Quyết định sàng lọc tự kỷ cho con ở bà mẹ và một số yếu tố liên quan năm 2019

Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện nhằm mô tả quyết định về việc sàng lọc tự kỷ cho con và một số yếu

tố liên quan của 389 bà mẹ có con dưới 3 tuổi đưa con đến khám tại 2 cơ sở tiêm chủng của Trường Đại học

Y Hà Nội từ tháng 1 đến tháng 7/2019. Kết quả cho thấy tỷ lệ bà me quyết định sàng lọc tự kỷ (ASD) ở trẻ là

44,47%. Mô hình hồi quy logistic cho thấy tỷ lệ đưa ra quyết định sàng lọc tự kỷ cho trẻ còn thấp có liên quan

đến các yếu tố năng lực sức khỏe của bà mẹ, tuổi của trẻ và khám sức khỏe định kỳ cho trẻ. Tất cả các mối liên

quan này đều mang ý nghĩa thống kê (giá trị p < 0,05).="" do="" đó,="" công="" tác="" truyền="" thông="" nâng="" cao="" kiến="" thức="">

các bà mẹ về việc sàng lọc cho trẻ cần chú ý đến những đặc điểm này để có chiến lược truyền thông phù hợp.

pdf 8 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Quyết định sàng lọc tự kỷ cho con ở bà mẹ và một số yếu tố liên quan năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quyết định sàng lọc tự kỷ cho con ở bà mẹ và một số yếu tố liên quan năm 2019

Quyết định sàng lọc tự kỷ cho con ở bà mẹ và một số yếu tố liên quan năm 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 247
QUYẾT ĐỊNH SÀNG LỌC TỰ KỶ CHO CON Ở BÀ MẸ VÀ MỘT 
SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN NĂM 2019
Trình Thị Mai Lê¹, Phạm Hải Thanh¹, Nguyễn Thị Hương Thảo¹, Đỗ Thị Thanh Toàn²
Đinh Thái Sơn², Lưu Ngọc Hoạt², Nguyễn Thị Thu Hường², Phạm Thị Hồng Hạnh¹
Dương Thị Trang¹, Trần Thị Thùy Linh¹, Nguyễn Thị Thu Hoài¹, Lê Thị Hoài Anh¹ 
Bùi Mai Thi¹ và Lưu Ngọc Minh², 
1Sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội
²Bộ môn Thống kê Tin học Y học - Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện nhằm mô tả quyết định về việc sàng lọc tự kỷ cho con và một số yếu 
tố liên quan của 389 bà mẹ có con dưới 3 tuổi đưa con đến khám tại 2 cơ sở tiêm chủng của Trường Đại học 
Y Hà Nội từ tháng 1 đến tháng 7/2019. Kết quả cho thấy tỷ lệ bà me quyết định sàng lọc tự kỷ (ASD) ở trẻ là 
44,47%. Mô hình hồi quy logistic cho thấy tỷ lệ đưa ra quyết định sàng lọc tự kỷ cho trẻ còn thấp có liên quan 
đến các yếu tố năng lực sức khỏe của bà mẹ, tuổi của trẻ và khám sức khỏe định kỳ cho trẻ. Tất cả các mối liên 
quan này đều mang ý nghĩa thống kê (giá trị p < 0,05). Do đó, công tác truyền thông nâng cao kiến thức cho 
các bà mẹ về việc sàng lọc cho trẻ cần chú ý đến những đặc điểm này để có chiến lược truyền thông phù hợp. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Tự kỷ, quyết định, khám sàng lọc, bà mẹ, Việt Nam
Năng lực sức khỏe (health literacy) là khả 
năng tiếp cận, hiểu, kiểm định và áp dụng thông 
tin sức khỏe để có thể phán xét và ra quyết định 
của cá nhân liên quan đến chăm sóc sức khỏe, 
phòng chống bệnh tật và nâng cao sức khỏe 
trong cuộc sống hằng ngày nhằm duy trì và cải 
thiện chất lượng cuộc sống.¹ Do đó, năng lực 
sức khỏe thể hiện mối liên quan giữa các tổ 
chức chăm sóc sức khỏe, bệnh viện và bệnh 
nhân trong việc đưa ra các quyết định về vấn 
đề sức khỏe. Trên thế giới, các nghiên cứu đã 
chỉ ra các bà mẹ có con dưới 3 tuổi với năng 
lực sức khỏe cao thì có khả năng tốt trong việc 
tăng cường sức khỏe và phòng bệnh cho con.2 
Những bà mẹ có năng lực sức khỏe thấp thì 
có ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ, hành 
vi dẫn đến những hậu quả xấu về khả năng 
phòng bệnh, điều trị bệnh cấp tính và mạn tính 
cho con họ.³ Tự kỷ (ASD) đang là một vấn đề 
y tế công cộng mới và có tỷ lệ tăng dần trên 
toàn cầu. Theo Hiệp hội nghiên cứu quốc tế về 
tự kỷ năm 2018, cứ 160 trẻ thì đã có 1 trẻ bị 
tự kỷ.⁴ Biểu hiện của trẻ biểu hiện rõ trong 5 
năm đầu đời.⁵ Nhiều bằng chứng chỉ ra rằng 
can thiệp kịp thời cho trẻ tự kỷ trước 3 tuổi đạt 
hiệu quả và giảm chi phí.5,6 Đa số những bà mẹ 
là người đầu tiên phát hiện ra những dấu hiệu 
bất thường của trẻ. Ở những nước thu nhập 
thấp và trung bình, các bằng chứng đã chỉ ra 
năng lực sức khỏe của người mẹ ảnh hưởng 
đến sàng lọc tự kỷ.7,8,9 Can thiệp điều trị trẻ tự 
kỷ thông qua nâng cao năng lực sức khỏa của 
bà mẹ là một giải pháp tối ưu bền vững.⁸ Ở 
Tác giả liên hệ: Ngô Trí Tuấn, Bộ môn Tổ chức và 
Quản lý Y tế - Viện Đào tạo YHDP & YTCC - Trường 
Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 15/12/2019
Ngày được chấp nhận: 20/02/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020248
Việt Nam, hệ thống y tế chưa phát triển và dịch 
vụ thăm khám định kỳ chưa được chú trọng 
nên trẻ tự kỷ chưa được can thiệp kịp thời.10 
Theo một nghiên cứu ở tỉnh Thái Bình chỉ ra có 
13,6% bố mẹ có con dưới 3 tuổi thực hành phát 
hiện sớm khuyết tật cho con.⁹ Nguyên nhân là 
do kiến thức của phụ huynh về tâm sinh lý của 
trẻ còn kém và chưa được tiếp cận nhiều thông 
tin về phát hiện khuyết tật sớm. Tính đến nay 
chưa có một nghiên cứu nào về năng lực sức 
khỏe của bà mẹ có con dưới 3 tuổi về sàng lọc 
trẻ tự kỷ. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này 
với mục tiêu xác định một số yếu tố ảnh hưởng 
tới việc quyết định sàng lọc tự kỷ cho con của 
các bà mẹ có con dưới 3 tuổi năm 2019, làm cơ 
sở cho việc xây dựng tài liệu và chương trình 
truyền thông phù hợp.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là các bà mẹ có con 
từ 0 - 36 tháng tuổi và đưa con đến tiêm chủng 
tại phòng tiêm chủng Đại học Y Hà Nội. Các đối 
tượng được chọn đồng ý tự nguyện tham gia 
nghiên cứu và chỉ phỏng vấn một lần.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang thu thập số liệu thông qua phỏng vấn trực 
tiếp bằng bộ câu hỏi điện tử.
Địa điểm nghiên cứu: thực hiện tại phòng tiêm 
chủng Đại học Y Hà Nội (cơ sở 1: số 1, Tôn Thất 
Tùng, Trung Tự, Đống Đa, Hà Nội; cơ sở 2: 35 Lê 
Văn Thiêm, Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội) từ 
tháng 1 đến tháng 7/ 2019. 
Cỡ mẫu và chọn mẫu: Nghiên cứu có sự tham 
gia của 389 bà mẹ có con từ 0 - 36 tháng tuổi. 
Các đối tượng được chọn thuận tiện.
Các biến số về nhân khẩu học của bà mẹ: Năm 
sinh, giới tính (nam/nữ), dân tộc (kinh/khác), tôn 
giáo (không tôn giáo/phật giáo/công giáo/khác), 
trình độ học vấn (chưa tốt nghiệp trung học phổ 
thông/tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc tương 
đương/ cao đẳng, đại học/ sau đại học), nghề 
nghiệp (nhân viên văn phòng/khác), chức vụ hiện 
tại (lãnh đạo/nhân viên/khác), địa chỉ (nông thôn/
thị trấn, thị xã/thành phố), thành viên gia đình mắc 
bệnh mạn tính (có/không), thành viên gia đình 
mắc bệnh tâm lý (có/không), tham gia câu lạc bộ, 
hội nhóm, mạng xã hội (có/không), mức độ truy 
cập internet 1 tuần (liên tục, thường xuyên, thỉnh 
thoảng, hiếm khi, không bao giờ).
Các biến số về đặc điểm của trẻ: Ngày tháng 
năm sinh (theo dương lịch), giới tính (nam/nữ), trẻ 
con thứ mấy, trẻ đã từng mắc bệnh (có/không), 
phát triển tâm thần vận động bất thường (có/
không), trẻ đi khám mấy tháng/lần. Để đo lường 
năng lực sức khỏe, chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi 
Năng lực sức khỏe Châu Á (HLS-EU-Q47) đã 
được chuẩn hóa phù hợp với tình hình văn hóa 
xã hội Việt Nau. Câu hỏi về quyết định sàng lọc 
tự kỷ cho con của đối tượng: anh/chị có đồng ý 
tham gia sàng lọc tự kỷ cho con không (có/không)
Mô hình BMA được sử dụng để xác định mô 
hình tối ưu để được đưa vào mô hình logistics. 
Mô hình BMA xác định các biến có liên quan độc 
lập đến biến phụ thuộc được: Biến phụ thuộc là 
quyết định sàng lọc tự kỷ cho trẻ của bà mẹ có 
con dưới 3 tuổi. Biến độc lập là những đặc điểm 
của mẹ, những đặc điểm của trẻ và năng lực sức 
khỏe của bà mẹ. Các mô hình tối ưu sẽ được 
chọn để đưa vào hồi quy logistic để tìm ra các yếu 
tố ảnh hưởng đến quyết định sàng lọc tự kỷ cho 
trẻ của bà mẹ dưới 3 tuổi.
3. Xử lý số liệu
Số liệu nghiên cứu được kiểm tra hàng ngày 
trên hệ thống trang chủ của phần mềm Kobo 
toolbox. Do vậy, các phiếu không đạt tiêu chuẩn có 
thể bị loại ngay trong ngày. Sau đó, số liệu được 
trích xuất trực tiếp từ phần mềm Kobo toolbox ra 
Excel và được xử lý bằng phần mềm R.
4. Đạo đức nghiên cứu
Các đối tượng tình nguyện tham gia nghiên 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 249
cứu. Thông tin của các đối tượng được giữ bí 
mật và chỉ cũng cấp cho mục đích nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Tổng số 389 bà mẹ có con dưới 3 tuổi tham 
gia nghiên cứu, có 58,4% bà mẹ dưới 30 tuổi. 
Bà mẹ chủ yếu là dân tộc Kinh chiếm 97,2% và 
đang chung sống với chồng (99,2%). Trình độ 
học vấn cao đẳng/đại học/sau đại học chiếm 
tỷ lệ cao (84,1%) và có 92,3% giữ chức vụ 
nhân viên (92,3%) trong đó 46,8% nhân viên 
văn phòng. Đa số bà mẹ sống ở nông thôn 
(82,5%). Các bà mẹ tham gia các hoạt động 
nhóm, câu lạc bộ, mạng xã hội chiếm 50,8%. 
Gần 2/3 người tham gia nghiên cứu không 
thường xuyên sử dụng internet để tra cứu về 
các vấn đề sức khỏe của con (60,1%). Bà mẹ 
được phỏng vấn có con dưới 3 tuổi quyết định 
sàng lọc sớm tự kỷ cho con chiếm 44,5%.
Bảng 1. Thực trạng năng lực sức khỏe của các bà mẹ có con dưới 3 tuổi.
Năng lực sức khỏe
Sàng lọc tự kỷ
p-valueKhông Có
216 (55,5%) 173 (44,5%)
Chăm sóc sức khỏe
Tìm kiếm thông tin 11,85 (± 1,52) 11,55 (± 1,87) 0,167
Hiểu thông tin 12,09 (± 1,49) 11,99 (± 1,86) 0,317
Kiểm định thông tin 10,9 (± 1,73) 10,68 (± 1,95) 0,138
Áp dụng thông tin 12,43 (± 1,56) 12,54 (± 1,78) 0,514
Tổng cộng 32,57 (± 4,93) 32,04 (± 6,02) 0,246
Phòng chống bệnh tật
Tìm kiếm thông tin 12,03 (± 1,71) 12,02 (± 1,80) 0,680
Hiểu thông tin 9,46 (± 1,37) 9,72 (± 1,50) 0,568
Kiểm định thông tin 14,81 (± 2,01) 14,68 (± 2,22) 0,680
Áp dụng thông tin 9,16 (± 1,31) 9,01 (± 1,41) 0,036
Tổng cộng 9,16 (± 1,31) 33,80 (± 6,09) 0,442
Nâng cao sức khỏe
Tìm kiếm thông tin 11,8 (± 1,62) 11,7 (± 1,78) 0,589
Hiểu thông tin 11,81 (± 1,65) 11,82 (± 1,74) 0,581
Kiểm định thông tin 11,8 (± 1,72) 11,64 (± 1,49) 0,259
Áp dụng thông tin 11,5 (± 1,6) 11,72 (± 1,72) 0,265
Tổng cộng 32,2 (± 5,55) 32,16 (± 5,6) 0,997
Con của đối tượng tham gia phỏng vấn chủ yếu ở giai đoạn sơ sinh (< 12 tháng) (85,8%). Số bà 
mẹ trong nghiên cứu có con đầu lòng chiếm (57,5%). Đa số trẻ em của các bà mẹ trong nghiên cứu 
chưa từng mắc bệnh (82,3%) và không có dấu hiệu bất thường về tâm thần vận động (98,5%). Bà 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020250
mẹ đều cho trẻ khám định kỳ dưới hoặc bằng 6 tháng 1 lần chiếm tỷ lệ cao (96,89%). Tỷ lệ giữa trẻ 
nam và trẻ nữ là tương đương nhau, lần lượt là 49,9% và 50,1%.
Điểm trung bình năng lực sức khỏe về khả năng ứng dụng các thông tin vào phòng bệnh của những 
bà mẹ quyết định sàng lọc cao hơn của những bà mẹ không quyết định sàng lọc (p-value < 0,05).
2. Các yếu tố ảnh hưởng
Biểu đồ 1. Mô hình BMA: các biến tiềm năng có tác động đến quyết định sàng lọc tự kỷ 
cho trẻ của bà mẹ có con dưới 3 tuổi
Theo kết quả từ biểu đồ 1, cho thấy theo mô hình BMA thì mô hình 5 là mô hình tối ưu có chứa 
biến tiềm năng ảnh hưởng đến quyết định sàng lọc tự kỷ cho trẻ của bà mẹ có con dưới 3 tuổi. Các 
biến tiềm năng bao gồm: tuổi của trẻ, thời gian đi khám định kỳ, có khả năng hiểu các thông tin phòng 
bệnh, có khả năng truy cập thông tin chăm sóc sức khỏe, có khả năng áp dụng thông tin nâng cao 
sức khỏe và có khả năng kiểm định nâng cao sức khỏe.
Bảng 2. Những yếu tố liên quan đến quyết định sàng lọc tự kỷ cho trẻ của bà mẹc có con 
dưới 3 tuổi.
Yếu tố nguy cơ
Sàng lọc tự kỷ
OR (95% CI)Không Có
216 (55,5%) 173 (44,5%)
Tuổi
< 1 tuổi 181 (83,8%) 102 (58,96%)
2,58 (1,8 – 3,69)1-3 tuổi 25 (11,57%) 46 (26,59%)
> 3 tuổi 10 (4,63%) 25 (14,45%)
Kiểm tra sức khỏe định kỳ
<= 6 tháng/ 1 lần 215 (99,54%) 162 (93,64%)
19,92 (2,42 – 163,79)
> 6 tháng/ 1 lần 1 (0,46%) 11 (6,36%)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 251
Yếu tố nguy cơ
Sàng lọc tự kỷ
OR (95% CI)Không Có
216 (55,5%) 173 (44,5%)
Chăm sóc sức khỏe
Tìm kiếm thông tin 11,85 ± 1,52 11,55 ± 1,87 1,37 (1,14 – 1,64)
Phòng chống bệnh tật
Hiểu thông tin 9,46 ± 1,37 9,72 ± 1,50 0,78 (0,68 – 0,91)
Nâng cao sức khỏe
Kiểm định thông tin 11,8 ± 1,72 11,64 ± 1,49 0,77 (0,64 – 0,92)
Áp dụng thông tin 11,5 ± 1,6 11,72 ± 1,72 1,24 (1,04 – 1,47)
Theo kết quả bảng 2, cho thấy rằng các yếu 
tố tuổi của bé, kiểm tra sức khỏe hàng tháng cho 
trẻ, truy cập thông tin chăm sóc sức khỏe, hiểu 
thông tin về phòng chống bệnh tật, kiểm định 
thông tin nâng cao sức khỏe và áp dụng thông 
tin về nâng cao sức khỏe có tác động đến quyết 
định sàng lọc tự kỷ cho trẻ của bà mẹ có con 
dưới 3 tuổi. Các ảnh hưởng này đều có ý nghĩa 
thống kê (p-value < 0,05).
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy, tỷ lệ 
bà mẹ có con dưới 3 tuổi quyết định sàng lọc 
tự kỷ cho con của họ chiếm 44,47%. Nghiên 
cứu cũng chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng đến 
việc quyết định sàng lọc tự kỷ của các bà mẹ 
có con dưới 3 tuổi. Trong đó năng lực sức khỏe 
có các yếu tố ảnh hưởng gồm: tìm kiếm thông 
tin chăm sóc sức khỏe, hiểu thông tin về phòng 
chống bệnh tật, kiểm định thông tin nâng cao 
sức khỏe và áp dụng thông tin về nâng cao sức 
khỏe. Ngoài ra, có các yếu tố của trẻ cũng ảnh 
hưởng cùng là tuổi của bé, kiểm tra sức khỏe 
hàng tháng cho trẻ.
Hiện nay chưa có một nghiên cứu nào ở 
Việt Nam cũng như trên thế giới tìm hiểu về 
năng lực sức khỏe của bà mẹ liên quan đến 
sàng lọc tự kỷ để so sánh, tuy nhiên xét theo 
tỷ kệ của bà mẹ quyết định sàng lọc tự kỷ như 
trên là thấp. Một nghiên cứu ở Thái Bình chỉ ra 
chưa gần 1/5 phụ huynh thực hành sàng lọc 
sớm khuyết tật cho con.11 Việc sàng lọc qua câu 
hỏi M-CHAT khá đơn giản, vì những hành động 
này bà mẹ dễ quan sát ở con, thường so sánh 
với những đứa trẻ khác như một thói quen. Tuy 
nhiên nếu không có kiến thức đầy đủ về tự kỷ 
và sàng lọc tự kỷ thì họ cũng sẽ khó khăn trong 
việc nhận biết dấu hiệu nghi ngờ dẫn đến chậm 
trễ trong việc khám xác định và can thiệp sớm 
cho con. Ở các nước thu nhập thấp và trung 
bình, trong đó có Việt Nam thường có hạn chế 
về nguồn lực, hệ thống y tế kém phát triển và ít 
có kiến thức về tự kỷ cũng như các khuyết tật 
khác.10 Ở Australia, có bằng chứng đề cập đến 
việc thiếu kiến thức và thái độ không phù hợp 
của người mẹ về tự kỷ làm cản trở hiệu quả 
phát hiện và can thiệp sớm cho con.11 
Kết quả những bà mẹ có khả năng tìm kiếm 
thông tin chăm sóc sức khỏe và khả năng kiểm 
định thông tin nâng cao sức khỏe cao hơn 
nhưng không quyết định sàng lọc cho con có 
nét tương đồng với một vài nghiên cứu. Nghiên 
cứu ở vùng nông thôn Bangladesh cho thấy do 
thiếu kiến thức về tự kỷ, các gia đình sợ bị kỳ 
thị nên sử dụng cụm từ “có vấn đề về hành vi” 
nói về bệnh của con họ.⁸ Do vậy, những bà mẹ 
không có kiến thức đầy đủ về tự kỷ và sàng 
lọc tự kỷ thì không quyết định sàng lọc cho con 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020252
mình.
Ở những nước đang phát triển, sàng lọc tự 
kỷ chưa được đưa vào khám thường quy, do 
đó mở rộng chương trình truyền thông và áp 
dụng sàng lọc tại bệnh viện để nâng cao kiến 
thức của người dân là một giải pháp khả quan. 
Những bà mẹ có khả năng áp dụng thông tin 
phòng chống bệnh tật và nâng cao sức khỏe 
cao thì quyết định sàng lọc cho con. Kết quả 
của chúng tôi có khác biệt với một nghiên cứu 
ở các bà mẹ nhập cư Mexico. Năng lực sức 
khỏe thấp ảnh hưởng đến nguy cơ trẻ bị châm 
phát triển tâm thần và không có liên quan đến 
quyết định sàng lọc cho con.³ Nguyên nhân 
cho sự khác biệt này có thể vì ở các nước thu 
nhập thấp và trung bình, nơi mà nguồn lực bị 
hạn chế, hệ thống y tế kém phát triển, dịch vụ 
gia đình và khám sức khỏe định kỳ chưa được 
chú trọng10. Do đó, việc phát hiện những bất 
thường về thể chất, tinh thần và xã hội của trẻ 
bởi những người chăm sóc, đặc biệt là người 
mẹ vô cùng quan trọng và hiệu quả.
Theo kết quả nghiên cứu thì đa số những 
bà mẹ có trẻ sơ sinh (trẻ dưới 13 tháng tuổi) 
quyết định sàng lọc ngay cho con của họ. 
Trong khi đó, những bà mẹ có con từ 14 -36 
tháng tuổi chiếm tỷ lệ rất ít. Kết quả này cũng 
có nét tương đồng với một nghiên cứu ở Los 
Angeles, chưa được một nửa bà mẹ báo cáo 
về bất thường trong hành vi lặp lại và hạn chế 
của trẻ.12 Theo nghiên cứu tại bệnh viên phục 
hồi chức năng Canada cho biết những đứa trẻ 
sơ sinh có bất thường về vận động và cảm giác 
“đặc điểm prodromal”, đặc biệt trẻ từ 6-9 tháng 
tuổi. Ngoài ra, trẻ từ 14 tháng thường xuất hiện 
bất thường trong giao tiếp xã hội và lặp đi lặp 
lại các hành vi.13 Trong các lĩnh vực phát triển 
của trẻ, người mẹ thường quan tâm đến bất 
thường về vận động, thể trạng hay ngôn ngữ 
của trẻ mà ít quan tâm đến nhận thức, cảm xúc 
và kỹ năng xã hội. Nhiều bà mẹ khó khăn trong 
việc phát hiện các biểu hiện về chậm phát triển 
và rối loạn hành vi hơn các biểu hiện khuyết tật 
về thân thể. Do đó, các bác sĩ và các nhà truyền 
thông cần tập trung tuyên truyền kiến thức này 
tới các bà mẹ có con từ 14 tháng tuổi.
Hầu hết những bà mẹ đưa con đi khám định 
dưới 6 tháng 1 lần đồng ý quyết định sàng lọc 
cho con họ. Trong bối cảnh việc sàng lọc phát 
triển và tự kỷ chưa được lồng ghép vào các 
hoạt động chăm sóc sức khỏe thường quy cho 
trẻ nhỏ thì điều này rất có ý nghĩa. Những người 
dành thời gian đưa con đi khám định kỳ thường 
xuyên thì sẽ có nhiều quan tâm đến sức khỏe 
toàn diện cho con.
Hạn chế của nghiên cứu là một nghiên cứu 
cắt ngang được thực hiện tại hai cơ sở tiêm 
chủng khác nhau của bệnh viện đại học y Hà 
Nội ở Hà Nội. Vì đối tượng dễ bị tổn thương 
nên chúng tôi chọn mẫu thuận tiện dẫn đến khả 
năng đại diện là chưa cao. Quyết định sàng lọc 
tự kỷ cho trẻ tại thời điểm khảo sát có thể bị 
nhiễu do một số yếu tố về thời gian (mặc dù 
chúng tôi phỏng vấn trong 30 phút chờ đợi của 
bà mẹ sau khi tiêm vaccine cho con), chưa có 
nhiều thông tin về tự kỷ và sàng lọc tự kỷ. Do 
đó, có thể sau khi biết đến sàng lọc tự kỷ, các 
bà mẹ tìm hiểu nhiều hơn, quan sát con kỹ hơn 
và tiến hành sàng lọc cho con trong tương lai. 
Chúng tôi đã khắc phục hạn chế nhiễu bằng 
cách sử dụng bộ câu hỏi về năng lực sức khỏe 
được kiểm định tại Việt Nam và phân tích hồi 
quy logistic với các yếu tố ảnh hưởng đến quyết 
định sàng lọc.
Nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng về các 
yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sàng lọc tự 
kỷ của các bà mẹ có con dưới 3 tuổi. Tuổi của 
trẻ, thời gian đi khám định kỳ hàng tháng, một 
số đặc điểm của năng lực sức khỏe của bà mẹ 
ảnh hưởng đến quyết định sàng lọc tự kỷ cho 
con của họ. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi 
khuyến nghị xây dựng và triển khai chương 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 253
trình truyền thông toàn diện về sàng lọc trẻ tự 
kỷ cho các bà mẹ có con dưới 3 tuổi ở cộng 
đồng và bệnh viện.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ bà mẹ quyết định sàng lọc tự kỷ (ASD) 
ở trẻ còn thấp chiếm 44,47%. Do vậy, việc 
truyền thông, tư vấn cho các bà mẹ về việc 
sàng lọc trẻ tự kỷ là rất cần thiết. Tỷ lệ bà mẹ 
quyết định sàng lọc tự kỷ ở trẻ thấp có liên đến 
các yếu tố năng lực sức khỏe của bà mẹ, tuổi 
của trẻ và khám sức khỏe định kỳ của trẻ. Do 
đó, công tác truyền thông tại bệnh viện cũng 
như ở cộng đồng cần chú ý đến các yếu tố ảnh 
hưởng này để có chiến lược phù hợp và đạt 
hiệu quả cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kristine Sorensen, Stephan Van den 
Broucke, James Fullam, Geraldine Doyle, 
Jürgen Pelikan, Zofia Slonska, Helmut Brand 
Health literacy and public health: a systematic 
review and integration of definitions and 
models. BMC Public Health, 2012; 80 (8): 9 - 10
2. Jack P. Shonkoff, Co-Chair, Greg J. 
Duncan. The Foundations of Lifelong Health 
Are Built in Early Childhood. Center on the 
Developing Child at Harvard University, July 
2010, 32.
3. Hoffman M.T. The Science of Early 
Childhood Development??Closing the Gap 
Between What We Know and What We Do. J 
Dev Behav Pediatr. 2008; 29(4): 261.
4. Mayada et al. Global prevalence of autism 
and other pervasive developmental disorders. 
Autism Res. 2012 Jun; 5(3): 160 – 179.
5. Disha kumar, Lee Sander, Eliana M 
Perrin. Parental Understanding of Infant Health 
Information: Health Literacy, Numeracy and 
the Parental Health Literacy Activities Test 
(PHLAT), Academic pediatrics. 2010; 10: 309 
- 316.
6. Morrison A.K., Glick A., và Yin H.S. Health 
Literacy: Implications for Child Health. Pediatr 
Rev. 2019l; 40(6): 263 – 277.
7. Hernandez-Mekonnen R., Duggan E.K., 
Oliveros-Rosen L. và cộng sự. Health Literacy 
in Unauthorized Mexican Immigrant Mothers 
and Risk of Developmental Delay in their 
Children. J Immigr Minor Health. 2016; 18(5): 
1228 – 1231.
8. Blake J.M., Rubenstein E., Tsai P.-C. và 
cộng sự. Lessons learned while developing, 
adapting and implementing a pilot parent-
mediated behavioral intervention for children 
with autism spectrum disorder in rural 
Bangladesh. Autism. 2017; 21(5): 611 - 621.
9. Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Minh Thủy, 
Thực hành phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ dưới 
3 tuổi của người chăm sóc chính ở xã Nam 
Thắng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình năm 
2015. Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2016, Số 42, 
32 - 33.
10. Lan D.T. và N.X Hai ,Study on situation of 
children with ASD in Vietnam: Challenges and 
Solution. VACR and Save the children.2016.
11. Grant N, Rodger S, Hoffmann T. 
Intervention decision-making processes and 
information preferences of parents of children 
with autism spectrum disorders. Child Care 
Health Dev. 2016; 42(1): 125 - 34.
12. Harrop C, Gulsrud A, Shih W, Hovsepyan 
L, Kasari C. Characterizing caregiver responses 
to restricted and repetitive behaviors in toddlers 
with autism spectrum disorder. Autism. 2016; 
20(3): 330-42.
13. Sacrey L.-A.R., Bennett J.A., và 
Zwaigenbaum L. Early Infant Development and 
Intervention for Autism Spectrum Disorder. J 
Child Neurol. 2015; 30(14): 1921–1929
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020254
Summary
AUTISM SPECTRUM DISORDER SCREENING FOR CHILDREN 
OF MOTHERS HAVING CHILDREN UNDER 3 YEARS OLD AND 
SOME ASSOCIATED FACTORS IN 2019
A cross-sectional study conducted at 2 immunization facilities of Hanoi Medical University in 2019 
was to describe the decision on autism screening for children and to identify some associated factors 
on 389 mothers who had children under 3 years of age. The results showed that 44.47% of mothers 
decided to have Autism spectrum disorder screening for their children. The logistic regression model 
shows that the percentage of making the decision on screening for autism spectrum disorder was still 
low; this was associated with the health literacy of the mother, the age of the baby, and the periodic 
health checks for the child. All of these differences were statistically significant with p < 0.05. Given the 
results of the present study, it is necessary to enhance maternal knowledge about autism spectrum 
disorder screening. Strategies for health communication should be appropriate to this specific groups.
Key words: autism spectrum disorder, decision, screening, mothers, Vietnam

File đính kèm:

  • pdfquyet_dinh_sang_loc_tu_ky_cho_con_o_ba_me_va_mot_so_yeu_to_l.pdf