Phòng đợt cấp COPD: những bằng chứng cập nhật từ điều trị bằng thuốc
Đợt cấp COPD không chỉ ảnh hưởng xấu lên chất lượng cuộc sống, làm tăng tốc độ sụt giảm chức năng
hô hấp, làm tăng chi phí điều trị mà còn làm tăng nguy cơ tử vong cho bệnh nhân. Phòng đợt cấp là một
trong những mục tiêu điều trị COPD của GOLD (Chiến lược toàn cầu về COPD). Trong thực hành lâm sàng
hàng ngày, lựa chọn thuốc nào nhằm mục đích giảm đợt cấp cho từng bệnh nhân COPD cụ thể không hề
đơn giản dù đã có hướng dẫn của GOLD. Bác sĩ nên cá thể hóa khi lựa chọn thuốc điều trị cho bệnh nhân
COPD nhằm giảm thiểu đợt cấp với tác dụng phụ ít nhất có thể. Căn cứ vào kết quả và tiêu chuẩn chọn bệnh
của các thử nghiệm lâm sàng, bác sĩ cần cân nhắc hiệu quả và tính an toàn của từng loại thuốc để chọn liệu
pháp phù hợp cho từng bệnh nhân cụ thể. Bài tổng quan này sẽ cung cấp bằng chứng phòng đợt cấp COPD
của các liệu pháp điều trị sau: ICS/LABA, LAMA, LAMA/LABA, ICS/LAMA/LABA, azithromycin,
roflumilast và theophylline uống liều thấp.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phòng đợt cấp COPD: những bằng chứng cập nhật từ điều trị bằng thuốc
Tổng quan 4 Hô hấp số 17/2018 GIỚI THIỆU ĐỢT CẤP COPD Theo GOLD 2019, đợt cấp COPD là tình trạng xấu đi cấp tính của triệu chứng hô hấp khiến phải thêm thuốc điều trị (1). Theo Anthonisen, đợt cấp COPD là tình trạng xấu đi ít nhất 2 ngày liên tục của ≥ 2 triệu chứng chính sau: khó thở, tăng lượng đàm, đàm mủ; hoặc tình trạng xấu đi của bất kỳ triệu chứng nào kể trên kèm tăng lên ít nhất 2 ngày liên tục của bất kỳ triệu chứng phụ nào sau đây: đau họng; chảy nước mũi và/hoặc nghẹt mũi; sốt không có nguyên nhân khác (2). Trong thực hành lâm sàng, bác sĩ thường áp dụng tiêu chuẩn Anthonisen để chẩn đoán xác định đợt cấp COPD. Đợt cấp COPD được chia thành 3 mức độ như sau: Nhẹ, chỉ cần điều trị bằng thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn; Trung bình, phải dùng thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn kèm kháng sinh và/ PHÒNG ĐỢT CẤP COPD: NHỮNG BẰNG CHỨNG CẬP NHẬT TỪ ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC TS. BS. NGUyễN VăN THọ Bộ môn Lao và Bệnh phổi, Đại Học Y Dược TP.HCM; Khoa TDCN Hô hấp, Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM; Khoa Bệnh phổi tắc nghẽn, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch TP.HCM Tóm tắt Đợt cấp COPD không chỉ ảnh hưởng xấu lên chất lượng cuộc sống, làm tăng tốc độ sụt giảm chức năng hô hấp, làm tăng chi phí điều trị mà còn làm tăng nguy cơ tử vong cho bệnh nhân. Phòng đợt cấp là một trong những mục tiêu điều trị COPD của GOLD (Chiến lược toàn cầu về COPD). Trong thực hành lâm sàng hàng ngày, lựa chọn thuốc nào nhằm mục đích giảm đợt cấp cho từng bệnh nhân COPD cụ thể không hề đơn giản dù đã có hướng dẫn của GOLD. Bác sĩ nên cá thể hóa khi lựa chọn thuốc điều trị cho bệnh nhân COPD nhằm giảm thiểu đợt cấp với tác dụng phụ ít nhất có thể. Căn cứ vào kết quả và tiêu chuẩn chọn bệnh của các thử nghiệm lâm sàng, bác sĩ cần cân nhắc hiệu quả và tính an toàn của từng loại thuốc để chọn liệu pháp phù hợp cho từng bệnh nhân cụ thể. Bài tổng quan này sẽ cung cấp bằng chứng phòng đợt cấp COPD của các liệu pháp điều trị sau: ICS/LABA, LAMA, LAMA/LABA, ICS/LAMA/LABA, azithromycin, roflumilast và theophylline uống liều thấp. Summary Acute exacerbations of COPD not only worsen quality of life, increase pulmonary function decline, increase health care cost, but also increase mortality for patients with COPD. Prevention of acute exacerbations is one of objectives of COPD management in GOLD (Global initiative for Obstructive chronic Lung Disease) guidelines. In daily clinical practice, the selection of optimal medications for each individual patient to prevent exacerbations is not easy even though there are recommendations in GOLD guidelines. Physician should personalize when selecting medications for COPD patients to minimize exacerbations with as little side effects as possible. Based on results and inclusion criteria from clinical trials, physician should balance the efficacy and safety of each medication to select appropriate regimen for each individual patient. This review article will provide evidence of COPD exacerbation prevention of the following regimens: ICS/LABA, LAMA, LAMA/LABA, ICS/LAMA/LABA, azithromycin, roflumilast and oral low-dose theophylline. Tổng quan 5 Hô hấp số 17/2018 hoặc corticoid uống; Nặng, như trung bình nhưng phải cấp cứu hoặc nhập viện (1). Nguyên nhân gây ra đợt cấp bao gồm nhiễm khuẩn hô hấp, tiếp xúc không khí ô nhiễm, hoặc ngừng thuốc điều trị duy trì. Tuy nhiên, có tới 1/3 trường hợp đợt cấp COPD có nguyên nhân không rõ (1). Phần lớn gánh nặng và chi phí điều trị của COPD là do đợt cấp. Trong nghiên cứu SPIROMICS gồm 1.105 bệnh nhân COPD có mức độ tắc nghẽn GOLD1-4 được tuyển chọn tại các cơ sở y tế của Hoa Kỳ từ 2010-2015 và có số liệu đợt cấp được theo dõi trong 3 năm, 51,3% bệnh nhân không có đợt cấp, 48,7% có ít nhất một đợt cấp. Trong số bệnh nhân có đợt cấp, 49,8% là đợt cấp nặng cần nhập viện hoặc cấp cứu. Trong số những bệnh nhân có đợt cấp trong quá trình theo dõi, chỉ 2,1% bệnh nhân có ít nhất 2 đợt cấp mỗi năm, 7,4% có ít nhất 1 đợt cấp mỗi năm, 41,3% bệnh nhân có đợt cấp dao động có và không mỗi năm (3). Theo khảo sát ở 9 lãnh thổ vùng Châu Á-Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam, 46% bệnh nhân COPD báo cáo có ít nhất một đợt cấp trong năm vừa qua, 19% nhập viện vì đợt cấp (4). Đợt cấp sẽ nhiều hơn ở người có mức độ tắc nghẽn đường dẫn khí càng nặng, vào thời điểm virus hô hấp tồn tại lâu hơn và đang lan tràn trong cộng đồng, ở nơi có tỷ lệ hút thuốc lá cao hoặc nơi đang có không khí bị ô nhiễm, hoặc ở địa phương không có thuốc phòng ngừa đợt cấp hữu hiệu. Trong các yếu tố tiên đoán đợt cấp thì tiền sử đợt cấp trong năm vừa qua tiên đoán tốt nhất nguy cơ bị đợt cấp trong năm tiếp theo (5). Đợt cấp COPD không chỉ ảnh hưởng xấu lên chất lượng cuộc sống và làm tăng tốc độ sụt giảm chức năng hô hấp mà còn làm tăng nguy cơ tử vong cho bệnh nhân.6 Đợt cấp ảnh hưởng nhiều và lâu dài lên tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Trong số những bệnh nhân bị đợt cấp COPD do nhiễm khuẩn, nếu không có đợt cấp tiếp theo, thời gian hồi phục thường kéo dài từ 3-6 tháng (7). Tuy nhiên, nếu bệnh nhân có đợt cấp tiếp tục xảy ra thì cơ hội hồi phục tình trạng sức khỏe rất kém. Do đó, điều trị phòng ngừa đợt cấp tiếp theo là rất cần thiết. Trích xuất dữ liệu tại Quebec, Canada trong số 73.106 bệnh nhân từ 55 tuổi trở lên được nhập viện vì đợt cấp COPD và theo dõi trung bình 3,6 năm cho thấy phòng ngừa đợt cấp phải nhập viện lần thứ 2 là rất quan trọng (8). Trong số những người bị đợt cấp nặng nếu không tử vong, thời gian xuất hiện đợt cấp nặng tiếp theo rút ngắn dần sau đợt cấp thứ 2; nguy cơ đợt cấp tiếp theo xuất hiện trong vòng 3 tháng sau xuất viện. Do đó, cửa sổ cơ hội là 3 tháng kể từ lần nhập viện đầu tiên để tận dụng các biện pháp điều trị phòng ngừa đợt cấp tiếp theo (8). Một nghiên cứu gần đây cho thấy, trong những bệnh nhân nhập viện hoặc cấp cứu vì đợt cấp COPD và được theo dõi 1 năm sau đó, khởi động sớm thuốc điều trị phòng ngừa đợt cấp sẽ làm giảm đợt cấp và chi phí điều trị cho năm tiếp theo (9). Điều trị nhằm phòng ngừa hoặc giảm đợt cấp là một trong những mục tiêu điều trị COPD của GOLD (9). Bác sĩ nên cá thể hóa khi lựa chọn thuốc điều trị cho bệnh nhân COPD nhằm giảm thiểu đợt cấp với tác dụng phụ ít nhất có thể. GOLD khuyến cáo lựa chọn ban đầu loại thuốc nào cho từng bệnh nhân ngoài việc tùy thuộc vào phân nhóm ABCD mà còn tùy thuộc vào sự sẵn có, giá thuốc, khả năng sử dụng hiệu quả bình hít của bệnh nhân, cân nhắc giữa hiệu quả điều trị và tác dụng phụ (1). GOLD 2019 khuyến cáo điều trị thuốc tiếp theo nên dựa vào đặc tính điều trị được hoặc đáp ứng của bệnh nhân với điều trị hiện tại hơn là dựa vào phân nhóm ABCD nhằm tránh điều trị dưới mức (rút bớt thuốc đang có hiệu quả cho bệnh nhân) hoặc điều trị quá mức (tiếp tục thuốc không hiệu quả) (10). Khi chưa biết rõ đáp ứng của bệnh nhân, bác sĩ cần cân nhắc hiệu quả và tính an toàn của từng loại thuốc dựa trên bằng chứng từ các thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu quan sát để chọn loại thuốc phù hợp cho từng bệnh nhân. ICS/LABA GIẢM ĐỢT CẤP TỐT HƠN LABA Phân tích hệ thống Cochrane của 9 thử nghiệm lâm sàng với 9.921 bệnh nhân COPD có ít nhất một đợt cấp trong năm qua cho thấy ICS/LABA làm giảm 24% số đợt cấp so với LABA đơn thuần (RR Tổng quan 6 Hô hấp số 17/2018 0,76; KTC 95% 0,68 – 0,84). Tuy nhiên, phân tích từ 12 nghiên cứu với 11.076 bệnh nhân cho thấy ICS/LABA làm tăng 55% nguy cơ viêm phổi so với LABA đơn thuần (OR 1,55; KTC 95% 1,20 – 2,01) (11). Do đó, bác sĩ cần phải cân nhắc giữa lợi ích làm giảm đợt cấp và nguy cơ bị viêm phổi khi chỉ định ICS/LABA cho từng bệnh nhân cụ thể. Các yếu tố làm tăng nguy cơ bị viêm phổi ở bệnh nhân COPD bao gồm lớn tuổi (>55 tuổi), đang hút thuốc lá, tiền căn viêm phổi trước đây, BMI < 25 kg/m2, mMRC cao hoặc tắc nghẽn đường dẫn khí nặng (12). Nghiên cứu SUMMIT trong số các bệnh nhân COPD có mức độ tắc nghẽn trung bình (50% ≤ FEV 1 ≤ 70%) cho thấy ICS/LABA với liều trung bình (fluticasone furoate100 μg + vilanterol 25 μg ngày 1 lần) không làm tăng nguy cơ viêm phổi so với LABA đơn thuần (13). Phân tích hậu kiểm 4.528 bệnh nhân COPD có sẵn dữ liệu về lượng bạch cầu ái toan (BCAT) trong máu lúc bắt đầu chia ngẫu nhiên và ít nhất 1 đợt cấp trong năm qua cho thấy hiệu quả giảm đợt cấp của ICS/LABA tùy thuộc vào số lượng BCAT/máu. Bệnh nhân sử dụng ICS/LABA (budesonide/formoterol 160/4,5 mcg 2 hít x 2) giảm 25% đợt cấp so với LABA đơn thuần (formoterol) (RR 0,75; KTC 95% 0,57 – 0,99) khi số lượng BCAT/máu ≥ 100/mm3 (14). Khi số lượng BCAT/máu < 100/mm3 thì ICS/LABA không hiệu quả hơn LABA đơn thuần. Vì 79% bệnh nhân COPD trong nghiên cứu phân tích lại này có BCAT/máu ≥100/mm3 và ngưỡng BCAT này được xác định bởi một phương pháp thống kê (spline modeling) có khả năng ước lượng quá mức nên ngưỡng BCAT/máu này cần được kiểm chứng trong những nghiên cứu tiến cứu khác. LAMA GIẢM ĐỢT CẤP TỐT HƠN LABA Nghiên cứu UPLIFT được tiến hành ở 37 quốc gia trong số bệnh nhân COPD có FEV 1 ≤ 70% và không có tiền căn hen. Bên cạnh điều trị thông thường (mọi thuốc đều được phép dùng, trừ kháng cholinergic hít), 2.986 bệnh nhân được chia vào nhóm tiotropium và 3.006 bệnh nhân vào nhóm giả dược. Trong 4 năm điều trị, tiotropium làm chậm sự xuất hiện đợt cấp đầu tiên so với giả dược: 16,7 tháng so với 12,5 tháng. Tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình nghiên cứu, tiotropium giảm 14% nguy cơ xuất hiện đợt cấp đầu tiên so với giả dược (HR 0,86; KTC 95% 0,81 – 0,91; p < 0,0001). Tiotropium cũng làm giảm 14% số đợt cấp trung bình mỗi người mỗi năm so với giả dược (0,73 so với 0,85; RR 0,86; KTC 95% 0,81 – 0,91; P < 0.0001) (15). Tuy nhiên, 2/3 số bệnh nhân tham gia nghiên cứu đang dùng ICS/LABA như điều trị thông thường, nên hiệu quả giảm đợt cấp trong nghiên cứu này còn có thể xem như hiệu quả của việc thêm tiotropium vào ICS/LABA (liệu pháp bộ ba) so với ICS/LABA. Một nghiên cứu hồi cứu hồ sơ tại Scotland cũng cho thấy thêm tiotropium vào ICS/LABA làm giảm đợt cấp phải nhập viện hoặc phải dùng corticosteroid uống so với ICS/LABA. Với thời gian theo dõi trung bình 4,65 năm ở 1.857 bệnh nhân dùng ICS/LABA kèm tiotropium và 996 bệnh nhân dùng ICS/LABA không kèm tiotropium, ICS/LABA kèm tiotropium giảm 15% nguy cơ đợt cấp phải nhập viện (HR 0,85; KTC 95% 0,73 – 0,99; p = 0,04) và 29% đợt cấp phải dùng corticoid toàn thân (HR 0,71; KTC 95% 0,63 – 0,80; p < 0,001) so với ICS/LABA (16). Trong số những bệnh nhân COPD ở tất cả các mức độ tắc nghẽn (GOLD 2-4) và có ít nhất 1 đợt cấp trong năm qua, tiotropium làm giảm đợt cấp tốt hơn salmeterol. Trong nghiên cứu mù đôi có đối chứng này, 3.707 bệnh nhân được điều trị tiotropium 18 µg/ngày và 3.669 bệnh nhân điều trị với salmeterol 50 µg/ngày trong 1 năm. So với salmeterol, tiotropium làm giảm 17% nguy cơ xuất hiện đợt cấp đầu tiên trong quá trình điều trị (HR 0,83; KTC 95% 0,77 – 0,90; p < 0.001), giảm 11% số đợt cấp trung bình mỗi người mỗi năm (0,64 so với 0,72; RR 0,89; KTC 95% 0,83 – 0,96; p = 0,002) (17). Nghiên cứu INVIGORATE cũng cho thấy tiotropium giảm đợt cấp tốt hơn indacaterol trong số bệnh nhân COPD có mức độ tắc nghẽn nặng (FEV 1 từ 30-50%) và có ít nhất một đợt cấp trong Tổng quan 7 Hô hấp số 17/2018 năm qua. Tại bất kỳ thời điểm nào trong 52 tuần điều trị, indacaterol làm tăng 20% nguy cơ xuất hiện đợt cấp trung bình-nặng đầu tiên so với tiotropium (HR 1,20; KTC 95% 1,07 – 1,33; p = 0,0012). Tần suất đợt cấp hàng năm ở nhóm bệnh nhân sử dụng indacaterol cao hơn nhóm bệnh nhân sử dụng tiotropium 24% (0,90 so với 0,73; RR 1,24; KTC 95% 1,12 – 1,37; P < 0,0001) (18). Tần suất đợt cấp ở cả 2 nhóm trong nghiên cứu này thấp có thể do 72% bệnh nhân trong nghiên cứu này đang dùng ICS kèm theo thuốc nghiên cứu. LABA/LAMA GIẢM ĐỢT CẤP HƠN LAMA VỚI BẰNG CHỨNG THẤP Nghiên cứu DYNAGITO so sánh hiệu quả giữa tiotropium/olodaterol 5/5 μg và tiotropium 5 μg ở 7880 bệnh nhân COPD có FEV 1 < 60% và có ít nhất 1 đợt cấp trong năm qua. Trong quá trình điều trị 52 tuần lễ, bệnh nhân đang dùng ICS thì vẫn tiếp tục dùng (68%); 40% đang dùng liệu pháp bộ ba. Tiotropium/olodaterol giảm 7% tần suất đợt cấp trung bình-nặng so với tiotropium (0,90 so với 0,97; RR 0,93; KTC 95% 0,87 – 1,00; p = 0,0498), mức độ cải thiện không đáp ứng được mốc ý nghĩa thống kê p < 0,01 xác định khi thiết kế nghiên cứu (19). Nghiên cứu này cho thấy thêm olodaterol (LABA) vào phác đồ đã có tiotropium (LAMA) chỉ giảm ít đợt cấp. Có 2 lý do để giải thích kết quả này: việc giảm đợt cấp có thể đạt ngưỡng với LAMA nên việc thêm LABA vào thì mức độ cải thiện đợt cấp không bằng khi so sánh LAMA với giả dược; hoặc có sự khác biệt về hiệu quả giữa các loại LABA: indacaterol có thể giảm đợt cấp hiệu quả hơn olodaterol (20). LABA/LAMA CÓ THỂ GIẢM ĐỢT CẤP HIỆU QUẢ HƠN ICS/LABA Nghiên cứu FLAME được xem như là nghiên cứu chính khiến phác đồ điều trị của GOLD 2017 thay đổi từ ICS/LABA sang LABA/LAMA như là thuốc đầu tay trong số bệnh nhân COPD có nhiều triệu chứng và nhiều đợt cấp. Nghiên cứu này cho thấy indacaterol/glycopyrronium (LABA/ LAMA) giảm 17% đợt cấp trung bình-nặng so với fluticasone/salmeterol (ICS/LABA) sau 52 tuần điều trị trong số bệnh nhân COPD có FEV 1 từ 25-60% và có ít nhất một đợt cấp trong năm qua (0,98 so với 1,19; RR 0,83; KTC 95% 0,75 – 0,91; p < 0,001) (21). Indacaterol/glycopyrronium giảm đợt cấp trung bình-nặng hiệu quả hơn fluticasone/ salmeterol bất kể phần trăm bạch cầu ái toan: giảm 20% khi BCAT/máu < 2% (RR 0,80; KTC 95% 0,68 – 0,93) và giảm 15% khi BCAT/máu ≥ 2% (RR 0,85; KTC 95% 0,75 – 0,96) (21). Tuy nhiên, đặc điểm lâm sàng cơ bản của nhóm bệnh nhân COPD được đưa vào nghiên cứu này khác với nghiên cứu IMPACT được trình bày bên dưới: chỉ có 19,3% bệnh nhân có ≥ 2 đợt cấp trong năm qua, nghĩa là phần lớn bệnh nhân (80%) thuộc nhóm B theo GOLD 2017. Hơn nữa, nghiên cứu này cũng loại tất cả bệnh nhân COPD có tiền căn hen hoặc có BCAT/máu ≥ 600/mm3. Do đó, việc áp dụng kết quả của nghiên cứu này cần phải phù hợp đối tượng: LABA/LAMA sẽ hiệu quả hơn ICS/LABA trong số bệnh nhân COPD không có tiền căn hen, BCAT/máu < 600/mm3 và có ít đợt cấp trong năm qua. Các tác giả đã đưa ra các cơ chế khả dĩ tại sao LABA/LAMA làm giảm tần suất đợt cấp COPD như sau: LABA/LAMA cải thiện mức độ triệu chứng từ đó làm tăng ngưỡng triệu chứng của đợt cấp; LAMA làm giảm tiết đàm và LABA làm tăng vận chuyển lông chuyển nên làm sạch đàm từ đó làm giảm triệu chứng khiến gây đợt cấp; LABA/LAMA làm giảm căng phồng phổi quá mức nên giảm triệu chứng khó thở, một phần trong định nghĩa đợt cấp; LABA/LAMA có thể có hiệu quả trực tiếp/gián tiếp lên tình trạng viêm ở phổi, hiệu quả đã được chứng minh trên động vật thí nghiệm (22). Phâ ... nguy cơ đợt cấp cho nhánh điều trị LABA/LAMA, việc này thể hiện bởi sự khác biệt rõ ràng giữa các nhánh điều trị trong tháng đầu tiên trên đường cong Kaplan-Meier. Hơn nữa, nghiên cứu này không loại các bệnh nhân có tiền căn hen hoặc BCAT/máu ≥ 600/mm3, nhóm bệnh nhân sẽ tăng nguy cơ đợt cấp khi chỉ dùng LABA/LAMA. Một phân tích gộp gồm 21 thử nghiệm lâm sàng cho thấy điều trị với liệu pháp bộ ba ICS/ LABA/LAMA giảm nguy cơ đợt cấp trung bình- nặng so với LAMA đơn thuần (RR 0,71; KTC 95% 0,60 – 0,85), hoặc LAMA/LABA (RR 0,78; KTC 0,70 – 0,88), hoặc ICS/LABA (RR 0,77; KTC 95% 0,66 – 0,91) (28). Tuy nhiên, liệu pháp bộ ba tăng nguy cơ viêm phổi đáng kể so với bộ đôi LAMA/LABA (RR 1,53; KTC 95% 1,25 – 1,87) (28). Nhược điểm của các nghiên cứu so sánh liệu pháp bộ 3 với liệu pháp bộ đôi hoặc đơn chất là nhiều bệnh nhân đang dùng liệu pháp bộ ba hoặc bộ đôi trong giai đoạn sàng lọc, khi chia ngẫu nhiên lại rút một thuốc đột ngột có thể gây tăng đợt cấp cho nhóm rút thuốc. Phân tích gộp trên cũng cho thấy số đợt cấp thấp ở cả liệu pháp bộ ba và các liệu pháp khác nên các liệu pháp hiện tại (ICS/LABA, LABA/LAMA, LAMA) đều hiệu quả. Hơn nữa, tỉ lệ tử vong không khác giữa các liệu pháp và nguy cơ viêm phổi tăng đối với liệu pháp có chứa ICS (28). Do đó, liệu pháp bộ ba chỉ nên chỉ định khi thật cần thiết: COPD có nhiều triệu chứng, tắc nghẽn đường dẫn khí nặng- rất nặng và có nhiều đợt cấp; không chỉ định liệu pháp bộ ba cho COPD có tắc nghẽn đường dẫn khí nhẹ hoặc ít đợt cấp. Kết quả của các nghiên cứu về liệu pháp bộ ba gần đây gợi ý rằng ICS nên được dùng với liều thấp đến trung bình ở bệnh nhân COPD để tận dụng hiệu quả giảm đợt cấp thông qua cơ chế kháng viêm với liều thấp-trung bình và giảm thiểu nguy cơ viêm phổi thông qua cơ chế ức chế miễn dịch với liều cao (hình) (29). Hình. Đường cong biểu diễn hiệu quả hoặc tác dụng phụ theo liều corticoid hít (Liều tương đương Beclometasone dipropionate, chỉnh sửa từ Izquierdo JL et al. International Journal of COPD 2018;13:3539–3547 (29)) Tổng quan 10 Hô hấp số 17/2018 AZITHROMyCIN GIẢM ĐỢT CẤP Ở BỆNH NHÂN COPD NẶNG VÀ ĐÃ NGƯNG HÚT THUỐC LÁ Một thử nghiệm lâm sàng nhằm đánh giá hiệu quả của azithromycin ở bệnh nhân COPD nặng đang dùng oxy dài hạn (60%) hoặc từng nhập viện hoặc cấp cứu vì đợt cấp trong năm trước (50%). Bên cạnh điều trị thông thường, 570 bệnh nhân dùng azithromycin 250mg/ngày và 572 dùng giả dược trong 1 năm. Azithromycin làm chậm xuất hiện đợt cấp đầu tiên so với giả dược (trung vị 266 ngày so với 174 ngày). Tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình theo dõi, azithromycin làm giảm 27% nguy cơ bị đợt cấp (HR 0,73; KTC 95% 0,63 – 0,84; p< 0,001). Tần suất đợt cấp giảm 17% (1,48/năm so với 1,83/năm; RR 0,83; KTC 95% 0,72 – 0,95; p = 0,01) (30). Tuy nhiên, giảm thính lực gặp ở nhóm sử dụng azithromycin nhiều hơn nhóm dùng giả dược (25% so với 20%, p = 0,04). Một thử nghiệm lâm sàng được tiến hành tại một trung tâm tại Hà Lan về hiệu quả của azithromycin 500mg/ngày dùng 3 ngày/tuần như một điều trị cộng thêm cho bệnh nhân COPD có từ 3 đợt cấp trở lên trong năm trước. Thử nghiệm được tiến hành trong 1 năm. 41 bệnh nhân thuộc nhóm azithromycin và 36 bệnh nhân thuộc nhóm giả dược. Sau khi hiệu chỉnh cho các yếu tố khác, azithromycin giảm 48% đợt cấp so với giả dược (RR 0,58; KTC 95% 0,42 – 0,79; p = 0,001). Tác dụng phụ thường gặp nhất là tiêu chảy (19% so với 2%; p = 0,015) (31). Tuy nhiên, do cỡ mẫu của nghiên cứu này nhỏ nên cần nhiều bằng chứng hơn về hiệu quả của azithromycin trong việc làm giảm đợt cấp COPD. Do việc dùng lâu dài azithromycin có nhiều tác dụng phụ và nguy cơ xuất hiện đề kháng kháng sinh nên việc sử dụng azithromycin chỉ dành cho một số bệnh nhân COPD nhất định như kiểu hình giãn phế quản (32) hoặc lớn tuổi (>65 tuổi), bệnh nặng và đã ngưng hút thuốc lá (33). ROFLUMILAST GIẢM ĐỢT CẤP HẠN CHẾ Ở BỆNH NHÂN COPD Roflumilast, thuốc kháng viêm không steroid do ức chế phosphodiestarase-4, được GOLD 2019 khuyến cáo như điều trị cộng thêm cho bệnh nhân COPD có triệu chứng viêm phế quản mạn, đã dùng thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài có hay không có ICS nhưng vẫn còn đợt cấp. Một thử nghiệm lâm sàng tại 203 trung tâm tại 21 quốc gia được tiến hành ở các bệnh nhân COPD bị tắc nghẽn đường dẫn khí nặng (FEV 1 ≤ 50%), có triệu chứng viêm phế quản mạn và có ít nhất 2 đợt cấp trong năm qua dù đã đang điều trị bằng ICS/LABA (70% có dùng kèm tiotropium). Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm dùng roflumilast 500µg ngày 1 lần (n = 973) và dùng giả dược (n = 972). Sau 52 tuần điều trị, roflumilast làm giảm 13,2% số đợt cấp so với giả dược nhưng không đạt mức có ý nghĩa thống kê (tần suất 0,805 so với 0,927; RR 0,868; KTC 95% 0,753 – 1,002; p = 0,0529) (34). Tuy nhiên, tỷ lệ rút khỏi nghiên cứu do tác dụng phụ của thuốc ở nhóm roflumilast cao hơn nhóm giả dược (11% so với 5%). Một nghiên cứu gộp tại Anh đánh giá hiệu quả của roflumilast như một điều trị cộng thêm cho liệu pháp bộ ba ở bệnh nhân COPD có tắc nghẽn nặng và có triệu chứng viêm phế quản mạn. Trong nghiên cứu này, 1.225 bệnh nhân dùng roflumilast phối hợp với liệu pháp bộ ba so với 1.215 bệnh nhân chỉ dùng liệu pháp bộ ba đơn thuần. Roflumilast cộng liệu pháp bộ ba giảm 11% số đợt cấp so với liệu pháp bộ ba đơn thuần nhưng chưa có ý nghĩa thống kê (RR 0,89; KTC 95% 0,78 – 1.00; p = 0,056) (35). Do hiệu quả giảm đợt cấp còn hạn chế, giá thuốc tương đối cao và tác dụng phụ tương đối nhiều nên roflumilast vẫn chưa được chỉ định rộng rãi ở bệnh nhân COPD. THEOPHyLLINE UỐNG LIỀU THẤP KHÔNG LÀM GIẢM ĐỢT CẤP COPD Theophylline đường uống liều thấp đã từng được đề xuất như là một biện pháp khắc phục tình trạng đề kháng ICS ở bệnh nhân COPD thông qua cơ chế theophylline có thể làm tăng hoạt tính men HDAC (histone deacetylases). Một thử nghiệm lâm sàng tại Anh ở 1.567 bệnh nhân COPD đang dùng ICS (80% đang dùng ICS/LABA/LAMA) nhưng có ≥ 2 đợt cấp trong năm trước, 772 bệnh Tổng quan 11 Hô hấp số 17/2018 nhân uống theophylline 200 mg/ngày và 764 bệnh nhân uống giả dược trong 1 năm. Kết quả cho thấy theophylline uống liều thấp không làm giảm số đợt cấp trung bình-nặng so với giả dược (tần suất 2,24/năm so với 2,23/năm) (36). Tuy nhiên, dùng theophylline uống liều thấp lại đi kèm với nhiều tác dụng phụ gồm biến cố tim mạch (2,4% so với 3,4%), nôn (10,9% so với 7,9%) và đau đầu (9,0% so với 7,9%). Như vậy, cho tới thời điểm này chưa có bằng chứng theophylline uống liều thấp như là một điều trị cộng thêm cho liệu pháp bộ ba nhằm giảm đợt cấp COPD. KẾT LUẬN Trong thực hành lâm sàng hàng ngày, lựa chọn thuốc nào nhằm mục đích giảm đợt cấp cho từng bệnh nhân COPD cụ thể không hề đơn giản dù đã có hướng dẫn của GOLD. Căn cứ vào kết quả và tiêu chuẩn chọn bệnh của các thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu quan sát, LAMA và/ hoặc LABA là lựa chọn đầu tay cho phần lớn bệnh nhân COPD nhằm giảm đợt cấp COPD. ICS/LABA phù hợp cho các bệnh nhân COPD có tiền sử hen, BCAT/máu tăng cao, không có sẵn LAMA/LABA. Liệu pháp bộ ba dành cho bệnh nhân có nhiều triệu chứng và có nhiều đợt cấp đã điều trị bằng các liệu pháp khác vừa nêu. Azithromycin chỉ nên xem xét cho bệnh nhân COPD nặng vẫn còn đợt cấp dù đã dùng liệu pháp bộ ba. Bác sĩ không nên chỉ định theophylline uống liều thấp nhằm mục đích giảm đợt cấp cho bệnh nhân COPD. 1. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease (GOLD). Global strategy for the diagnosis, management, and prevention of COPD (updated 2019). Available at: Accessed: 1 Jan 2019, 2019 2. Anthonisen NR, Manfreda J, Warren CP, et al. Antibiotic therapy in exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. Ann Intern Med 1987; 106:196-204 3. Han MK, Quibrera PM, Carretta EE, et al. Frequency of exacerbations in patients with chronic obstructive pulmonary disease: an analysis of the SPIROMICS cohort. Lancet Respir Med 2017; 5:619-626 4. Lim S, Lam DC, Muttalif AR, et al. Impact of chronic obstructive pulmonary disease (COPD) in the Asia- Pacific region: the EPIC Asia population-based survey. Asia Pac Fam Med 2015; 14:4 5. Hurst JR, Vestbo J, Anzueto A, et al. Susceptibility to exacerbation in chronic obstructive pulmonary disease. N Engl J Med 2010; 363:1128-1138 6. Soler-Cataluna JJ, Martinez-Garcia MA, Roman Sanchez P, et al. Severe acute exacerbations and mortality in patients with chronic obstructive pulmonary disease. Thorax 2005; 60:925-931 7. Spencer S, Jones PW. Time course of recovery of health status following an infective exacerbation of chronic bronchitis. Thorax 2003; 58:589-593 8. Suissa S, Dell’Aniello S, Ernst P. Long-term natural history of chronic obstructive pulmonary disease: severe exacerbations and mortality. Thorax 2012; 67:957-963 9. Siler TM, Donald AC, O’Dell D, et al. A randomized, parallel-group study to evaluate the efficacy of umeclidinium/vilanterol 62.5/25 mug on health-related quality of life in patients with COPD. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis 2016; 11:971-979 10. Singh D, Barnes PJ, Stockley R, et al. Pharmacological treatment of COPD: the devil is always in the detail. Eur Respir J 2018; 51 11. Nannini LJ, Lasserson TJ, Poole P. Combined corticosteroid and long-acting beta(2)-agonist in one inhaler versus long-acting beta(2)-agonists for chronic obstructive pulmonary disease. Cochrane Database Syst Rev 2012:CD006829 12. Crim C, Dransfield MT, Bourbeau J, et al. Pneumonia risk with inhaled fluticasone furoate and vilanterol compared with vilanterol alone in patients with COPD. Ann Am Thorac Soc 2015; 12:27-34 13. Crim C, Calverley PMA, Anderson JA, et al. Pneumonia risk with inhaled fluticasone furoate and vilanterol in COPD patients with moderate airflow limitation: The SUMMIT trial. Respir Med 2017; 131:27-34 14. Bafadhel M, Peterson S, De Blas MA, et al. Predictors of exacerbation risk and response to budesonide in patients with chronic obstructive pulmonary disease: a post-hoc analysis of three randomised trials. Lancet Respir Med 2018; 6:117-126 15. Tashkin DP, Celli B, Senn S, et al. A 4-year trial of tiotropium in chronic obstructive pulmonary disease. N Engl J Med 2008; 359:1543-1554 16. Short PM, Williamson PA, Elder DHJ, et al. The impact of tiotropium on mortality and exacerbations when added to inhaled corticosteroids and long-acting beta-agonist therapy in COPD. Chest 2012; 141:81-86 Tài liệu tham khảo Tổng quan 12 Hô hấp số 17/2018 17. Vogelmeier C, Hederer B, Glaab T, et al. Tiotropium versus salmeterol for the prevention of exacerbations of COPD. N Engl J Med 2011; 364:1093-1103 18. Decramer ML, Chapman KR, Dahl R, et al. Once-daily indacaterol versus tiotropium for patients with severe chronic obstructive pulmonary disease (INVIGORATE): a randomised, blinded, parallel-group study. Lancet Respir Med 2013; 1:524-533 19. Calverley PMA, Anzueto AR, Carter K, et al. Tiotropium and olodaterol in the prevention of chronic obstructive pulmonary disease exacerbations (DYNAGITO): a double-blind, randomised, parallel-group, active- controlled trial. Lancet Respir Med 2018; 6:337-344 20. Donohue JF, Betts KA, Du EX, et al. Comparative efficacy of long-acting beta2-agonists as monotherapy for chronic obstructive pulmonary disease: a network meta-analysis. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis 2017; 12:367-381 21. Wedzicha JA, Banerji D, Chapman KR, et al. Indacaterol- Glycopyrronium versus Salmeterol-Fluticasone for COPD. N Engl J Med 2016; 374:2222-2234 22. Beeh KM, Burgel PR, Franssen FME, et al. How Do Dual Long-Acting Bronchodilators Prevent Exacerbations of Chronic Obstructive Pulmonary Disease? Am J Respir Crit Care Med 2017; 196:139-149 23. Calverley PMA, Tetzlaff K, Vogelmeier C, et al. Eosinophilia, Frequent Exacerbations, and Steroid Response in Chronic Obstructive Pulmonary Disease. Am J Respir Crit Care Med 2017; 196:1219-1221 24. Chapman KR, Hurst JR, Frent SM, et al. Long-Term Triple Therapy De-escalation to Indacaterol/Glycopyrronium in Patients with Chronic Obstructive Pulmonary Disease (SUNSET): A Randomized, Double-Blind, Triple-Dummy Clinical Trial. Am J Respir Crit Care Med 2018; 198:329- 339 25. Vestbo J, Papi A, Corradi M, et al. Single inhaler extrafine triple therapy versus long-acting muscarinic antagonist therapy for chronic obstructive pulmonary disease (TRINITY): a double-blind, parallel group, randomised controlled trial. Lancet 2017; 389:1919-1929 26. Papi A, Vestbo J, Fabbri L, et al. Extrafine inhaled triple therapy versus dual bronchodilator therapy in chronic obstructive pulmonary disease (TRIBUTE): a double- blind, parallel group, randomised controlled trial. Lancet 2018; 391:1076-1084 27. Lipson DA, Barnhart F, Brealey N, et al. Once-Daily Single-Inhaler Triple versus Dual Therapy in Patients with COPD. N Engl J Med 2018; 378:1671-1680 28. Zheng Y, Zhu J, Liu Y, et al. Triple therapy in the management of chronic obstructive pulmonary disease: systematic review and meta-analysis. BMJ 2018; 363:k4388 29. Izquierdo JL, Cosio BG. The dose of inhaled corticosteroids in patients with COPD: when less is better. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis 2018; 13:3539-3547 30. Albert RK, Connett J, Bailey WC, et al. Azithromycin for prevention of exacerbations of COPD. N Engl J Med 2011; 365:689-698 31. Uzun S, Djamin RS, Kluytmans JA, et al. Azithromycin maintenance treatment in patients with frequent exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease (COLUMBUS): a randomised, double-blind, placebo- controlled trial. Lancet Respir Med 2014; 2:361-368 32. Assayag D, Mostafavi-Pour-Manshadi SM, et al. Long- term azithromycin therapy to reduce acute exacerbations in patients with severe chronic obstructive pulmonary disease. Respir Med 2018; 138:129-136 33. Han MK, Tayob N, Murray S, et al. Predictors of chronic obstructive pulmonary disease exacerbation reduction in response to daily azithromycin therapy. Am J Respir Crit Care Med 2014; 189:1503-1508 34. Martinez FJ, Calverley PM, Goehring UM, et al. Effect of roflumilast on exacerbations in patients with severe chronic obstructive pulmonary disease uncontrolled by combination therapy (REACT): a multicentre randomised controlled trial. Lancet 2015; 385:857-866 35. Kiff C, Ruiz S, Varol N, et al. Cost-effectiveness of roflumilast as an add-on to triple inhaled therapy vs triple inhaled therapy in patients with severe and very severe COPD associated with chronic bronchitis in the UK. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis 2018; 13:2707-2720 36. Devereux G, Cotton S, Fielding S, et al. Effect of Theophylline as Adjunct to Inhaled Corticosteroids on Exacerbations in Patients With COPD: A Randomized Clinical Trial. JAMA 2018; 320:1548-1559
File đính kèm:
phong_dot_cap_copd_nhung_bang_chung_cap_nhat_tu_dieu_tri_ban.pdf

