Quản trị thu nhập và lợi suất chứng khoán tương lai: kiểm chứng thực nghiệm tại thị trường Việt Nam
Tóm tắt
Nội dung chính của bài viết dưới đây tập trung kiểm định tác động của quản trị thu nhập đến lợi
suất chứng khoán tương lai trên thị trường chứng khoán Việt Nam, giai đoạn 2007-2014, nhằm đưa
ra bằng chứng thực nghiệm về hiện tượng dị thường dồn tích. Dữ liệu nghiên cứu bao gồm tất cả
các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, ngoại trừ các ngành tài chính, ngân hàng và
bất động sản. Tác giả sử dụng kết hợp ba phương pháp ước lượng bao gồm bình phương nhỏ nhất
(OLS), tác động cố định (FEM) và tác gộng ngẫu nhiên (GLS) để kiểm chứng mối quan hệ giữa quản
trị thu nhập và lợi suất chứng khoán tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng dồn tích và quản
trị thu nhập (được đo qua thước đo dồn tích có thể điều chỉnh được) có tác động ngược chiều tới lợi
suất chứng khoán và lợi suất chứng khoán phụ trội tương lai và thị trường chứng khoán định giá sai
thành phần tổng dồn tích của thu nhập hiện tại. Kết quả cho thấy dồn tích không điều chỉnh được và
quản trị thu nhập là những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng dị thường dồn tích tại Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản trị thu nhập và lợi suất chứng khoán tương lai: kiểm chứng thực nghiệm tại thị trường Việt Nam
Taøi chính ngaân haøng 123Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016) 1. Đặt vấn đề Lý luận cũng như thực tiễn về thị trường tài chính đều cho thấy thông tin là một trong các cấu phần cơ bản trong sự vận hành của thị trường và bản thân thông tin cũng là nguyên nhân dẫn tới nhiều vấn đề của thị trường, khiến nó không thể hoạt động hiệu quả. Tóm tắt Nội dung chính của bài viết dưới đây tập trung kiểm định tác động của quản trị thu nhập đến lợi suất chứng khoán tương lai trên thị trường chứng khoán Việt Nam, giai đoạn 2007-2014, nhằm đưa ra bằng chứng thực nghiệm về hiện tượng dị thường dồn tích. Dữ liệu nghiên cứu bao gồm tất cả các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, ngoại trừ các ngành tài chính, ngân hàng và bất động sản. Tác giả sử dụng kết hợp ba phương pháp ước lượng bao gồm bình phương nhỏ nhất (OLS), tác động cố định (FEM) và tác gộng ngẫu nhiên (GLS) để kiểm chứng mối quan hệ giữa quản trị thu nhập và lợi suất chứng khoán tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng dồn tích và quản trị thu nhập (được đo qua thước đo dồn tích có thể điều chỉnh được) có tác động ngược chiều tới lợi suất chứng khoán và lợi suất chứng khoán phụ trội tương lai và thị trường chứng khoán định giá sai thành phần tổng dồn tích của thu nhập hiện tại. Kết quả cho thấy dồn tích không điều chỉnh được và quản trị thu nhập là những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng dị thường dồn tích tại Việt Nam. Từ khóa: Quản trị thu nhập, dị thường dồn tích, dồn tích có thể điều chỉnh được, dồn tích không thể điều chỉnh được, tổng dồn tích Mã số: . Ngày nhận bài: . Ngày hoàn thành biên tập: . Ngày duyệt đăng: . Abstract This paper investigates the relationship of earning management and future stock return in Vietnamese stock market from 2007 to 2014 in order to provide an emperical evidence for acrual anomoly. Data include all listed companies in both exchanges, exlcuding financial, banking and real estate industries. Ordinary least square (OLS), fixed effect (FEM) and random effect (GLS) are used to analyze the research topic. The findings show that total acrual and earning management have a negative relationship with future stock return and future abnormal return and stock market misprices acrual component of earning. It is also proved that earning management (which is measured by proxy of discrestionary acrual) and non-discretionary acrual are reasons for acrual anomoly in Vietnam. Key words: Earning management, acrual anomoly, discretionary acrual, non discretionary acrual, total acrual. Paper No. . Date of receipt: . Date of revision: . Date of approval: . QUẢN TRỊ THU NHẬP VÀ LỢI SUẤT CHỨNG KHOÁN TƯƠNG LAI: KIỂM CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM Nguyễn Thị Ngọc Lan* Lê Tuấn Anh** * NCS Viện Ngân Hàng Tài Chính, Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, Giảng Viên Khoa Tài Chính Ngân Hàng, Đại Học Ngoại Thương ** Phó Tổng Thư Ký, Hội Truyền Thông Số Việt Nam Taøi chính ngaân haøng 124 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016) Trong đó, thông tin báo cáo tài chính là một trong những loại thông tin quan trọng nhất đối với nhà đầu tư. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng thu nhập/lợi nhuận kế toán có liên quan mật thiết đến giá thị trường của cổ phiếu (Barth, Mary et al. 2001) vì nhà đầu tư sử dụng số liệu về thu nhập/lợi nhuận kế toán để ước lượng lợi suất trong tương lai (Lev 1989,1989; Choi và cộng sự, 1997; Kallunki và Martikainen, 1997. Tuy nhiên quản trị thu nhập - được định nghĩa là hành vi điều chỉnh báo cáo tài chính của nhà quản lý dẫn đến việc phản ánh thiếu chính xác kết quả hoạt động kinh doanh của công ty nhằm che dấu các đối tác liên quan đến công ty (như cổ đông, chủ nợ...) hoặc gây ảnh hưởng đến kết quả các hợp đồng mà các kết quả này phụ thuộc vào số liệu kế toán (Healy và Wahlen, 1999)- lại làm cho chất lượng thu nhập công bố giảm sút, từ đó tác động tiêu cực đến việc định giá công ty do nhà đầu tư ước lượng lợi suất dựa trên thông tin báo cáo tài chính kém minh bạch. Trong vài thập kỷ qua, hàng loạt vụ bê bối kế toán đã xảy ra trên khắp thế giới, điển hình là Enron, Healthsouth, Parmalat, Tyco, Worldcom và Xerox, dẫn đến những thiệt hại nặng nề cho các nhà đầu tư. Trọng tâm của các vụ bê bối này đều liên quan đến quản trị thu nhập (Goncharov,2005). Do đó các nhà khoa học đã nỗ lực tìm hiệu liệu quản trị thu nhập có tạo nên những dị thường (anomoly) của thị trường chứng khoán không. Dòng nghiên cứu này bắt nguồn từ phát hiện của Sloan ( 1996), khi ông chứng minh rằng tổng dồn tích tạo nên hiện tượng dị thường trên thì trường chứng khoán (accrual anomaly). Có nghĩa là tổng dồn tích có mối tương quan âm với lợi suất chứng khoán trong tương lai và nhà đầu tư có thể thu được lợi suất phụ trội bằng chiến lược mua danh mục có mức dồn tích thấp và bán khống danh mục có mức dồn tích cao. Sloan (1996) lý giải rằng sở dĩ có sự bất thường này là nhà đầu tư không thể nhận thức được sự khác biệt về khả năng dự báo thu nhập tương lai (earning persistence) của tổng dồn tích và dòng tiền. Trong khi nhà đầu tư lại căn cứ vào thu nhập báo cáo để định giá cổ phiếu. Xie (2001) chứng minh thêm rằng hiện tường accrual anomaly mà Sloan (1996) tìm ra chủ yếu là do quản trị thu nhập (được đo bằng dồn tích có thể điều chỉnh được trong tổng dồn tích). Cụ thể quản trị thu nhập có mối tương quan âm với lợi suất chứng khoán tương lai và là thành phần kém hiệu quả nhất trong dự báo thu nhập tương lai. Tại Việt Nam, hiện tượng thao túng báo cáo tài chính cũng diễn ra khá phổ biến, ví dụ trường hợp công ty cổ phần Dược Viễn Đông làm giả con dấu, vẽ hợp đồng khống nhằm làm sai lệch báo cáo tài chính gây thiệt hại vô cùng lớn cho nhà đầu tư. Công ty Tribeco, công ty Petrolimex, công ty cổ phần Quốc Cường Gia Laicó hiện tượng dấu lãi để chuyển lỗ một cách khá kín đáo và hợp pháp (Phạm Thị Bích Vân,2013). Tuy nhiên hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu nào tiến hành kiểm chứng tác động của quản trị lợi nhuận đến lợi suất chứng khoán tương lai để tìm hiểu xem liệu nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam có nhận thức được thực trạng về vấn đề quản trị thu nhập và có phản ánh vấn đề này qua giá cổ phiếu không?. Nội dung của bài viết này sẽ trả lời các câu hỏi trên với dữ liệu thu thập được bao gồm toàn bộ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 2007-2014, ngoại trừ các ngành về tài chính, ngân hàng và bất động sản. Bố cục của bài viết bao gồm phần tổng quan lý thuyết về vấn đề nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu và kết luận. Taøi chính ngaân haøng 125Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016) 2. Tổng quan lý thuyết, tóm tắt tình hình nghiên cứu Theo Sloan (1996), Xie (2001) và Subramanyam (1996) do thành phần tổng dồn tích và dồn tích có thể điều chỉnh được (quản trị thu nhập) kém nhất quán hơn trong dự báo thu nhập tương lai so với dòng tiền trong khi thị trường định giá chứng khoán một phần lớn dựa trên thông tin về thu nhập của báo cáo tài chính nên dẫn đến hiện tượng định giá sai (mispricing) thành phần tổng dồn tích và quản trị thu nhập. Hiện tượng này được gọi là các dị thường dồn tích của thị trường chứng khoán (accrual anomalies). Có nghĩa là tổng dồn tích và quản trị thu nhập có tương quan âm với lợi suất chứng khoán tương lai. Sau công trình nghiên cứu của Sloan (1996), hàng loạt các công trình nghiên cứu đã tiến hành kiểm định mối quan hệ giữa tổng dồn tích và quản trị thu nhập với lợi suất chứng khoán tương lai ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển (Sloan (1996), Xie (2001), Richardson, Sloan et al. (2005), Pincus, Rajgopal et al. (2007), Doukakis và Papanastasopoulos (2014), Ozkan và Kayali (2015) và Hui, Nelson et al. (2016)). Đa số các công trình được nghiên cứu ở các nước phát triển đều thống nhất là thị trường định giá cao tổng dồn tích và quản trị thu nhập (dồn tích điều chỉnh được -DA) trong khi định giá thấp dòng tiền. Ngoại trừ công trình Subramanyam (1996) kết luận rằng nếu dồn tích điều chỉnh là chủ ý làm “nhẵn” thu nhập (Smooth earning) của ban giám đốc thì thị trường định giá đúng. Ngược lại nếu DA là kết quả của quản trị thu nhập thì thị trường định giá cao DA. Bên cạnh việc kiểm định hiện tượng tác động của quản trị thu nhập và tổng dồn tích đến lợi suất chứng khoán tương lai, các công trình nghiên cứu thực nghiệm còn cố gắng đưa ra các lời giải thích cho hiện tượng dị thường dồn tích này (accrual anomaly). Ví dụ theo Sloan (1996) và Richardso và cộng sự (2005), nguyên nhân dẫn đến hiện tượng dị thường dồn tích là do nhà đầu tư ngây thơ không phân biệt được sự kém nhất quán của dồn tích so với dòng tiền trong dự báo thu nhập tương lai mà chỉ quan tâm đến thông tin về thu nhập của báo cáo tài chính khi định giá chứng khoán (earning fixation). Theo Xie (2001), Subramanyam, (1996), Pincus và cộng sự, (2007), sự cố ý tác động đến thu nhập (quản trị thu nhập) là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng dị thường dồn tích. Allen và cộng sự (2013) , Doukakisa và Papanastasopoulosb (2014), Chan và cộng sự (2006), Zhang (2007) cho rằng nguyên nhân của hiện tượng dị thường dồn tích là các sai lệch kế toán trong ước lượng dồn tích và nhà đầu tư không thể nhận biết được các thông tin tăng trưởng chứa trong dồn tích của thu nhập. Các công trình nghiên cứu ở các nước mới nổi và đang phát triển có các kết quả khá mâu thuẫn nhau. Nghiên cứu của Kim và cộng sự (2015) chỉ ra rằng ngược lại với các nước đang phát triển nếu dùng thước đo dồn tích truyền thống thì không tìm thấy hiện tượng dị thường dồn tích tại Hàn Quốc. Tuy nhiên khi thay đổi thước đo dồn tích theo tỷ lệ thì hiện tượng acrual anomoly được khẳng định. Vivattanachang và Supattarakul (2013) nghiên cứu thị trường Thái Lan và kết luận rằng tổng dồn tích, dòng tiền và dồn tích có thể điều chỉnh được đều được định giá đúng ở thị trường Thái Lan. Pascal và Hằng (2014) nghiên cứu hiện tượng dị thường dồn tích ở Việt Nam, tác giả kết luận rằng hiện tượng acrual anomoly chỉ xuất hiện ở các công ty không gặp vấn đề về tài chính. Còn ở các công ty đang gặp vấn đề về tài chính các quy định của ngân hàng góp phần ngăn cản các hành Taøi chính ngaân haøng 126 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016) vi quản trị/thổi phồng lợi nhuận. Công trình nghiên cứu của Alqerm và Obeid (2014) tại thị trường Malaysia chỉ ra rằng quản trị lợi nhuận thông qua tác động vào chi phí có thể điều chỉnh được và chi phí sản xuất có tương quan âm với lợi suất chứng khoán trong tương lai; trong khi quản trị thu nhập qua dòng tiền không gây ra dị thường dồn tích. C.M. Cupertino và cộng sự (2012) không tìm thấy hiện tượng dị thường dồn tích tại Braxin. Từ các công trình nghiên cứu trên tác giả đưa ra các giả thuyết sau: H1: Tại Việt Nam tổng dồn tích có tương quan (-) với lợi suất phụ trội và lợi suất chứng khoán H2: Tại Việt Nam quản trị thu nhập (dồn tích có thể điều chỉnh được) có mối tương quan (-) với lợi suất và lợi suất phụ trội H3: Tại Việt Nam dồn tích không điều chỉnh được có tương quan (-) với lợi suất và lợi suất phụ trội 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Chọn mẫu Mẫu được chọn là các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, ngoại trừ các ngành tài chính, bất động sản, ngân hàng. Theo Fama và French (1993), các ngành này có cấu trúc báo cáo tài chính khác và có tỷ lệ đòn bẩy cao so với các ngành còn lại do đó nên loại khỏi mẫu nghiên cứu. Các công ty có giá trị vốn chủ sở hữu âm cũng bị loại khỏi mẫu (Fama và French, 1993). Do số lượng công ty niêm yết trước năm 2006 là rất ít (24 công ty) nên để đảm bảo đủ số lượng quan sát, tác giả chọn thời kỳ nghiên cứu từ năm 2007-2015. Để đo lường lợi suất phụ trội của chứng khoán từ năm 2007-2015, các công ty trong mẫu phải có số liệu báo cáo tài chính và số liệu giá chứng khoán từ tháng 12 năm t-1 đến tháng 3 của năm t. Theo quy định về công bố thông tin của Bộ Tài Chính tại thông tư 52/2012/TT-BTC, các công ty đại chúng phải công bố báo cáo tài chính năm không quá 90 ngày kể từ khi kết thúc năm tài chính. Do đó lợi suất chứng khoán của năm t sẽ được tính từ thời điểm tháng 4 năm t đến tháng 3 năm t+1. Do vậy để được lựa chọn vào mẫu nghiên cứu các công ty phải có thông tin về giá chứng khoán từ tháng 4 năm t đến tháng 3 của năm t+1. Ngoài ra do yêu cầu kiểm định tác động Bảng 1: Tổng hợp các công ty trong mẫu Ngành 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Vật liệu cơ bản 20 18 30 42 61 67 72 74 Hàng tiêu dùng 21 34 42 58 72 76 80 80 Dịch vụ hàng tiêu dùng 17 13 18 32 40 44 44 47 Y tế 8 3 8 11 16 18 18 18 Công nghiệp 48 80 108 152 214 231 240 244 Dầu khí 0 3 4 4 4 4 4 5 Công nghệ 3 6 10 12 21 22 22 22 Dịch vụ tiện ích 7 8 9 19 26 28 30 30 Mẫu cuối cùng 124 165 229 330 454 490 510 520 Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ số liệu thu thập của cơ sở dữ liệu stoxplus Taøi chính ngaân haøng 127Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016) của quản trị thu nhập đến lợi suất tương lai nên biến phụ thuộc là số liệu của 01 năm kế tiếp. Vì vậy, mặc dù số liệu được thu thập từ năm 2006 đến 2015 nhưng thời gian nghiên cứu của mẫu là từ năm 2007-2014. Toàn bộ số liệu về giá cổ phiếu và các thông tin trên báo cáo tài chính được tác giả thu thập từ cơ sở dữ liệu của stoxplus. Tổng hợp số công ty trong mẫu ban đầu qua từng năm và phân chia theo các ngành theo chuẩn phân ngành ICB mức độ 1 như bảng 1. 3.2. Đo lường các biến * Đo lường các biến về dồn tích và quản trị lợi nhuận Có nhiều cách đo lường quản trị lợi nhuận (EM) tuy nhiên trong bài viết này tác giả dùng sử dụng mô hình của Kothari và cộng sự (2005) do mô hình được chứng minh khắc phục được lỗi Type I và Type II so với mô hình Jones (1991) và modified Jones của Dechow và cộng sự (1995). Tuy nhiên mô hình Jones (1991) và Modified Jones (1995) cũng được sử dụng để đo lường EM trong phần phân tích robust. Phương trình đo lường EM thông qua DA của Kothari và cộng sự, 2005 TAC it = ά (1 / TA it -1) + β1 (Δ REV it - Δ REC it) / TA it -1 + β 2 PPE it + β 3 ROA it -1 + ε it (1) Trong đó - TAC it là tổng dồn tích. - TA it -1 là giá trị sổ sách của tổng tài sản của công ty i tại năm t-1 - Δ REV it / TA it -1 là doanh thu của công ty i vào năm t trừ đi doanh thu vào năm t-1, tất cả chia cho TA it -1 - Δ REC it là thay đổi khoản phải thu - PPE it / TA it -1 là tổng tài sản cố định của công ty i vào cuối năm t chia cho TA it -1, - ROA it -1 là hệ số lợi nhuận trên tổng tài sản năm t-1 - α, β1 β 2 β3 là các hệ số trong mô hình hồi quy - ε it là phần dư (DA - proxy của EM) Tổng dồn tích (TAC) được đo thông qua số liệu từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ: TACt = NIt – CFOt Trong đó: NIt: Lợi nhuận sau thuế tại năm t CFO t : Dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh năm t ... ận có xu hướng giảm xuống trong khi quản trị thu nhập theo hướng điều chỉnh giảm lợi nhuận có xu hướng tăng lên. Từ năm 2013-2014 quản trị thu nhập nói chung và quản trị thu nhập (+) có xu hướng tăng lên trong khi EM(-) có xu hướng giảm. Tính trung bình cả thời kỳ nghiên cứu, ngành hàng tiêu dùng và ngành dầu khí có mức độ quản trị thu nhập cao nhất với giá trị trung bình của absEM là 0,0123 trong khi ngành y tế có mức độ quản trị thu nhập thấp nhất với giá trị trung bình của absEM là 0,093. 4.2. Kết quả hồi quy Bảng 4 trình bày kết quả hồi quy GLS, FEM và OLS. Ta thấy rằng cả ba phương pháp ước lượng đều cho thấy TAC có mối tương quan (-) mạnh với lợi suất chứng khoán và ROA có mối tương quan (+) với lợi suất chứng khoán. Các mối quan hệ này đều được khẳng định với mức ý nghĩa thống kê p_value <0,1%. Bảng 3: Thống kê mô tả các biến trong mô hình Biến Obs Mean Std. Dev Min Max Skewness Kurtosis RETt+1 2822 0,006 0,038 -0,062 0,077 -0,011 2,288 SBMRETt+1 2822 0,016 0,038 -0,049 0,094 0,259 2,422 ROAt 2822 0,061 0,057 -0,018 0,200 0,866 2,999 TACt 2822 0,013 0,121 -0,213 0,261 0,161 2,596 NEMt 2822 0,004 0,046 -0,081 0,108 0,351 3,032 EMt 2822 0,008 0,116 -0,215 0,245 0,109 2,659 absEMt 2822 0,098 0,072 0,000 0,245 1,240 3,800 EM(+) 1470 0,096 0,067 0,000 0,246 0,749 2,385 EM(-) 1352 -0,087 0,067 -0,215 0,000 -0,657 2,258 Taøi chính ngaân haøng 131Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016) Bảng 4: Kết quả hồi quy FEM, OLS và GLS của mô hình 1 Biến FEM OLS GLS ROA -0,214*** 0,044*** 0,044*** TAC -0,027*** -0,030*** -0,030*** Hệ số chặn 0,020*** 0,004*** 0,004*** Số quan sát 2.822 2.822 2.822 R-Squared 0,049 0,011 Ghi chú: *** p<0,01, ** p<0,05, * p<0,1 Bảng 5 trình bày kết quả hồi quy OLS, GLS và FEM của mô hình 2. Ta thấy cả ba phương pháp ước lượng đều cho thấy TAC có mối tương quan âm với lợi suất phụ trội tương lai với mức ý nghĩa thông kế <1%. ROA có tương quan âm với lợi suất phụ trội trong mô hình FEM với mức ý nghĩa thông kê <1% trong khi lại có tương quan dương với SBMRETt+1 với mức ý nghĩa thống kê <10% ở mô hình ước lượng bằng OLS và GLS Bảng 5: Kết quả hồi quy FEM, OLS và GLS của mô hình 2 Biến FEM OLS GLS ROA -0,21*** 0,02* 0,02* TAC -0,03*** -0,030*** -0,030*** Hệ số chặn 0,03*** 0,01*** 0,01*** Số quan sát 2.822 2.822 2.822 R-Squared 0,05 0,01 Ghi chú: *** p<0,01, ** p<0,05, * p<0,1 Bảng 6 trình bày kết quả hồi quy OLS, GLS và FEM của mô hình 3. Cả 03 phương pháp ước lượng đều khẳng định mối tương quan âm giữa EM, NEM với RETt+1 với mức ý nghĩa thống kế < 1%. Tuy nhiên mối quan hệ giữa ROA và RETt+1 lại mang dấu khác nhau giữa mô hình OLS, GLS và FEM mặc dù có ý nghĩa thống kê dưới 1%. Bảng 6: Kết quả hồi quy OLS, GLS FEM mô hình 3 Biến FEM OLS GLS ROA -0,2*** 0,05*** 0,05*** NEM -0,09*** -0,05*** -0,05*** EM -0,02*** -0,03*** -0,03*** Hệ số chặn 0,02*** 0,00*** 0,00*** Số quan sát 2.822 2.822 2.822 R-Squared 0,05 0,01 Ghi chú: *** p<0,01, ** p<0,05, * p<0,1 Kết quả hồi quy OLS, GLS và FEM của mô hình 4 được trình bày ở bảng 7. Qua đó ta thấy mối tương quan âm giữa EM, NEM với SBMRETt+1 được khẳng định với mức ý nghĩa thống kê <1% qua hồi quy ước lượng OLS, GLS và FEM. Tuy nhiên ROA lại cho thấy các kết quả khác nhau giữa các mô hình, trong đó mô hình FEM cho thấy ROA có mối tương quan (-) với SBMRETt+1, trong khi OLS và GLS lại cho thấy ROA có mối tương quan dương với lợi suất phụ trội tương lai. Bảng 7: Kết quả hồi quy OLS, GLS, FEM của mô hình 4 Biến FEM OLS GLS ROA -0,2*** 0,03* 0,03* NEM -0,09*** -0,05*** -0,05*** EM -0,02*** -0,03*** -0,03*** Hệ số chặn 0,03*** 0,01*** 0,01*** Số quan sát 2.822 2.822 2.822 R-Squared 0,05 0,01 Tác giả dùng kiểm định Pagan Lagrangian Multipler (xttest0) để xem xét sự phù hợp giữa ước lượng OLS và GLS. Kết quả cho thấy phương pháp OLS phù hợp với cả 4 mô hình. Kiểm định Hausman cũng được sử dụng để kiểm tra sự phù hợp giữa mô hình GLS và FEM. Kết quả cho thấy FEM phù hợp với cả bốn mô hình. Taøi chính ngaân haøng 132 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016) Như vậy từ kết quả kiểm định của các mô hình trên ta thấy tổng dồn tích có mối tương quan (-) với lợi suất tương lai và lợi suất phụ trội tương lai với mức p-value <1%. NEM và EM đều có tác động ngược chiều đến RETt+1 và SBMRETt+1 với mức ý nghĩa p-value <1%. Kết quả kiểm định tác động của tổng dồn tích và quản trị thu nhập đến lợi suất chứng khoán tương lai ở Việt Nam khá tương đồng với các công trình nghiên cứu khác trên thế giới (Xie, 2001; Sloan, 1996; Pincus và cộng sự, 2007; Richardson et al,, 2005; Doukakisa và Papanastasopoulosb, 2014; Alqerm và Obeid, 2014 và Chan và cộng sự, 2006 ). 4.3. Phân tích robust Thay vì dùng proxy của Kotharin (2005) để đo lường quản trị lợi nhuận tác giả dùng mô hình Jones (1991) và modified Jones (1995) để ước lượng EM cho mô hình 3 và mô hình 4 nhằm so sánh kết quả kiểm định với các proxy khác nhau của quản trị thụ nhập. Tác giả dùng lệnh cluster để kiểm soát lỗi phương sai sai số thay đổi và tự tương quan của các mô hình này. * Ước lượng EM băng mô hình Jones (1991) Bảng 9 cho thấy khi thay đổi thước đo quản trị thu nhập bằng mô hình Jones (1991), EM và NEM đều có mối quan hệ ngược chiều với lợi suất chứng khoán và lợi suất phụ trội tương lai với mức ý nghĩa thống kê p_value<1%. Bảng 8: Kiểm định Pangan Lagrangian multiplier và Hausman Các kiểm định Mô hình 1 Mô hình 1 Mô hình 3 Mô hình 4 Pagan Lagrangian multiplier Prob>chibar2=1,000 Prob>chibar2=1,000 Prob>hibar2=1,000 Prob > chibar2 = 1,000 Hausman Prob>chibar2=0,000 Prob>chibar2=0,000 Prob>chibar2=0,000 Prob>chi2 = 0,0000 Bảng 9: Ước lượng OLS, FEM và GLS của mô hình 3, mô hình 4 (Jones, 1991) Biến Mô hình 3 (y=RET t+1 ) Mô hình 4 (y= SBMRET t+1 ) OLS FEM GLS OLS FEM GLS ROA 0,0441*** (0,0125) -0,210*** (0,0232) 0,0441*** (0,0125) 0,0213* (0,0127) -0,208*** (0,0237) 0,0213* (0,0127) NEM -0,0616*** (0,0198) -0,0816*** (0,0234) -0,0616*** (0,0198) -0,0551*** (0,0201) -0,0843*** (0,0239) -0,0551*** (0,0201) EM -0,0269*** (0,00608) -0,0241*** (0,00689) -0,0269*** (0,00608) -0,0279*** (0,00615) -0,0249*** (0,00705) -0,0279*** (0,00615) Constant 0,00400*** (0,00104) 0,0195*** (0,00158) 0,00400*** (0,00104) 0,0146*** (0,00105) 0,0286*** (0,00162) 0,0146*** (0,00105) Observations 2,822 2,822 2,822 2,822 2,822 2,822 R-squared 0,012 0,051 0,009 0,049 Number of id 520 520 520 520 Ghi chú: Trong ngoặc là standard errors , *** p<0,01, ** p<0,05, * p<0,1 Taøi chính ngaân haøng 133Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016) Như vậy, khi thay proxy của EM bằng dồn tích có thể điều chỉnh được của mô hình Modifed Jones (1995), kết quả nghiên cứu không thay đổi. NEM và EM đều có mối tương quan âm với lợi suất và lợi suất phụ trội tương lai với mức ý nghĩa thống kê p_value<1% 7. Kết luận Từ kết quả thực nghiệm trên tác giả kết luận rằng tổng dồn tích có mối quan hệ ngược chiều với lợi suất chứng khoán và lợi suất chứng khoán phụ trội tương lai tại Việt Nam. Kết quả này đồng nhất với kết quả của các kiểm định về hiện tượng “accrual anomaly” trên thế giới như Sloan (1996), Xie (2001), Pincus và cộng sự (2007). Kết quả của Xie (2001) cho rằng EM là thành phần chính gây nên hiện tượng accrual anomaly của dồn tích tuy nhiên kết quả nghiên cứu tại thị trường Việt Nam cho thấy cả EM và NEM đều gây ra hiện tượng dị thường dồn tích trên thị trường chứng khoán Việt Nam do EM và NEM đều có tương quan âm với lợi suất chứng khoán và lợi suất phụ trội chứng khoán. Kết quả nghiên cứu này được khẳng định qua cả ba thang đo của quản trị thu nhập và ba phương pháp hồi quy ước lượng OLS, FEM và GLS. Mối tương quan âm này phản ánh thị trường định giá cao tổng dồn tích, quản trị thu nhập và dồn tích không điều chỉnh được. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể bắt nguồn từ giả thiết nhà đầu tư ngây thơ (Naïve investors) của Sloan(1996). Cụ thể, hiện tượng định giá sai tổng dồn tích và quản trị thu nhập là do nhà đầu tư không thể nhận biết được sự kém nhất quán hơn (less persistence) của tổng dồn tích và quản trị thu nhập so với dòng tiền trong dự báo thu nhập tương lai. Kết quả này dẫn dắt đến một gợi ý nghiên cứu rằng liệu có thể xây dựng danh mục để thu lợi suất phụ trội dựa trên đặc điểm về tổng dồn tích và quản trị thu nhập trên thị trường chứng khoán Việt Nam không và liệu rằng đây có phải là nhân tố rủi ro cần phải tính tới khi định giá cổ phiếu?.q * Ước lượng EM bằng mô hình Modifed Jones (1995) Bảng 10: Ước lượng OLS, FEM, GLS của mô hình 3 và mô hình 4 (Modified Jones, 1995) Biến Mô hình 5 (y=RET t+1 ) Mô hình 6( SBMRET t+1 ) OLS FEM GLS OLS FEM GLS ROA 0,0433*** -0,0125 -0,211*** -0,0232 0,0433*** -0,0125 0,0205 -0,0127 -0,210*** -0,0237 0,0433*** -0,0125 NEM -0,0825*** (0,0214) -0,0959*** (0,0254) -0,0825*** (0,0214) -0,0748*** (0,0217) -0,0996*** (0,0259) -0,0825*** (0,0214) EM -0,0261*** (0,00602) -0,0236*** (0,00685) -0,0261*** (0,00602) -0,0270*** (0,0061) -0,0243*** (0,00701) -0,0261*** (0,00602) Constant 0,00396*** (0,00104) 0,0195*** (0,00158) 0,00396*** (0,00104) 0,0145*** (0,00105) 0,0286*** (0,00162) 0,00396*** (0,00104) Observations 2,822 2,822 2,822 2,822 2,822 2,822 R-squared 0,013 0,052 0,01 0,05 Number of id 520 520 520 520 Taøi chính ngaân haøng 134 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016) Tài liệu tham khảo 1. Alqerm, J. F. and S. N. S. Obeid (2014). “The Pricing of the Real Earnings Management Evidence from Malaysian Stock Exchange.” Journal of Al-Quds Open University for Research and Studies 32: 27-49. 2. Barth, E. Mary, W. H. Beaver and W. R. Landsman (2001). The Relevance of Value Relevance Research. JAE Rochester Conference 3. Charoenwong, C. and P. Jiraporn (2009). “Earnings management to exceed thresholds: Evidence from Singapore and Thailand.” Journal of Multinational Financial Management 19(3): 221-236. 4. Choi, B., D. Collins and W. Johnson (1997). “Valuation implications of reliability differences: the case of nonpension postretirement obligations.” The Accounting Review 72: 351-383. 5. Cupertino, C. M., A. J. Martinez and J. N. C. A. Costa (2012). “Accrual Anomaly in the Brazilian Capital Market “ Brazilian Administration review 9(4): 421-440. 6. Dechow, P., R. Sloan and A. Sweeney, (1995). “Detecting earnings management,.” The Accounting Review 70: 193-225. 7. Doukakisa, L. C. and G. A. Papanastasopoulosb (2014). “The accrual anomaly in the U.K. stock market: Implications of growth and accounting distortions.” Journal of International Financial Markets, Institutions & Money 32( ): 256-277. 8. Fama, F. U. and R. K. Frech (1993). “Common risk factors in the returns on stocks and bonds.” Journal of Financial Economics 33: 3-56. 9. Goncharov, I. (2005). Earnings Management and its Determinants: Closing Gaps in Empirical Accounting Research, Peter Lang. 10. Healy, P. and J. Wahlen (1998). “A Review of the Earnings Management Literature and its Implications for Standard Setting.” Accounting Horizons 13(4): 365-384. 11. Hui, K. W., K. K. Nelson and P. E. Yeung (2016). “On the persistence and pricing of industry-wide and firm-specific earnings, cash flows, and accruals.” Journal of Accounting and Economics 61(1): 185-202. 12. Jones, J. J. (1991). “Earnings Management During Import Relief Investigations.” Journal of Accounting Research 29: 193-228. 13. Kallunki, J. and T. Martikainen (1997). “The lea d-lag structure of stock returns and accounting earnings.” International Review of Financial-Analysis 6(1): 37-48. 14. Kim, Y. J., J. H. Kim, S. Kwon and S. J. Lee (2015). “Percent accruals and the accrual anomaly: Korean evidence.” Pacific-Basin Finance Journal 35, : 340-366. 15. Kothari, S. P., A. J. Leone and C. E. Wasley (2005). “Performance matched discretionary accrual measures.” Journal of Accounting and Economics 39(1): 163-197. 16. Kraft, A., A. Leone and C. E. Wasley (2007). “Regression-Based Tests of the Market Pricing of Accounting Numbers: The Mishkin Test and Ordinary Least Squares.” Journal of Accounting Research 45(5): 1081-1114. Taøi chính ngaân haøng 135Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016) 17. Lev, B. (1989). “On the Usefulness of Earnings and Earnings Research: Lessons and Directions from Two Decades of Empirical Research” Journal of Accounting Research 27(3): 153-193. 18. Mouselli, S., A. Jaafar and J. Goddard (2013). “Accruals quality, stock returns and asset pricing: Evidence from the UK.” International Review of Financial Analysis 30: 203- 213. 19. Othman, H. B. and D. Zeghal (2006). “A study of earnings-management motives in the Anglo-American and Euro-Continental accounting models: The Canadian and French cases.” The International Journal of Accounting 41(4): 406-435. 20. Ozkan, N. and M. M. Kayali (2015). “The accrual anomaly: Evidence from Borsa Istanbul.” Borsa Istanbul Review 15(2): 115-125. 21. Pascal, A. and N. T. Hang. (2014). “Financial Distress and Accrual Anomaly: Evidence from the Vietnamese Stock Market.” Retrieved 12-12, 2015, from Available at SSRN: 22. Pincus, M., S. Rajgopal and M. Venkatachalam (2007). “The accrual anomaly: International evidence.” The Accounting Review 82(1): 169-203. 23. Richardson, S. A., R. G. Sloan, M. T. Soliman and İ. Tuna (2005). “Accrual reliability, earnings persistence and stock prices.” Journal of Accounting and Economics 39(3): 437-485. 24. Selahudina, N. F., N. B. Zakariaa, Z. M. Zuraidah Mohd Sanusia and P. Budsaratragoonb (2014). “Monitoring financial risk ratios and earnings management: evidence from Malaysia and Thailand.” Procedia - Social and Behavioral Sciences 145: 51-60. 25. Sloan, R. ( 1996). “Do stock prices fully reflect information in accruals and cash flows about future earnings?” The Accounting Review 71: 289–315. 26. Subramanyam, K. R. (1996). “The pricing of discretionary accruals.” Journal of Accounting and Economics 22(1–3): 249-281. 27. Vân, P. T. B. (2013). “Các Cách Đo Lường Sự Trung Thực Của Chỉ Tiêu Lợi Nhuận “ Tạp Chí Ngân Hàng 1: 39-47. 28. Vivattanachang, D. and S. Supattarakul (2013). “The Earnings Persistence and the Market Pricing of Earnings and their Cash Flow and Accrual Components of Thai Firms.” Journal of Accounting Profession 9(25): 63-79. 29. Xie, B., W. N. Davidson Iii and P. J. DaDalt (2003). “Earnings management and corporate governance: the role of the board and the audit committee.” Journal of Corporate Finance 9(3): 295-316. 30. Xie, H. (2001). “The mispricing of abnormal accruals.” The accounting review 76(3): 357-373. 31. Zhang, X. F. (2007). “Accruals, Investment, and the Accrual Anomaly.” The Accounting Review 82(5): 1333-1363.
File đính kèm:
- quan_tri_thu_nhap_va_loi_suat_chung_khoan_tuong_lai_kiem_chu.pdf