV từ 5 – 10 năm. 54,3% số trẻ sống trong 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
233TCNCYH 131 (7) - 2020
hoàn cảnh gia đình có cha mẹ đang ở trong tù, trai cai nghiện, ly hôn hoặc mồ côi cha/mẹ.
Bảng 2. Các vấn đề SKTT theo thang SDQ – 25 phân bố theo tuổi
6 - 10 tuổi
(người chăm sóc đánh giá)
11 – 16 tuổi
(trẻ tự đánh giá)
Tổng
n % n % n
SDQ < 14 140 54,5 117 45,5 257
SDQ ≥ 14 23 39,7 35 60,4 58
Có khoảng 1/5 số trẻ tham gia nghiên cứu có vấn đề về sức khỏe tâm thần.
2. Khảo sát rối loạn lo âu ở trẻ nhiễm HIV đang điều trị ARV
Biểu đồ 1. Tỷ lệ rối loạn lo âu đánh giá theo SCAS ở trẻ nhiễm HIV điều trị ARV
*RLLA: Rối loạn lo âu
Trong 58 trẻ được khảo sát SCAS có 5 (8,6%) trẻ có rối loạn lo âu và 6 (10,3%) trẻ nghi ngờ có 
rối loạn lo âu
Biểu đồ 2.Tỷ lệ rối loạn lo âu xác định theo ICD – 10 ở trẻ nhiễm HIV điều trị ARV
*RLLA: Rối loạn lo âu
Có 11/ 315 trẻ (3,5%) đáp ứng đủ tiêu chuẩn cho ít nhất một rối loạn lo âu
81,1%
10,3%
8,6%
Không có RLLA
Nghi ngờ RLLA
Có RLLA
96,5%
3,5%
Không RLLA Có RLLA
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
234 TCNCYH 131 (7) - 2020
Bảng 3. Phân loại rối loạn lo âu ở trẻ nhiễm HIV đang điều trị ARV
Các thể rối loạn lo âu
Tần suất
(n = 11)
Tỷ lệ % chung
(n = 315)
RL lo âu chia ly 7 2,2
RL ám ảnh nghi thức 4 1,26
RL lo âu ám ảnh sợ đặc hiệu 3 0,09
RL hoảng sợ 2 0,06
RL lo âu ám ảnh sợ xã hội 2 0,06
RL lo âu lan tỏa 1 0,03
RL hỗn hợp lo âu và trầm cảm 9 2,86
Phối hợp hai thể rối loạn lo âu 4 1,26
Phối hợp ba thể rối loạn lo âu 2 0,06
Thể rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm hay gặp nhất, xuất hiện ở 9/11 trẻ, với tỷ lệ là 2,86 % 
trong tổng số 315 trẻ.
IV. BÀN LUẬN
Bệnh lý mạn tính và đe dọa tính mạng đã 
được nhiều nghiên cứu chứng minh là yếu tố 
liên quan rõ rệt đến các rối loạn cảm xúc ở trẻ 
em như trầm cảm, lo âu. Từ khi thuốc ARV 
được sử dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả rất 
đáng vui mừng cho những người nhiễm HIV. 
Hiện nay nhiễm HIV được cho là Bệnh Truyền 
nhiễm mạn tính có thuốc kiểm soát và đồng thời 
trẻ nhiễm HIV được quan tâm về vấn đề sức 
khỏe tâm thần, chất lượng sống bên cạnh kiểm 
soát về bệnh. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã 
ghi nhận trẻ nhiễm HIV có nguy cơ cao mắc các 
vấn đề sức khỏe tâm thần. Malee KM và cộng 
sự (năm 2011) đánh giá trên 295 trẻ nhiễm HIV 
giai đoạn chu sinh cho thấy tỷ lệ gặp vấn đề 
về sức khỏe tâm thần là 25%.12 Kenneth G và 
cộng sự (năm 2010) tiến hành khảo sát trên 
319 trẻ nhiễm HIV cũng cho kết quả có 17% trẻ 
có các vấn đề về sức khỏe tâm thần.4
Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành trên 
315 trẻ nhiễm HIV ở giai đoạn chu sinh qua 
mẹ, 62,5 % nhiễm HIV từ 5 – 10 năm, đang 
sử dụng ARV với thời gian điều trị trung bình 
là 5,89 ± 2,49 năm. Đặc biệt, 54,3% số trẻ này 
sống trong hoàn cảnh gia đình có cha mẹ đang 
ở trong tù, trai cai nghiện, ly hôn hoặc mồ côi 
cha/mẹ. Sử dụng thang SDQ - 25 sàng lọc phát 
hiện các vấn đề sức khỏe tâm thần, chúng tôi 
nhận thấy có 58 trẻ (chiếm 18,4%) có vấn đề 
về sức khỏe tâm thần. Kết quả của chúng tôi 
một lần nữa khẳng định nhận định về mối nguy 
cơ cao mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần của 
trẻ nhiễm HIV, trong giai đoạn được kiểm soát 
bệnh bằng ARV. Nhận định này cho thấy, bên 
cạnh những nỗ lực kiểm soát bệnh, các nhà 
lâm sàng cần quan tâm đến các vấn đề sức 
khỏe tâm thần, phối hợp với chuyên khoa tâm 
lý, tâm thần để hỗ trợ kịp thời cho trẻ nhiễm HIV 
trong quá trình điều trị.
Trong các vấn đề sức khỏe tâm thần được 
phát hiện ở trẻ nhiễm HIV, rối loạn về cảm xúc 
như rối loạn lo âu, rối loạn trầm cảm gặp phổ 
biến nhất. rối loạn lo âu ở trẻ em thường biểu 
hiện đa dạng, đặc biệt có thể phối hợp đồng thời 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
235TCNCYH 131 (7) - 2020
nhiều dạng rối loạn lo âu cùng một thời điểm 
làm cho trẻ gặp nhiều khó khăn với các chức 
năng học tập, quan hệ xã hội và sinh hoạt. Với 
nhóm trẻ có các bệnh lý mạn tính như hen phế 
quản, lupus ban đỏ hệ thống, tiểu đường, ung 
thưrối loạn lo âu càng làm cho trẻ kém thích 
ứng, suy giảm chất lượng cuộc sống. Nguyễn 
Thị Thanh Mai (năm 2008) nghiên cứu trên trẻ 
bị ung thư đã cho thấy: rối loạn lo âu ám ảnh 
sợ gặp 71,8%, rối loạn chia ly gặp 15,4%.13 Trẻ 
nhiễm HIV, từ khi được kiểm soát bằng ARV, 
đã được chuyển sang nhóm trẻ mắc bệnh lý 
mạn tính và chịu ảnh hưởng tương tự về các 
vấn đề tâm lý, tâm thần, suy giảm chất lượng 
cuộc sống.
 Kết quả của nghiên cứu của chúng tôi ở 
315 trẻ nhiễm HIV giai đoạn chu sinh, sử dụng 
thang điểm SCAS đánh giá lo âu trẻ em cho 58 
trẻ có vấn đề về sức khỏe tâm thần và nhận 
thấy có 5/ 58 bệnh nhân (8,6%) có rối loạn lo 
âu, 6/ 58 trẻ (10,3%) nghi ngờ rối loạn lo âu 
và 47/ 58 bệnh nhân (chiếm 81,1%) không có 
rối loạn lo âu. Đồng thời chúng tôi xác định có 
11/315 trẻ, chiếm 3,5%, đáp ứng đầy đủ với tiêu 
chuẩn chẩn đoán rối loạn lo âu theo ICD – 10. 
Tỷ lệ này tương đương với nghiên cứu của tác 
giả Gadow KD và cộng sự là 3% trẻ nhiễm HIV 
đáp ứng rối loạn lo âu, trong đó 2% là rối loạn lo 
âu lan tỏa và 1% là rối loạn lo âu chia ly.4 Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, rối loạn lo âu chia ly 
là dạng lo âu thường gặp nhất, gặp ở 7/11 trẻ, 
tiếp theo là thể rối loạn ám ảnh nghi thức gặp ở 
4/11 trẻ và lo âu ám sợ đặc hiệu là 3/11 trẻ. Đặc 
biệt, có 9/11 trẻ rối loạn lo âu có phối hợp với rối 
loạn trầm cảm và 6/11 trẻ có đồng thời 2 hoặc 3 
dạng lo âu tại thời điểm nghiên cứu.
Tuy nhiên, nhóm trẻ nhiễm HIV trong nghiên 
cứu của chúng tôi trước đó chưa nhận được 
sự quan tâm, phát hiện và điều trị cho các vấn 
đề sức khỏe tâm thần mà chúng tôi ghi nhận 
được. Điều này cho thấy, từ số liệu kết quả 
nêu trên, cần phải thiết lập thêm bước sàng lọc 
bằng thang đo tâm lý như SDQ – 25 trong quá 
trình khám, điều trị và theo dõi trẻ nhiễm HIV 
nhằm phát hiện các vấn đề sức khỏe tâm thần, 
từ đó phối hợp hỗ trợ và điều trị chuyên khoa. 
V. KẾT LUẬN
Trẻ nhiễm HIV ở giai đoạn chu sinh trong 
quá trình điều trị ARV và theo dõi cần được 
quan tâm sàng lọc về vấn đề sức khỏe tâm 
thần, phát hiện và hỗ trợ kịp thời các rối loạn 
cảm xúc và hành vi, đặc biệt là rối loạn lo âu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tổng cục thống kê. Báo cáo công tác 
phòng, chống HIV/AIDS 6 tháng đầu năm 2015 
và nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2015. 
https://www.gso.gov.vn/
2.Mellins CA, Brackis - Cott E, Dolezal C, et 
al. Psychiatric disorders in youth with perinatally 
acquired human immunodeficiency virus 
infection. Pediatr Infect Dis J. 2006;25(5):432 
- 437
3.Musisi S, Kinyanda E. Emotional and 
behavioural disorders in HIV seropositive 
adolescents in urban Uganda. East Afr Med J. 
2009;86(1):16 - 24
4.Gadow KD, Chernoff M, Williams PL, 
et al. Co - occuring psychiatric symptoms in 
children perinatally infected with HIV and peer 
comparison sample. J Dev Behav Pediatr. 
2010;31(2):116 - 128.
5.Đặng Phương Kiệt. Hướng tiếp cận mới 
trong y học tâm thể: Tâm lý - Thần kinh - Miễn 
dịch học. Thông tin khoa học NT số 3/1995. 
6.Kiecolt – Glaser JK, Glaser R. 
Psychoneuroimmunology: Can psychological 
Interventions modulate Immunity? Journal 
of consulting and Clinical Psychology. 
1992;60(4):569 - 575. 
7.Maier SF, Watkins LR, Fleshner M. 
Psychoneuroimmunology: The interface 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
236 TCNCYH 131 (7) - 2020
between behaviour, brain and immunity. 
American Psychologist. 1994;49(12):1004 - 
1017. 
8.Goodman R, Scott S. Comparing the 
Strengths and Difficulties Questionnaire and 
the Child Behavior Checklist: is small beautiful? 
Journal of abnormal child psychology. 
1999;27(1):17 - 24
9.Goodman R. The Strengths and Difficulties 
Questionnaire: a research note. J Child Psychol 
Psychiatry. 1997;38(5):581 - 586
10.Spence SH. A measure of anxiety 
symptoms among children. Behaviour research 
and therapy. 1998;36:545 - 566. 
11.Tổ chức y tế thế giới. Phân loại bệnh 
quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và 
hành vi. Tiêu chuẩn chẩn đoán dành cho nghiên 
cứu, Bản dịch tiếng Việt. Tổ chức y tế thế giới 
– Geneva;1993. 
12.Malee KM, Tassiopoulos K, Huo Y, et 
al. Mental health functioning among children 
and adolescents with perinatal HIV infection 
and perinatal HIV exposure. AIDS Care. 
2011;23(12):1533 - 1544.
13.Nguyễn Thị Thanh Mai, Trần Viết Nghị, 
Nguyễn Công Khanh. Đặc điểm rối loạn trầm 
cảm và lo âu ở trẻ mới chẩn đoán điều trị ung 
thư. Tạp chí Nhi khoa. 2008;1(1):39 - 45. 
Summary
ANXIETY DISORDERS IN CHILDREN WITH HIV TREATED BY ARV
This study aims to investigate anxiety disorders in children with HIV treated by ARV. This is 
a cross-sectional study of 315 children aged 6 - 16 years old diagnosed with confirmed HIV 
infection from the perinatal period, currently being monitored and receiving antiretroviral treatment 
in outpatient clinics infectious department – National Children’s Hospital from 10/01/2015 to 
09/30/2016. The study subjects were screened for mental health by psychological tests and 
were diagnosed with anxiety disorders by ICD - 10. The results showed that 18.41% of children 
exhibit mental health conditions, 3.5% have anxiety disorder. The most common are separation 
anxiety disorder, obsessive compulsive disorder, and phobia disorder. As such, it is necessary to 
pay attention to mental health, especially anxiety disorders in children with HIV treated by ARV.
Keywords: HIV, ARV, mental health, anxiety disorders, children 

File đính kèm:

  • pdfroi_loan_lo_au_o_tre_nhiem_hiv_dang_dieu_tri_arv.pdf