Quan niệm của điều dưỡng đối với việc chăm sóc người nhiễm HIV
TÓM TẮT
Đặt vấn đề Những vấn đề kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS đã xuất hiện từ giữa những năm 1980 và đến
nay hơn hai thập kỷ đã trôi qua, xã hội vẫn còn tiếp tục kỳ thị những ai bị nhiễm hoặc nghi ngờ bị nhiễm, thậm
chí cả những người có liên quan đến HIV/AIDS. Điều dưỡng là những người gần gũi để chăm sóc cho những
người mắc căn bệnh này, nhưng chính họ cũng không thoát khỏi sự phân biệt đối xử của xã hội.
Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu quan niệm của điều dưỡng về việc chăm sóc cho người nhiễm HIV/AIDS và
xác định những yếu tố ảnh hưởng đến công việc chăm sóc bệnh nhân của những người điều dưỡng này.
Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu bán định tính. Dữ liệu được
thu thập dựa trên bộ câu hỏi mở làm công cụ hướng dẫn phỏng vấn. Tất cả 27 điều dưỡng chịu trách nhiệm chăm
sóc trực tiếp người nhiễm HIV tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TpHCM trong khoảng thời gian 2 tháng – từ tháng
2 đến tháng 3 năm 2010
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan niệm của điều dưỡng đối với việc chăm sóc người nhiễm HIV
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 202 QUAN NIỆM CỦA ĐIỀU DƯỠNG ĐỐI VỚI VIỆC CHĂM SÓC NGƯỜI NHIỄM HIV Trương Minh Hoàng Oanh*, Cao Ngọc Nga*, Ria Lohuis-Heesink** TÓM TẮT Đặt vấn đề Những vấn đề kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS đã xuất hiện từ giữa những năm 1980 và đến nay hơn hai thập kỷ đã trôi qua, xã hội vẫn còn tiếp tục kỳ thị những ai bị nhiễm hoặc nghi ngờ bị nhiễm, thậm chí cả những người có liên quan đến HIV/AIDS. Điều dưỡng là những người gần gũi để chăm sóc cho những người mắc căn bệnh này, nhưng chính họ cũng không thoát khỏi sự phân biệt đối xử của xã hội. Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu quan niệm của điều dưỡng về việc chăm sóc cho người nhiễm HIV/AIDS và xác định những yếu tố ảnh hưởng đến công việc chăm sóc bệnh nhân của những người điều dưỡng này. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu bán định tính. Dữ liệu được thu thập dựa trên bộ câu hỏi mở làm công cụ hướng dẫn phỏng vấn. Tất cả 27 điều dưỡng chịu trách nhiệm chăm sóc trực tiếp người nhiễm HIV tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TpHCM trong khoảng thời gian 2 tháng – từ tháng 2 đến tháng 3 năm 2010. Câu hỏi nghiên cứu Điều dưỡng nhận thức như thế nào về việc chăm sóc cho người bị nhiễm HIV Kết quả Điều dưỡng cảm nhận việc chăm sóc bệnh nhân bị nhiễm HIV cũng giống như chăm sóc những bệnh nhân mắc các bệnh khác. Ngoài ra, họ còn cảm thấy rằng công việc của họ an toàn hơn, hạnh phúc, lý thú, đồng cảm, có trách nhiệm, vô ích và thất vọng, tức giận và căm phẫn, tiến thoái lưỡng nan, bị phân biệt đối xử, tự nhận thấy thiếu kiến thức và sợ hãi. Việc nhiễm HIV, mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội, tình trạng của bệnh nhân và bị người nhà bệnh nhân đe doạ là những nguyên nhân chính khiến cho điều dưỡng phải lo sợ. HIV đã gây nhiều ảnh hưởng lên cuộc sống cá nhân của người điều dưỡng mà đặc biệt là những người điều dưỡng trẻ. Những điều dưỡng lâu năm hầu như đã được tập huấn kiến thức về HIV nhiều, trong khi nhân viên trẻ thì chưa. Môi trường làm việc cũng có một số thuận lợi cũng như khó khăn đến công việc chăm sóc bệnh nhân của các điều dưỡng viên chuyên chăm sóc bệnh nhân HIV này. Từ khóa: HIV, điều dưỡng, chăm sóc. ABSTRACT AN EXPLORATIVE STUDY REGARDING TO NURSING PERCEPTIONS IN CARING FOR HIV POSITIVE INDIVIDUALS. Truong Minh Hoang Oanh, Cao Ngoc Nga, Ria Lohuis-Heesink * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 201 - 208 Aim: The purposes of this study are: To explore the perceptions of nurses caring for HIV/AIDS patients in an HIV specified caring center in Ho Chi Minh City, Vietnam. To identify issues which influence to nurses’ daily work. Research question: What are the perceptions of nurses about caring for HIV positive people? Method: A quasi-qualitative approach within the positivist paradigm was used. Data were collected by using * Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh; ** Đại học khoa học kỹ thuật Saxion Hà Lan Tác giả liên lạc: Ths Trương Minh Hoàng Oanh ĐT: 0908681754 Email: oanhnurse@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 203 the standardized open-ended interview guide. 27 nurses who are responsible for providing direct care for HIV/AIDS patients in Hospital of Tropical diseases, HCMC were individually interviewed in two months – February to March, 2010. Results: Nurses perceived taking care for patients with HIV similar to other diseases. Besides, they felt their works were safer, happy, interest, empathy, responsibility, helplessness and disappointment, anger and frustration, dilemma, being discriminated, lack of knowledge and fear. HIV infection, opportunistic infection, patient’s condition, and being harmed by HIV/AIDS patients were identified as main issues to make nurses fear. HIV was reported to have much influence to the nurses’ personal lives, especially for young staffs. Most of senior staffs had been trained about HIV knowledge, but the youths were not. Their working environment gave some advantages and disadvantages which influenced their caring. Key words: HIV, nurses, care. ĐẶT VẤN ĐỀ HIV và AIDS là một trong mười nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thế giới (Tổ chức Y tế thế giới (WHO, 2008)(10). Tại Việt Nam, HIV đã lan ra toàn bộ các tỉnh thành với hơn 200.000 người nhiễm. Và tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi nghiên cứu này được thực hiện lại là thành phố có tỉ lệ hiện mắc HIV/AIDS cao nhất trong cả nước (UNAIDS, 2009)(9). Những vấn đề kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS đã xuất hiện từ giữa những năm 1980 (Parker & Aggleton, 2003)(7). Và đến nay hơn hai thập kỷ đã trôi qua, xã hội vẫn còn tiếp tục kỳ thị những ai bị nhiễm hoặc nghi ngờ bị nhiễm, thậm chí cả những người có liên quan đến HIV/AIDS. Điều dưỡng là những người gần gũi để chăm sóc cho những người mắc căn bệnh này, nhưng chính họ cũng không thoát khỏi sự phân biệt đối xử của xã hội (McCann, 1997(4); Smit, 2004(8); Gaudine, 2008(3)). Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới, bản thân người điều dưỡng cảm nhận rằng họ thấy sợ và lo lắng khi chăm sóc cho người nhiễm HIV. Hơn thế nữa, họ đã đưa ra một số rào cản tác động đến chất lượng chăm sóc bệnh nhân HIV của mình, chẳng hạn như: sự kỳ thị và phân biệt đối xử, thiếu kiến thức, thiếu nguồn lực hỗ trợ và nỗi sợ chính mình sẽ bị truyền nhiễm (Effa-Heap, 1997(1); Ehlers, 2006(2); McCann 1997(4); Oyeyemi 2006(6); Smit, 2004(8)). Nhận thức của điều dưỡng về việc chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS đã được khám phá ở một số nước khác nhau trên thế giới. Trong khi đó, vấn đề này chưa được tìm hiểu tại Việt Nam. Với mong muốn nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc của những bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS, việc tìm hiểu thái độ của điều dưỡng chăm sóc người bệnh và xem xét liệu thái độ của họ ảnh hưởng như thế nào đến việc chăm sóc bệnh nhân này là rất cần thiết. Dựa trên những kết quả tìm được, việc thực hành chăm sóc của người điều dưỡng, việc nghiên cứu điều dưỡng, các chính sách của ngành điều dưỡng cũng như việc giáo dục điều dưỡng có liên quan đến việc chăm sóc người bệnh HIV/AIDS sẽ được đánh giá và những giải pháp để cải thiện có liên quan sẽ được đề xuất. Câu hỏi nghiên cứu: Điều dưỡng nhận thức như thế nào về việc chăm sóc cho người bị nhiễm HIV PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu bán định tính với công cụ hướng dẫn phỏng vấn gồm 15 câu hỏi mở được sử dụng để tìm hiểu những nhận thức nhân viên điều dưỡng chăm sóc trực tiếp cho người nhiễm HIV tại khoa nhiễm E, Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TpHCM cũng như những yếu tố tác động đến việc chăm sóc của họ đến những bệnh nhân này. Đối tượng nghiên cứu Tất cả 27 nhân viên điều dưỡng chịu trách nhiệm chăm sóc trực tiếp người nhiễm HIV/AIDS tham gia vào nghiên cứu này. Những tiêu chí của người tham gia nghiên cứu bao gồm: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 204 Phải có bằng tốt nghiệp điều dưỡng. Phải chăm sóc trực tiếp cho người nhiễm HIV/AIDS. Phải có ít nhất 6 tháng làm việc tại khoa nhiễm E. Thời gian nghiên cứu Thực hiện từ tháng 2 đến tháng 3 năm 2010. Thu thập dữ liệu Công cụ hướng dẫn nghiên cứu Công cụ hướng dẫn nghiên cứu được thực hiện dựa trên nghiên cứu trước đây của Ria Smit vào năm 2004. Nhận thức của điều dưỡng về việc chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS được chia làm 6 đề mục khác nhau. Đó là (a) Những kinh nghiệm liên quan đến việc chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS; (b) Những vấn đề liên kết giữa sợ hãi và HIV/AIDS; (c) HIV/AIDS và cuộc sống của mỗi cá nhân; (d) HIV/AIDS và môi trường làm việc; (e) Những kiến thức và giáo dục liên quan đến HIV/AIDS; và (f) đề mục mở. Quá trình thu thập dữ kiện Hai người điều dưỡng hành chính (đã từng chăm sóc bệnh nhân HIV trước đây) được mời vào nghiên cứu thử nghiệm. Cả hai người này đều hiểu rõ và đúng 15 câu hỏi trong công cụ hướng dẫn nghiên cứu. Theo Notter (2010)(5), những thông tin họ cung cấp thực sự rất có giá trị, nên từ thông tin của nghiên cứu thử nghiệm, nội dung của câu trả lời cũng được bao gồm trong nghiên cứu chính. Thời gian phỏng vấn kéo dài từ 16 phút đến 114 phút khác nhau cho mỗi cá nhân thông qua các bước như sau: giới thiệu mục đích nghiên cứu và việc bảo mật thông tin phỏng vấn, trả lời câu hỏi nếu có thắc mắc, ký tên đồng ý tham gia nghiên cứu, phỏng vấn và ghi âm cuộc phỏng vấn và cuối cùng, người tham gia nghiên cứu trả lời thông tin cá nhân. Xử lý và phân tích dữ liệu Kết quả từ các cuộc phỏng vấn được ghi âm, gỡ băng và chọn lọc ý giống nhau thành các đề mục dưới sự hỗ trợ của chương trình F4. Sau đó so sánh với các nghiên cứu trước đây và khám phá thêm các quan niệm khác biệt từ việc chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS của điều dưỡng Việt Nam. Vấn đề y đức Nghiên cứu được sự cho phép của Ban Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới. Tất cả các đối tượng được thông báo mời tham gia nghiên cứu. Sau đó từng đối tượng được giải thích về mục tiêu nghiên cứu, quyền được bảo mật thông tin và quyền được rút khỏi nghiên cứu tại bất kỳ thời điểm nào. Cả đối tượng tham gia nghiên cứu và người làm nghiên cứu đều ký tên vào phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu và mỗi người giữ một bản. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm của người tham gia nghiên cứu 27 điều dưỡng tham gia vào nghiên cứu này, trong đó tỷ lệ nam và nữ lần lượt là 9 (33,3%) và 18 (66,7%). Các điều dưỡng viên trẻ trong độ tuổi từ 22 đến 30 là lực lượng lao động chính tại nhiễm E với 18 (66,7%) trên tổng số. Đặc biệt hơn nữa là trên 50% (51,8%) tổng số điều dưỡng tại đây là những điều dưỡng vừa tốt nghiệp ra trường được một hoặc hai năm. Cũng vì tuổi còn trẻ nên số điều dưỡng còn độc thân hoặc đang có người yêu lên đến 62,9%; 33,3% còn lại đã có gia đình. Và một trường hợp đã ly dị do người bạn đời kỳ thị với công việc chăm sóc người nhiễm HIV của người điều dưỡng. Hầu hết các điều dưỡng có bậc học là trung cấp (81,4%), phần còn lại là sơ cấp. 18 điều dưỡng chưa từng được đào tạo chuyên môn về chăm sóc bệnh nhân HIV ngoại trừ 4 tiết lý thuyết trong chương trình giảng dạy điều dưỡng tại trường. Vấn đề này đã đưa người điều dưỡng, đặc biệt là điều dưỡng trẻ đến việc thiếu kiến thức về việc chăm sóc bệnh nhân HIV và có nguy cơ cao trong phơi nhiễm nghề nghiệp. 6 người làm việc lâu hơn đã được bệnh viện tập huấn về phơi nhiễm nghề nghiệp và 3 trưởng ca hiện thời đã được các chuyên gia về HIV của các Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 205 tổ chức thế giới như UNAIDS hoặc HAIVN tập huấn chuyên về chăm sóc người nhiễm HIV. Đa số các điều dưỡng trẻ chưa từng làm việc tại nơi khác trước khi công tác tại nhiễm E. Ngược lại, các điều dưỡng viên kỳ cựu đã có nhiều năm kinh nghiệm làm việc tại nơi khác trước khi chăm sóc cho đối tượng bệnh nhân này. Kinh nghiệm liên quan đến việc chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS Nghiên cứu này đã thêm vào các nghiên cứu về HIV và chuyên ngành điều dưỡng của Việt Nam cũng như trên toàn thế giới thông qua việc xác định những quan niệm khác nhau của điều dưỡng chăm sóc bệnh nhân HIV. Hơn nữa, nghiên cứu này đã thêm vào y văn một bức tranh về việc chăm sóc bệnh nhân HIV của điều dưỡng tại một chuyên ngành chăm sóc sức khoẻ đặc biệt tại Việt Nam. Thông qua nghiên cứu, quan niệm và kinh nghiệm của người điều dưỡng được xếp vào 10 chủ đề và phân ra thành hai mảng chính: tích cực và tiêu cực. Các quan niệm và kinh nghiệm tích cực Hạnh phúc và lý thú Một số người điều dưỡng tại khoa nhiễm E chia sẽ kinh nghiệm về việc cảm thấy được động viên và hạnh phúc khi làm công việc này. Theo họ, hơn một nửa bệnh nhân HIV là những thành phần bất hảo. Trong số đó, có một số người đã nghe theo lời khuyên của nhân viên y tế tại đây mà thay đổi hành vi, trở lại thành một người tốt cho xã hội. Điều dưỡng cảm thấy như được tặng thưởng khi bệnh nhân cảm kích đối với sự chăm sóc của mình, cũng giống như trong nghiên cứu của Smit (2004)(8). McCann (1997)(4) đã báo cáo về việc điều dưỡng đã có những cơ hội được học những thông tin mới và lý thú về tâm thần học và y sinh học trong quá trình chăm sóc người nhiễm HIV. Đồng cảm Gần một nửa điều dưỡng đã bày tỏ sự đồng cảm và tội nghiệp đến những người bị nhiễm HIV/AIDS. Rất nhiều ca, họ đã bày tỏ sự chia sẽ đối với những đau khổ và hạnh phúc của bệnh nhân. Điều dưỡng cũng ghi nhận về các đường lây truyền của HIV ở bệnh nhân của mình. Họ đưa ra sự khác biệt của cái gọi là “tự chuốt lấy” và “nạn nhân vô tội”. Khác với Smit (2004)(8), việc nhìn nhìn thấy người bệnh đau đớn đã chạm vào sâu thẳm tâm hồn của người điều dưỡng, họ cảm thấy đồng cảm, muốn được chia sẽ cùng người bệnh. Chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS hoàn toàn giống như chăm sóc những bệnh nhân mắc bệnh khác Tất cả các điều dưỡng đều nhận thấy việc chăm sóc người nhiễm HIV hoàn toàn giống như việc chăm sóc những bệnh nhân khác. Họ thừa nhận rằng lúc mới bắt đầu làm việc tại đây, họ có sự ngần ngại vì sợ nhiễm HIV. Theo thời gian, họ nhận thấy không có điều gì khác biệt An toàn hơn Hầu hết người tham gia nghiên cứu đều cảm thấy an toàn hơn khi chăm sóc người đã biết rõ là dương tính với HIV. Điều duy nhất họ chỉ cần làm là “cứ làm cẩn thận, không có gì phải vội”. Họ thường nói rằng “nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất”. Quan điểm này cũng ảnh hưởng đến những nhân viên trẻ mà đã tình nguyện đăng kí xuống làm việc tại khoa nhiễm E. Một nam điều dưỡng với hơn 2 năm trong nghề chăm sóc bệnh nhân HIV nói: “Ở chỗ khác, mình đâu có biết bệnh nhân có bị nhiễm HIV hay không. Thậm chí người ta còn chả chú ý gì tới HIV cả nên dễ làm ẩu lắm. Chính chỗ đó làm cho nguy cơ phơi nhiễm HIV lên cao.” Trách nhiệm Ý thức về trách nhiệm đã khiến cho các điều dưỡng đồng ý để chăm sóc cho bệnh nhân HIV. Bên cạnh đó, họ cũng đề cập đến nhiệm vụ của người làm công việc chăm sóc. Thông qua nghiên cứu này, nhiều quan niệm tích cực mà điều dưỡng cảm nhận được trong quá trình chăm sóc bệnh nhân HIV được khám phá thêm. Việc cảm thấy việc chăm sóc bệnh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 206 nhân HIV cũng giống như chăm sóc những bệnh nhân khác có thể cho thấy những người điều dưỡng này đã không còn sự kỳ thị đối với HIV và người nhiễm. Cảm giác an toàn hơn so với chăm sóc những bệnh nhân ở những nơi khác cho thấy mối quan tâm về phòng ngừa HIV trong chăm sóc của điều dưỡng. Đặc biệt, cảm giác có trách nhiệm, bổn phận đối với những bệnh nhân HIV/AIDS là điều rất khuyến khích trong giai đoạn ngày nay. McCann (1997)(4) đã báo cáo về bổn phận của việc chăm sóc mà bác sỹ và điều dưỡng cảm nhận trong nghiên cứu của mình như sau “bổn phận chăm sóc như là một ... như một điểm yếu của mình. Những vấn đề liên kết giữa HIV và sự sợ hãi Đầu tiên là cảm giác sợ bị nhiễm HIV, dần dần họ quen. Cảm giác sợ hãi dường như tan biến mất. Tuy nhiên, cảm giác đó lại trở lại trong những lần họ bị phơi nhiễm nghề nghiệp. Thứ nhì, trong rất nhiều trường hợp, điều dưỡng sợ những bệnh nhiễm trùng cơ hội từ bệnh nhân. Một số nhân viên đã bị nhiễm nấm candidas, bị hespes zoster trong quá trình chăm sóc những bệnh nhân này. Họ không những lo lắng cho bản thân của họ mà còn sợ sẽ lây những bệnh nhiễm trùng cơ hội này cho những đứa con nhỏ ở nhà của họ. Thứ ba, nhiều ca bề ngoài trông rất đáng sợ như hội chứng Steven Johnson hay bị hội chứng suy mòn. Nhiều nhân viên mới kể rằng họ rất sợ khi lần đầu nhìn thấy những bệnh nhân như vậy. Thậm chí họ còn không dám tới gần để chăm sóc. Tuy nhiên, nhìn riết cũng quen, bây giờ, họ cảm thấy những bệnh nhân như vậy là bình thường. Vấn đề cuối cùng rất đáng để lưu tâm đó là việc điều dưỡng sợ người bệnh và thân nhân sẽ làm hại họ. Do đó, để giảm thiểu những nguy hiểm, điều dưỡng phải mời thân nhân ra ngoài khi họ cần chăm sóc cho bệnh nhân. Cảm giác sợ hãi đã được đề cập đến trong nhiều bài báo khác nhau liên quan đến HIV. Các nhân viên y tế tại Việt Nam trong nghiên cứu của Gaudine (2008)(3) trình bày về việc sợ bị nhiễm HIV khi ở gần người nhiễm thậm chí khi họ đã biết rõ đường lây truyền. Mặc dầu đã ý thức về quy trình xử lý phơi nhiễm nghề nghiệp, điều dưỡng vẫn còn rất sợ việc bị nhiễm HIV sau mỗi lần lỡ bị kim đâm. Đặc biệt những người điều dưỡng trẻ từng chăm sóc bệnh nhân trong quá trình thực tập lại cảm thấy ít sợ hơn khi đi làm rất nhiều. Vấn đề này cũng được McCann (1997)(4) báo cáo. Ngoài việc sợ bị lây nhiễm HIV, điều dưỡng còn gặp khó khăn trong việc bảo vệ họ khỏi lao phổi và những nhiễm trùng cơ hội khác. Hơn thế nữa, điều dưỡng rất lo sợ việc bệnh nhân cố tình lây bệnh cho mình trong quá trình họ truyền dịch cho bệnh nhân. Hai nỗi sợ cuối cùng này đã từng được báo cáo trong nghiên cứu của Ehlers (2006)(2) và Smit (2004)(8). HIV và cuộc sống cá nhân HIV/AIDS và việc chăm sóc cho những bệnh nhân này đã ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân của nhiều điều dưỡng. Gia đình, bạn bè và những người xung quanh đã ít nhiều tác động đến công việc của họ. Chỉ rất ít gia đình đã đồng ý hay ủng hộ cho những người điều dưỡng trẻ làm công việc chăm sóc bệnh nhân HIV, mà ngược lại hầu hết đều phản đối. Vì vậy, điều dưỡng phải đối diện với áp lực của gia đình, ngoài ra, bạn bè và đồng nghiệp cũng tác động đến điều dưỡng “tụi bạn em gọi em là y tá sida”. Và cuối cùng, những người xung quanh cũng tác động không ít “người ta sợ căn bệnh thế kỷ này, vì vậy người ta sợ luôn những ai chăm sóc cho bệnh này.” Mặc dù đã có nhiều chiến dịch về giảm phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV trên khắp cả nước, thực tế vẫn còn nhiều người cần có thời gian để thay đổi quan niệm của họ. Đặc biệt là, việc phân biệt đối xử lại tồn tại ngay trong chính những người nhân viên y tế, những người biết rất rõ đường lây truyền của căn bệnh này, khiến cho cuộc sống của những người trực tiếp chăm sóc người nhiễm HIV đã bị tác động rất nhiều (Gaudine (2008)(3), McCann (1997)(4), Smit (2004)(8)). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 208 HIV và môi trường làm việc Tất cả nhân viên điều dưỡng đều đồng ý rằng họ có một nơi làm việc đẹp, thoáng. Đây là toà nhà mới xây lại được 9 tháng, được thiết kế chuyên biệt dành cho việc chăm sóc bệnh nhân HIV. Tiếp theo, hầu hết nhân viên cũ cũng đồng ý rằng dụng cụ dùng để chăm sóc bệnh nhân bây giờ đã được cung cấp nhiều hơn xưa rất nhiều. Tuy nhiên, có một vài vật tư cần phải được thay thế sớm. Các điều dưỡng trong nghiên cứu của Smit (2004)(8) lại không được may mắn như thế, họ phải đối mặt với tình trạng thiếu rất nhiều trang thiết bị bảo hộ lao động như găng tay, khẩu trang Đồng nghiệp là yếu tố môi trường làm việc thứ ba tác động mạnh đến điều dưỡng. Đồng nghiệp ở đây bao gồm các điều dưỡng khác trong cùng một ca, hộ lý, bác sỹ và lãnh đạo khoa. Nhiều điều dưỡng trẻ khẳng định rằng họ muốn làm việc ở đây mãi vì môi trường làm việc thân thiện. Thứ tư là lương bổng. Về vấn đề này, mức lương cao hơn. Đây cũng là một khuyến khích để điều dưỡng ở lại với nghề. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, điều dưỡng cảm nhận rằng những người đồng nghiệp ở các khoa khác vẫn còn phân biệt đối xử với HIV/AIDS. Kiến thức và giáo dục liên quan đến HIV Hầu hết những nhân viên cũ đã được tham dự các khoá huấn luyện về HIV do bệnh viện tổ chức cách đây vài năm. Đặc biệt ba vị trưởng ca hiện thời đã được chuyên gia quốc tế về HIV đào tạo chính quy. Họ bày tỏ lợi ích của những khoá học đó như sau: “cảm thấy rất tự tin khi chăm sóc cho người nhiễm HIV, có thể hỗ trợ cho đồng nghiệp của mình, có nhiều mối quan hệ rộng rãi và biết một số tổ chức từ thiện để hỗ trợ bệnh nhân.” Ngược lại, chỉ một số rất ít nhân viên trẻ có cơ hội được học về phơi nhiễm nghề nghiệp do lãnh đạo bệnh viện tổ chức. Chỉ một phần ba người tham gia nghiên cứu trả lời đúng với quy trình xử lý phơi nhiễm nghề nghiệp hiện giờ. Hai phần ba còn lại, bao gồm cả những nhân viên cũ đã cho đáp án sai khi xử lý phơi nhiễm đối với nghề nghiệp. Oyeyemi (2006)(6) đã chứng minh rằng, sự thiếu hiểu biết về AIDS sẽ đưa đến những thái độ tiêu cực về bệnh nhân HIV. Điều mà điều dưỡng lưu ý nhiều nhất đối với việc phơi nhiễm với HIV là những cây kim đã được sử dụng cho bệnh nhân. Cẩn thận quản lý dịch tiết của bệnh nhân cũng là điều mà hầu hết điều dưỡng đã làm. Tình trạng tri giác của bệnh nhân cũng là điểm mà những điều dưỡng giàu kinh nghiệm chú ý đến, bởi sự không hợp tác của bệnh nhân chính là nguyên nhân hay gây ra tai nạn nghề nghiệp cho nhân viên y tế. Nhân viên điều dưỡng, mà chủ yếu là người trẻ, bày tỏ mong muốn được học về HIV, bởi vì “nó giúp bảo vệ cho em”, “để chăm sóc bệnh nhân tốt hơn”, “để hiểu bệnh nhiều hơn”. Nguồn thông tin mà điều dưỡng thường nhận được là từ những người đồng nghiệp lâu năm, từ bác sỹ, từ những người bạn trong ngành, từ bệnh nhân và từ chính bài học của bản thân. Một trưởng tua chia sẽ “Một số bệnh nhân giỏi lắm. Mình học từ họ và áp dụng cho những bệnh nhân khác”. Nhiều điều dưỡng trẻ cho biết họ hầu như không có tài liệu để đọc về HIV. KẾT LUẬN Điều dưỡng cảm nhận nhiều thái độ tích cực về việc chăm sóc bệnh nhân HIV. Chính những thái độ này đã giúp họ hăng say làm việc. Ngược lại, những cảm xúc tiêu cực cũng được đề cập đến. Một vài trong số những tiêu cực này có liên quan đến sự thiếu kiến thức về HIV và cách chăm sóc, và dĩ nhiên, ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc bệnh nhân. Điều dưỡng cảm thấy sợ không những từ việc sợ bị nhiễm HIV mà còn những bệnh nhiễm trùng cơ hội, bị hãm hại bởi bệnh nhân và về tình trạng của người bệnh. Cuộc sống cá nhân của họ bị ảnh hưởng, đặc biệt là người trẻ. Mặc dù môi trường làm việc đã tạo nhiều điều kiện để điều dưỡng có thể làm việc nhưng mà nó vẫn cần được cải thiện Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 209 thêm. Kiến thức và giáo dục liên quan đến HIV/AIDS được xem là điểm yếu cho hầu hết nhân viên trẻ, lực lượng lao động chính trong tương lai của nhiễm E. KIẾN NGHỊ Đầu tiêu, điều dưỡng nhận thấy việc mình bị thiếu kiến thức về lĩnh vực chuyên môn đã đem lại tác động xấu đến chất lượng chăm sóc cho những người nhiễm HIV. Một chương trình huấn luyện chuyên môn dành cho điều dưỡng của khoa nên được tiến hành càng sớm càng tốt. Nội dung của chương trình được đính kèm trong bảng mục lục được rút ra từ đề xuất của điều dưỡng và từ chương trình huấn luyện chuyên môn của tổ chức y tế thế giới. Đó là những nội dung thiết thực nhất mà điều dưỡng cần phải nắm vững để có thể chăm sóc người bệnh tốt hơn. Thứ hai, sinh viên điều dưỡng nên có cơ hội được thực hành tại những cơ sở chăm sóc cho bệnh nhân nhiễm HIV để giảm sự sợ hãi khi gặp trên thực tế công việc. Kỳ thị và phân biệt đối xử đối với HIV từ đó cũng được giảm dần trong nhân viên điều dưỡng. Vì thế, việc thực hành tại các cơ sở chăm sóc bệnh nhân HIV nên được bao gồm vào trong chương trình học không những của sinh viên điều dưỡng mà còn của các sinh viên ngành y khác. Thứ ba, điều dưỡng trải nghiệm bản thân như là nạn nhân của sự phân biệt đối xử với HIV, thậm chí ngay chính trong bệnh viện của họ. Lãnh đạo bệnh viện nên có những hội thảo để giảm sự kỳ thị này trong toàn thể nhân viên của bệnh viện. Thứ tư, một số trang thiết bị quan trọng cần dùng cho việc chăm sóc bệnh nhân được báo cáo rằng đã hư tổn. Việc cung cấp các trang thiết bị mới để cho việc chăm sóc bệnh nhân được tốt hơn cần được tiến hành càng sớm càng tốt. Cuối cùng, vì đây chỉ là một nghiên cứu mang tính chất nhỏ; việc nhân rộng kết quả vì thế bị giới hạn. Nhiều nghiên cứu nên được đầu tư vào lãnh vực này để nhận xét toàn diện hệ thống điều dưỡng của Việt Nam. Qua đó, giúp cho việc cải thiện hệ thống điều dưỡng Việt Nam được tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Effa-Heap G (1997). The attitude of Nigerian nurses to HIV / AIDS patients at University College Hospital, Ibadan. Societes D'afrique Et Sida. Retrieved in Oct 27th, 2009 from 2. Ehlers VJ (2006), Challenges nurses face in coping with the HIV/AIDS pandemic in Africa. International Journal of Nursing Studies, 43, 656 – 662. 3. Gaudine A, Gien L, Thuan TT, Dung DV (2009). Perspectives of HIV-related stigma in a community in Vietnam: A qualitative study. International Journal of Nursing`Studies, In Press, Corrected Roof. 4. McCann TV (1997). Willingness to provide care and treatment for patients with HIV/AIDS. Journal of advanced nursing, 25, 1033 – 1039. 5. Notter J (2010). Workbook research. Enschede: Saxion University of Applied science, 43-46 6. Oyeyemi A, Oyeyemi B, Bello I (2006), Caring for patients living with AIDS: knowledge, attitude and global level of comfort. Journal of Advanced Nursing, 53:1, 196 – 204 7. Parker R, Aggleton P (2003). HIV & AIDS related stigma and discrimination: a conceptual framework and implications for action. Social science medicine, 57:1, 13 – 24. 8. Smit R (2004). HIV/AIDS and the workplace: perceptions of nurses in a public hospital in South Africa. Journal of Advanced Nursing, 51(1), 22–29 9. UNAIDS (2009). 2008 report on global AIDS epidemic. Retrieved on October 11th, 2009 from: 10. WHO (2008). The top ten causes of death in the world. Retrieved on October 11th, 2009 from: ml. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 210 ETIOLOGIC AGENTS AND EMPIRIC THERAPEUTIC ANTIBIOTICS IN INFECTIVE ENDOCARDITIS ................ 144 Tran Cong Duy, Truong Quang Binh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 144 - 148 ............. 144 MANAGEMENT OF ASTHMA ASHESED TO GINA IN TIEN GIANG PROVINCE ................................................... 149 Tran Thanh Hai, Ta Van Tram * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 149 - 153 ...................... 149 ACTUAL SITUATION OF BRONCHIAL ASTHMA IN TIEN GIANG PROVINCE ...................................................... 155 Ta Van Tram * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 154 - 159 ................................................ 155 EVALUATE THE EFFECTS OF INTERMAXILLARY FIXATION IN GENERAL HEALTH OF THE TRAETING MAXILLOFACTIAL – PATIENTS AT CAN THO CENTRAL GENERAL HOSPITAL ................................................. 161 Le Hoang Hanh, Ta Van Tram, Truong Nhut Khue * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 160 - 164................................................................................................................................................................................... 161 EGFR AND KRAS MUTATIONS IN PATIENTS WITH NON-SMALL CELL LUNG CANCER ................................... 166 Hoang Anh Vu, Cao Van Dong, Ngo Thi Tuyet Hanh, Dang Hoang Minh, Phan Thi Xinh, Hua Thi Ngoc Ha * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 165 - 171 ............................................................................................... 166 A SURVEY EXPLORING THE COGNITIVE AND ATTITUDE OF STUDENTS ABOUT A NEW TEACHING METHOD: TEACHING THEORY IN SMALL GROUP ................................................................................................. 173 Đoan Thi Anh Le, Nguyen Thi Phuong Lan, Tran Thi Hong Tham Pham Thi Anh Huong, Tran My Binh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 172 - 176 ..................................................................................................... 173 STRESS, COPING BEHAVIORS AND SELF-ESTEEM OF NURING STUDENTS IN VIET NAM ............................... 178 Nguyen Thi Ngọc Phương, Truong Minh Hoang Oanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 177 - 182................................................................................................................................................................................... 178 KNOWLEDGE, ATTITUDE ON SOFTSKILLS OF STUDENTS OF TIEN GIANG MEDICAL COLLEGE .................. 184 Ta Van Tram, Tran Thanh Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 183 - 188 ...................... 184 RELATIONSHIP BETWEEN KNOWLEDGE AND ATTITUDE TOWARD SEXUALITY AMONG VIETNAMESE IMMIGRANT WOMEN IN SOUTH KOREA ................................................................................................................. 190 Nguyen Ho Phuong Nga * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 189 - 193 ............................... 190 THE ACCURACY OF GLASGOW COMA SCALE (GCS) KNOWLEDGE AND PERFORMANCE AMONG NURSES ........................................................................................................................................................................................ 195 Nguyen Thi Hien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 194 - 200 .......................................... 195 AN EXPLORATIVE STUDY REGARDING TO NURSING PERCEPTIONS IN CARING FOR HIV POSITIVE INDIVIDUALS. ............................................................................................................................................................... 202 Truong Minh Hoang Oanh, Cao Ngoc Nga, Ria Lohuis-Heesink * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 201 - 208 ................................................................................................................................................................ 202
File đính kèm:
- quan_niem_cua_dieu_duong_doi_voi_viec_cham_soc_nguoi_nhiem_h.pdf