Phục hồi và quản lý rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng tại huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa

Tóm tắt: Hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM) tồn tại ở vùng chuyển tiếp giữa môi trường biển và đất

liền. Tuy vậy, cũng như nhiều nơi trên thế giới, rừng ngập mặn tại xã Đa Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh

Thanh Hóa đã bị chặt phá nghiêm trọng. Hậu quả là cơn bão Damrey năm 2005 đã quét qua đê biển

gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống xã hội và kinh tế của người dân. Nhận thức được những vai trò

đó, một diện tích 200 ha RNM đã được phục hồi tại vùng ven biển xã Đa Lộc với phương thức quản lý

dựa vào cộng đồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy 100% số người tham gia đánh giá này đều có nhận xét

tích cực về hiệu quả của hoạt động trồng, phục hồi và bảo vệ rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương.

Về mặt môi trường, 97% người dân cho biết thiệt hại từ bão ít hơn kể từ khi có rừng trở lại. Xét về yếu

tố phát triển kinh tế, có 57% người dân cho biết thu nhập của họ đã tăng lên kể từ khi rừng ngập mặn

được phục hồi với giá trị kinh tế mang lại từ RNM là 65 triệu đồng/ha/năm. Hoạt động phục hồi RNM

dựa vào cộng đồng đã đem lại những hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội cho cộng đồng địa phương có

rừng và những bài học bổ ích trong quản lý RNM

pdf 7 trang phuongnguyen 840
Bạn đang xem tài liệu "Phục hồi và quản lý rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng tại huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phục hồi và quản lý rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng tại huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa

Phục hồi và quản lý rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng tại huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 69 (6/2020) 43 
BÀI BÁO KHOA HỌC 
PHỤC HỒI VÀ QUẢN LÝ RỪNG NGẬP MẶN DỰA VÀO 
CỘNG ĐỒNG TẠI HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH THANH HÓA 
Nguyễn Thị Kim Cúc1, Hà Thị Hiền1 
Tóm tắt: Hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM) tồn tại ở vùng chuyển tiếp giữa môi trường biển và đất 
liền. Tuy vậy, cũng như nhiều nơi trên thế giới, rừng ngập mặn tại xã Đa Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh 
Thanh Hóa đã bị chặt phá nghiêm trọng. Hậu quả là cơn bão Damrey năm 2005 đã quét qua đê biển 
gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống xã hội và kinh tế của người dân. Nhận thức được những vai trò 
đó, một diện tích 200 ha RNM đã được phục hồi tại vùng ven biển xã Đa Lộc với phương thức quản lý 
dựa vào cộng đồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy 100% số người tham gia đánh giá này đều có nhận xét 
tích cực về hiệu quả của hoạt động trồng, phục hồi và bảo vệ rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương. 
Về mặt môi trường, 97% người dân cho biết thiệt hại từ bão ít hơn kể từ khi có rừng trở lại. Xét về yếu 
tố phát triển kinh tế, có 57% người dân cho biết thu nhập của họ đã tăng lên kể từ khi rừng ngập mặn 
được phục hồi với giá trị kinh tế mang lại từ RNM là 65 triệu đồng/ha/năm. Hoạt động phục hồi RNM 
dựa vào cộng đồng đã đem lại những hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội cho cộng đồng địa phương có 
rừng và những bài học bổ ích trong quản lý RNM. 
Từ khóa: rừng ngập mặn, phục hồi rừng ngập mặn, dựa vào cộng đồng 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Rừng ngập mặn là hệ sinh thái nằm ở vùng 
chuyển tiếp giữa đất liền và biển. Rừng được biết 
đến là một hệ sinh thái hết sức quan trọng, cung 
cấp các dịch vụ cho nhu cầu cuộc sống của cộng 
đồng dân cư ven biển thông qua chức năng cung 
cấp, chức năng điều chỉnh, chức năng thông tin và 
chức năng hỗ trợ (Cúc và Erik, 2013; Alongi, 
2008, 2009; Millenium Ecosystem Assessment, 
2005; Phan Nguyên Hồng, 1999). Như vậy, duy 
trì và phát triển hệ sinh thái RNM được coi là một 
trong những giải pháp thích nghi và giảm thiểu tác 
động của biến đổi khí hậu (Cúc và Erik, 2013). 
Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, 
rừng ngập mặn đã bị chặt bỏ để nhường chỗ cho 
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các dự 
án cơ sở hạ tầng, du lịch và nuôi trồng thủy sản. 
Tuy nhiên, trước các thảm họa thiên nhiên gần 
đây và mối đe dọa ngày càng tăng đối với sự phát 
triển bền vững của các vùng ven biển từ biến đổi 
khí hậu, các chương trình trồng và tái sinh rừng 
ngập mặn đã được quan tâm. Nhiều diện tích 
1 Khoa Hóa và Môi trường, Trường Đại học Thủy lợi 
RNM đã được trồng lại để bảo vệ an toàn bờ biển, 
duy trì đa dạng sinh học, đồng thời mang lại sinh 
kế cho người dân địa phương (CARE, 2008). Tại 
xã Đa Lộc, huyện Hậu Lộc, cơn bão Damrey năm 
2005 đã quét qua đê biển và làm ngập các ngôi 
làng ven biển. Sự tàn phá đối với môi trường nông 
nghiệp là rất nghiêm trọng, đất trồng bị axit hóa 
do sự tích tụ muối và không thể trồng trọt được 
trong nhiều năm. Người dân địa phương phải rời 
khỏi cộng đồng để tìm kiếm công việc được trả 
lương ở nơi khác. Các ảnh hưởng kéo dài này có 
tác động đến ổn định xã hội. Sau cơn bão, người 
dân địa phương, chính quyền và các cơ quan viện 
trợ đã nhận ra một bài học rõ ràng về chức năng 
và giá trị của rừng ngập mặn. Những nơi rừng 
ngập mặn còn được bảo vệ nguyên vẹn hoặc chỉ 
mới được trồng khoảng 10 năm trước, đê biển 
không bị hư hại và do đó các vùng đất canh tác lúa 
và hoa màu của người dân được bảo vệ. 
Nhận thức được vai trò quan trọng của RNM, 
với sự hỗ trợ của một số tổ chức phi chính phủ, 
chính quyền và cộng đồng dân cư địa phương đã 
nỗ lực phục hồi và bảo vệ RNM. Mục tiêu của 
nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả từ hoạt động 
 KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 69 (6/2020) 44 
phục hồi và bảo vệ RNM tại xã Đa Lộc, huyện 
Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. 
2. ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Địa điểm nghiên cứu 
Xã Đa Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa có 
khoảng 300 ha rừng ngập mặn (IFRC, 2010). 
Người dân địa phương sinh sống chủ yếu dựa vào 
sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, một 
bộ phận người dân làm lao động tự do ở một số 
thành phố lớn. Rừng ngập mặn ở đây chủ yếu là 
rừng trồng từ các chương trình quốc gia hoặc các 
tổ chức phi chính phủ với mục tiêu phục hồi rừng 
ngập mặn và cải thiện sinh kế cho người dân địa 
phương. Hiện nay, rừng ngập mặn chưa chính 
thức giao cho xã và thôn quản lý. Tuy nhiên, xã 
vẫn giám sát các hoạt động liên quan đến quản lý 
và phát triển rừng ngập mặn. 
Mục đích của hoạt động phục hồi rừng ngập mặn 
là trồng lại 200 ha rừng Trang (Kandelia obovata; 
trồng năm 2007-2008) để bảo vệ đê biển ở xã Đa 
Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, với các lợi ích 
của phục hồi sinh thái là cải thiện sinh kế liên quan 
đến phục hồi đa dạng sinh học dưới dạng thủy sản 
ven biển và các sản phẩm biển khác (Hình 1). Sau 
đó, cây Bần (Sonneratia caseolris) đã được trồng 
xen vào diện tích đã trồng cây Trang làm tăng đa 
dạng về tầng tán và đa dạng loài thực vật trong vùng. 
Hình 1. Bản đồ vị trí nghiên cứu tại xã Đa Lộc, 
huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa 
Rừng ngập mặn mới trồng đang phát triển tốt. 
Sự tồn tại và phát triển lâu dài của diện tích rừng 
trồng này sẽ phụ thuộc vào hành động của người 
dân địa phương và điều kiện môi trường, khí hậu. 
Rừng ngập mặn vẫn dễ bị ảnh hưởng bởi thời tiết 
như nhiệt độ thấp vào mùa đông, nhiệt độ quá cao 
và mùa hè, hoặc bão ven biển, đặc biệt là các khu 
vực rừng được trồng lại vào năm 2009-2012. Mặc 
dù một số người dân địa phương tin rằng, diện tích 
rừng trồng vẫn thực sự đảm nhận vai trò là hàng 
rào chắn sóng bảo vệ cho đê biển, người dân và 
chính quyền địa phương mong muốn có thêm nhiều 
diện tích rừng được trồng và tăng mức độ đa dạng 
tầng, tán và thành phần loài. Trong các diện tích 
rừng ngập mặn đã trồng, rừng 13 năm tuổi đã phần 
nào đảm nhận nhiệm vụ chắn sóng vùng bờ biển và 
thúc đẩy đa dạng sinh học, tăng thu nhập và cải 
thiện sinh kế của một bộ phận dân cư địa phương. 
Cộng đồng (ở đây được định nghĩa là cư dân 
thuộc 06 thôn nghiên cứu trong xã Đa Lộc) có vai 
trò quan trọng trong quản lý và bảo vệ rừng ngập 
mặn. Ban quản lý cộng đồng (BQLCĐ) chịu trách 
nhiệm hàng ngày về việc tổ chức người dân địa 
phương thành các nhóm khác nhau cho hoạt động 
ươm, trồng, duy trì và bảo vệ rừng. Gần đây, thành 
viên Ban quản lý cộng đồng đã được cấp huyện phê 
duyệt để quản lý và hưởng lợi từ rừng ngập mặn. 
Rừng ngập mặn được phân loại là Rừng phòng hộ 
và do đó là tài nguyên thuộc sở hữu nhà nước. Người 
dân địa phương, bao gồm đại đa số không thuộc 
BQLCĐ, có sự quan tâm và nhiệt tình thực sự đối với 
dự án và tự hào thừa nhận rằng họ quản lý và bảo vệ 
rừng ngập mặn của họ. Cộng đồng không được trao 
quyền sở hữu rừng. Đó là một thách thức trong việc 
đưa ra các quyết định quan trọng liên quan đến rừng. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu đánh giá được thực hiện cuối năm 
2019. Nhóm nghiên cứu tiến hành phương pháp 
nghiên cứu định tính kết hợp định lượng dựa trên 
các bảng phỏng vấn, thảo luận nhóm và thảo luận 
với cán bộ chính quyền và ban ngành liên quan tại 
địa phương (JICA, 2016). Có bốn hình thức phỏng 
vấn và thảo luận được thực hiện trong quá trình khảo 
sát thực địa bao gồm: 
1. Biểu mẫu tự đánh giá: một biểu gồm sáu 
phần được gửi tới cán bộ địa phương và thành 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 69 (6/2020) 45 
viên của BQLCĐ, nhằm tìm kiếm phản hồi của họ 
về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và mối đe dọa 
liên quan đến việc phục hồi và quản lý rừng ngập 
mặn tại địa phương. 
2. Câu hỏi cộng đồng: một bộ gồm tám câu hỏi 
trắc nghiệm được gửi tới 100 người dân địa phương 
tại sáu thôn để cung cấp thông tin tổng quát quan 
điểm địa phương về rừng ngập mặn đã được phục 
hồi và phương pháp quản lý. 
3. Phỏng vấn cộng đồng: 24 cuộc phỏng vấn kéo 
dài từ 30 đến 60 phút đã được thực hiện tại sáu thôn. 
Các cuộc phỏng vấn cho phép nhóm đánh giá có 
được thông tin chi tiết về vai trò của việc phục hồi 
và quản lý rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng. 
4. Thảo luận nhóm: 06 nhóm thảo luận, mỗi 
nhóm gồm 10 người tham gia từ mỗi thôn. Các 
thành viên tham dự ngẫu nhiên, có quan tâm đến 
sự cân bằng giới tính và một loạt độ tuổi và mức 
độ tham gia vào hoạt động quản lý rừng ngập mặn 
dựa vào cộng đồng. Những người tham gia được 
yêu cầu thực hiện bốn nhiệm vụ sau đây: 
i) Mô tả tất cả các nguồn sinh kế sau cơn bão 
năm 2005 nhưng trước hoạt động phục hồi rừng 
ngập mặn; 
ii) Xếp hạng các nguồn sinh kế / thu nhập này 
theo mức độ quan trọng đối với toàn thôn; 
iii) Mô tả tất cả các nguồn sinh kế hiện tại; 
iv) Xếp hạng các nguồn sinh kế / thu nhập này 
theo mức độ quan trọng đối với toàn thôn; 
Kết quả thảo luận, phỏng vấn được xây dựng 
theo Sổ tay hướng dẫn Phát triển cộng đồng do Cơ 
quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản hỗ trợ và hợp tác 
với các Cơ quan, địa phương của Việt Nam (JICA, 
2016). Các số liệu được thu thập và xử lý trên 
phần mềm excel. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ 
THẢO LUẬN 
3.1. Đánh giá của cán bộ địa phương và ban 
quản lý cộng đồng 
Kết quả tổng hợp cho thấy 95% những người 
được hỏi trả lời cho rằng hoạt động phục hồi và 
bảo vệ rừng đã và đang được thực hiện tốt, 5% 
còn lại cho rằng rất tốt (Bảng 1). Điều quan trọng 
nhất là hoạt động đã nhận được các phản hồi tích 
cực. Hầu hết thành viên của ban quản lý dựa vào 
cộng đồng là những người được bầu chọn. Họ đã 
có kinh nghiệm và từng tham gia một số các hoạt 
động tương tự. Tuy nhiên, trong số những người 
được hỏi, ~ 37% số người còn bàng quan trước 
hoạt động phục hồi rừng tại địa phương. Nhìn 
chung, cán bộ địa phương và BQLCĐ được coi là 
nhiệt tâm với hoạt động phục hồi rừng. 
Bảng 1. Kết quả đánh giá của cán bộ địa phương và BQLCĐ 
Câu hỏi Tổng số % 
Rất tệ 0 0 
Tệ 0 0 
Trung bình 0 0 
Tốt 19 95,00 
1, Ông/Bà đánh giá như nào 
về hoạt động phục hồi và bảo 
vệ rừng ngập mặn tại địa 
phương? 
Rất tốt 1 5,00 
i) tham gia/được truyền thông về hoạt động 10 38,46 
ii) hoạt động được tổ chức bài bản 7 26,92 
2. Hay cho biết lý do Ông/Bà 
đưa ra câu trả lời trên? 
iii)Tỷ lệ sống của cây trồng 9 34,62 
i) tham gia/được truyền thông về hoạt động 14 66,67 
ii) Tập trung vào tăng sinh kế 1 4,76 
3. Hay cho biết những điểm 
mạnh của hoạt động phục hồi 
và bảo vệ rừng ở địa phương? iii) Hoạt động đúng thời điểm (sau trận bão kỷ 
lục tại địa phương) 6 28,57 
i)Hoạt động truyền thông, tập huấn, còn hạn chế 5 26,32 
ii) Cần nhóm quan trắc và đánh giá 4 21,05 
iii) Một số người dẫn vẫn chưa nhận thức được 
vai trò của rừng ngập mặn 7 36,84 
4. Những điểm yếu của hoạt 
động phục hồi và bảo vệ rừng 
ngập mặn ở địa phương? 
iv) Một số hoạt động còn chậm so với kế hoạch 3 15,79 
 KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 69 (6/2020) 46 
Câu hỏi Tổng số % 
i)Sự đồng thuận và hỗ trợ của chính quyền địa 
phương 9 29,03 
ii) Sự sẵn lòng tham gia của cộng đồng địa 
phương 16 51,61 
iii) Hiểu biết và kinh nghiệm trồng rừng của 
người dân 5 16,13 
5. Những nhân tố khách quan 
giúp hoạt động thành công 
iv) Đúng thời điểm 1 3,23 
i) Thời tiết 13 6,52 
ii) Côn trùng: Hà, sâu đục thân 2 8,70 
6. Những nhân tố khách quan 
làm giảm hiệu quả của hoạt 
động? iii) Mốt số người dân không đồng lòng 8 4,78 
Thời điểm khởi động các hoạt động trồng rừng 
tại xã Đa Lộc (2007-2008) là điểm thuận lợi của 
hoạt động phục hồi rừng tại đây. Cơn bão năm 
2005 đã gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống 
và sinh hoạt của cộng đồng. Vì vậy, việc khởi 
động hoạt động phục hồi rừng ngay sau cơn bão 
đã thu hút được sự quan tâm và đồng lòng của cả 
chính quyền các cấp và cộng đồng dân cư. Ngoài 
ra, việc tiếp cận thực hiện hoạt động dựa vào cộng 
đồng cũng là một điểm sáng dẫn đến thành công 
của hoạt động này. 
Trên cơ sở những phân tích kể trên, cán bộ địa 
phương còn đánh giá cao tinh thần trách nhiệm của 
người dân, thông qua trao đổi liên quan đến việc tự 
nguyện đóng góp (đóng góp bằng tiền mặt hoặc 
ngày công lao động tình nguyện) cho hoạt động 
phục hồi rừng ngập mặn ở địa phương. Trung bình, 
mỗi hộ gia đình sẵn sàng đóng góp tương đương với 
10.000 VNĐ/hộ gia đình/năm cho việc trồng và 
quản lý rừng ngập mặn ở địa phương. 
Nhìn chung, theo đánh giá của cán bộ địa phương 
và ban quản lý cộng đồng cho thấy, hoạt động phục 
hồi và bảo vệ rừng ngập mặn tại xã Đa Lộc đã và 
đang được thực hiện rất nhịp nhàng và bài bản, có sự 
đồng thuận cao giữa người dân và chính quyền. 
Hoạt động này được kỳ vọng sẽ tiếp tục phát triển 
rừng và ý thức bảo vệ rừng tại địa phương. 
3.2. Đánh giá của cộng đồng địa phương 
Kết quả tự trả lời bảng hỏi 
Có 95% bảng hỏi đã hoàn thành (trên 100 bảng 
hỏi phát ra) với các kết quả chính được trình bày 
trong Bảng 2. 
Bảng 2. Kết quả đánh giá của cộng đồng địa phương 
Câu hỏi Tổng số % 
Số Nam/tổng số 39/95 41,05 
Cải thiện 95 100,00 
Không thay đổi 0 - 
1) Hiểu biết của ông/bà về rừng ngập mặn 
thay đổi như thế nào từ năm 2005 đến nay? 
Tệ hơn 0 - 
Không 1 1,05 
Hai 94 98,95 
2) Có bao nhiêu loài cây ngập mặn được trồng 
tại địa phương ta từ năm 2005 đến nay? 
Bốn 0 - 
Tốt 40 42,11 
Không rõ 3 3,16 
3) Tại địa phương, rừng ngập mặn phát triển 
trong các đầm tôm như thế nào? 
Không phát triển 51 53,68 
Bảo vệ đê khỏi sóng, bão 0 - 
Nơi nuôi dưỡng thủy sinh vật 23 24,21 
Nuôi ong 3 3,16 
Cung cấp nước ngọt 82 86,32 
4) Rừng ngập mặn tại địa phương KHÔNG 
đem lại những lợi ích gì trong các lợi ích sau 
đây? 
Cung cấp gỗ và củi 23 24,21 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 69 (6/2020) 47 
Câu hỏi Tổng số % 
Có 94 98,95 
Không rõ 0 - 5) Ở đây Ban quản lý rừng không? 
Không 0 - 
Người dân địa phương bầu 92 96,84 
Không rõ 1 1,05 
6) Nếu có, Ban quản lý rừng được bầu như thế 
nào? 
UBND đề cử 0 - 
Tăng 54 56,84 
Không đổi 22 23,16 
7) Thu nhập của ông /bà và so với trước năm 
2005? 
Giảm 16 16,84 
Tăng 1 1,05 
Không đổi 1 1,05 
8) Từ năm 2005, địa phương có còn bị ảnh 
hưởng của lụt, bão nữa không? 
Giảm 92 96,84 
Kết quả tổng hợp chỉ ra 100% số người được 
hỏi cho rằng họ đã hiểu hơn về rừng ngập mặn, 
vai trò của rừng từ khi tham gia hoạt động phục 
hồi và quản lý rừng tại địa phương. Đặc biệt, có 
tới 86% số người đã xác định được chính xác các 
giá trị đích thực của rừng ngập mặn. 
Người dân cũng có những phản hồi tích cực về 
vai trò của chính quyền địa phương và thành viên 
BQLCĐ (97% khẳng định các thành viên BQLCĐ 
được bầu từ cộng đồng). 
Kết quả khả dĩ từ hoạt động này đó là 57% 
người dân cho biết thu nhập của họ đã tăng lên kể 
từ khi rừng ngập mặn được phục hồi. Khi trả lời 
câu hỏi liên quan đến thiên tai, 97% người dân 
cho biết thiệt hại từ bão ít hơn kể từ khi có rừng 
trở lại, nhưng điều này cũng là do thực tế là không 
có cơn bão lớn nào tấn công khu vực kể từ cơn 
bão Damrey. 
Kết quả phỏng vấn 
Nghiên cứu đã thực hiện 24 cuộc phỏng vấn 
với người dân địa phương tại 6 thôn. 87% số 
người được hỏi cảm thấy hoạt động phục hồi rừng 
tại địa phương đã đáp ứng mong đợi của họ. 
Người dân đã nâng cao nhận thức về rừng, về các 
vấn đề liên quan đến môi trường và biến đổi khí 
hậu. Những lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ rừng 
ngập mặn cũng đã được đánh giá một cách tích 
cực (29% số người cho rằng sản lượng khai thác 
thủy sản thủ công tăng lên, 70% đánh giá lợi ích 
gián tiếp tăng lên). 
3.3. Đánh giá thông qua thảo luận nhóm 
Nghiên cứu đã thực hiện 6 cuộc thảo luận 
nhóm tại 06 thôn. Kết quả chung như sau: 
a) Thành phần sinh kế đã thay đổi đáng kể kể 
từ năm 2005 do bão và giai đoạn phục hồi chậm, 
sau đó, hoạt động phục hồi rừng đã mang lại nhiều 
biến động. 
b) Nguồn sinh kế ngày càng lớn mạnh từ các 
hoạt động khai thác thủy hải sản thủ công trong và 
bãi bồi ven rừng ngập mặn. Nguồn lợi sinh kế này 
có thể so sánh được với thu nhập từ hoạt động sản 
xuất nông nghiệp của đại phương. 
Như vậy, hiệu quả trực tiếp của hoạt động 
phục hồi rừng được đánh giá nhiều nhất thông 
qua giá trị trực tiếp, đem lại sinh kế cho cộng 
đồng địa phương. 
3.4. Hiệu quả kinh tế của hoạt động phục hồi 
và quản lý rừng ngập mặn 
Hoạt động trồng, phục hồi và bảo vệ rừng ngập 
mặn tại vùng nghiên cứu đã đem lại nguồn sinh kế 
cho người dân thông qua nguồn thu nhập bổ sung 
từ khai thác các sản phẩm của rừng. Đặc biệt, với 
nhóm yếu thế, là các gia đình không có điều kiện 
kinh tế để đầu tư công cụ sản xuất hoặc kinh 
doanh, và các phụ nữ trong giai đoạn nông nhàn. 
Họ có thể tham gia vào hoạt động khai thác thủy 
sản thủ công trong rừng và các bãi bồi ven rừng 
khi thủy triều xuống thấp. 
Kết quả điều tra cho thấy, trung bình mỗi 
người có thể có thu nhập khoảng 350.000 
VNĐ/ngày từ việc khai thác thủy sản thủ công. 
Khu vực bãi bồi và RNM khu vực nghiên cứu 
 KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 69 (6/2020) 48 
nằm trong vùng ảnh hưởng triều, với chu kì nhật 
triều. Người dân thường có thể tiếp cận rừng ngập 
mặn vào các ngày có chu kì nước ròng, tương 
đương với thời gian làm việc 15 ngày/tháng và 
khoảng 10 tháng/năm (trừ 02 tháng người dân tập 
trung vào trồng và thu hoạch các sản phẩm nông 
nghiệp). Với diện tích rừng ngập mặn hiện có tại 
địa phương, mỗi ngày, trung bình có khoảng 250 
người dân tham gia khai thác thủy sản. Tương 
đương với gần 65 triệu đồng/ha/năm (~2.812 
USD/ha/năm). Như vậy, đây được coi là nguồn 
sinh kế bền vững cho cộng đồng địa phương. 
Thành viên của ban quản lý cộng đồng được 
nhận nguồn trợ cấp định kỳ từ nguồn kinh phí nhà 
nước cho hoạt động bảo vệ rừng và một phần từ 
nguồn đóng góp của cộng đồng địa phương. 
Những thành viên này chuyên tâm cho nhiệm vụ 
bảo vệ rừng. Ngoài ra, họ còn được quyền khai 
thác các sản phẩm ngoài gỗ từ rừng như những 
công dân khác trong vùng. 
Mặc dù mang lại lợi ích sinh kế rõ ràng tại địa 
phương, tuy nhiên, không phải toàn bộ các hộ gia 
đình trong địa phương đều khai thác nguồn sinh 
kế này. Một số nhóm được hưởng lợi từ các nguồn 
sinh kế khác như những hộ gia đình tham gia nuôi 
trồng thủy hải sản, thu mua và kinh doanh hải sản 
đánh bắt được, nuôi ong vào mùa hoa rừng nở, các 
gia đình thực hiện kinh doanh và dịch vụ trong địa 
phương cũng được hưởng lợi từ việc mạnh tay chi 
tiêu của các hộ gia đình có nguồn thu. Như vậy, 
có thể nói, hiệu quả về mặt kinh tế từ hoạt động 
trồng và phục hồi rừng tại địa phương là rất có ý 
nghĩa với đời sống xã hội nơi đây. 
3.5. Hiệu quả về mặt môi trường 
Mặc dù diện tích rừng trồng chưa phát triển 
như rừng tự nhiên nhưng đã tạo ra tác động tích 
cực rõ rệt đến môi trường ven biển. Hơn 200 ha 
bãi bồi trống nay thành rừng khép tán, có cây con 
tái sinh dưới tán rừng. Diện tích rừng này giúp ổn 
định bãi bồi, trống xói lở. Ngày càng nhiều các 
sinh vật biển và chim di cư đến làm tăng đa dạng 
sinh học trong thảm thực vật ngập mặn. Hơn nữa, 
cộng đồng địa phương đã nhận thực rõ về vai trò 
và giá trị của rừng, có ban quản lý cộng đồng và 
đặc biệt là sự thay đổi hành vi của người dân địa 
phương liên quan đến vệ sinh môi trường (dọn vệ 
sinh/qui định nơi đổ rác) đã có tác động tích cực 
đáng kể đến chính rừng ngập mặn và môi trường 
biển rộng lớn hơn. Ngoài ra, giá trị gián tiếp từ 
khả năng tích lũy lượng lớn carbon trong đất và 
sinh khối rừng ngập mặn góp vai trò đáng kể trong 
thích ứng với biến đổi khí hậu. 
4. KẾT LUẬN 
Hoạt động phục hồi và bảo vệ rừng ngập mặn 
dựa vào cộng đồng đã và đang được thực hiện một 
số địa phương ở Việt Nam. Hoạt động này ở xã 
Đa Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa đã đem 
lại nhiều phản hồi tích cực cả về mặt quản lý vận 
hành đến những hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội 
cho cộng đồng địa phương. Với cán bộ các ban 
ngành và chính quyền địa phương, 95% số người 
đánh giá hoạt động tốt, và 5% còn lại cho rằng 
hoạt động đã đạt hiệu quả rất tốt. Với cộng đồng 
dân cư, 100% số người tham gia đánh giá này đều 
có nhận xét tích cực về hiệu quả của hoạt động 
trồng, phục hồi và bảo vệ rừng dựa vào cộng đồng 
tại địa phương. 
Kết quả khảo sát cho thấy 57% người dân cho 
biết thu nhập của họ đã tăng lên kể từ khi rừng 
ngập mặn được phục hồi. Do đó, xét về mặt kinh 
tế, chỉ tính riêng sinh kế khi nông nhàn của cộng 
đồng thông qua hoạt động khai thác thủy sản thủ 
công là khoảng 65 triệu đồng/ha/năm. Ngoài ra, 
các giá trị kinh tế khác chưa lượng giá như nguồn 
lợi con giống, thức ăn các hộ nuôi trồng thủy sản, 
sản xuất mật ong vào mùa hoa, các hộ kinh 
doanh thủy sản, cung cấp dịch vụ, đều được 
hưởng lợi khi rừng được phục hồi. Giá trị kinh tế 
này có thể so sánh với giá trị thu được từ sản 
xuất nông nghiệp. 
Về mặt môi trường, 97% người dân cho biết 
thiệt hại từ bão ít hơn kể từ khi có rừng trở lại. 
Rừng ngập mặn được phục hồi tại địa phương 
đem lại môi trường không khí trong lành, nâng 
cao ý thức của cộng đồng trong việc xả thải rác 
và vai trò tích lũy carbon của rừng góp phần 
đáng kể vào nhiệm vụ thích ứng với biến đổi 
khí hậu. Mô hình quản lý rừng ngập mặn dựa 
vào cộng đồng vùng nghiên cứu cần được đánh 
giá toàn diện hơn để có thể làm trường hợp 
điển hình để các địa phương có rừng ngập mặn 
tham khảo. 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 69 (6/2020) 49 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Phan Nguyên Hồng (chủ biên), 1999. Rừng ngập mặn Việt Nam. NXB Nông nghiệp. 205 trang. 
Alongi, D.M. (2008). ‘Mangrove forests: resilience, protection from tsunamis, and responses to global 
climate change’. Estuarine, Coastal and Shelf Science 76:1–13. 
Alongi, D.M. (2009). The Energetics of Mangrove Forests. New York: Springer Science, 216pp. 
CARE (2008) Community Empowerment for Forest Management (CEFM): Project Fact-sheet. CARE 
International Vietnam Program, Hanoi. 
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA, 2016). Sổ tay hướng dẫn Phát triển cộng đồng. NXB Thanh 
Niên. 124 trang. 
Cuc, N.T.K, Erik de Ruyter van Steveninck, 2013. Production function of planted mangroves in Thanh 
Phu Nature Reserve, Mekong Delta, Vietnam. Journal of Coastal Research, DOI: 
10.2112/JCOASTRES-D-13-00104.1 
International Federation of Red Cross and Red Crescent Societies (IFRC), 2010. Planting protection: 
Evaluation of community-based mangrove reforestation and disasterpreparedness programme, 
2006–2010. 
Millennium Ecosystem Assessment (2005). Ecosystems and Human Well-being: Synthesis. Washington, 
DC: Island Press. 
Abstract: 
COMMUNITY-BASED MANGROVE RESTORATION 
AND MANAGEMENT IN HAU LOC DISTRICT, THANH HOA PROVINCE 
Mangrove ecosystems exist in the transition zone between the marine and land environment. However, 
like many parts of the world, mangroves in Da Loc Commune, Hau Loc District, Thanh Hoa Province 
have been severely distroyed. Consequently, in 2005, the typhoon named Damrey had swept through the 
sea dike, causing serious consequences to the social and economic life of the local people. Recognizing 
the roles of mangroves, an area of 200 ha of mangroves has been planted in coastal areas of Da Loc 
Commune with community-based management practices. The study results found that 100% of the 
interviewees have positive comments on the effectiveness of mangrove plantation, rehabilitation and 
protection in local community. On the environmental point of view, 97% of the local people reported 
that mangroves can reduce the damages from the storms. In terms of economic development, 57% of 
people said that their income has increased since mangrove forests were replanted with the economic 
value from mangroves approximate 65 million VND/ha/year. Community-based mangrove restoration 
activities have brought the socio-economic effects for local communities and the useful lessons in 
mangrove management. 
Keywords: mangroves, mangrove restoration, community-based. 
Ngày nhận bài: 11/5/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 30/5/2020 

File đính kèm:

  • pdfphuc_hoi_va_quan_ly_rung_ngap_man_dua_vao_cong_dong_tai_huye.pdf