Phình tiểu nhĩ trái - Báo cáo trường hợp lâm sàng

Phình tiểu nhĩ trái bẩm sinh là bệnh lý tim

mạch hiếm gặp với nhiều biến chứng nghiêm

trọng bao gồm tắc mạch huyết khối, rối loạn

nhịp và rối loạn chức năng tim. Tuy nhiên, triệu

chứng bệnh lại rất mơ hồ, chẩn đoán chủ yếu

dựa vào siêu âm tim hoặc CT scan. Bài viết xin

trình bày về một trường hợp lâm sàng phình

tiểu nhĩ trái bẩm sinh có kích thước lớn với các

triệu chứng lâm sàng không điển hình. Mục

tiêu: bổ sung thêm tư liệu về trường hợp lâm

sàng hiếm gặp – phình tiểu nhĩ trái – chẩn đoán

và hướng điều trị

pdf 5 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Phình tiểu nhĩ trái - Báo cáo trường hợp lâm sàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phình tiểu nhĩ trái - Báo cáo trường hợp lâm sàng

Phình tiểu nhĩ trái - Báo cáo trường hợp lâm sàng
PHÌNH TIỂU NHĨ TRÁI - BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG 
 21 
PHÌNH TIỂU NHĨ TRÁI - BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG 
Lê Quang Thứu*, Nguyễn Thục*, Đinh Thị Phương Hoài** 
TÓM TẮT 
Phình tiểu nhĩ trái bẩm sinh là bệnh lý tim 
mạch hiếm gặp với nhiều biến chứng nghiêm 
trọng bao gồm tắc mạch huyết khối, rối loạn 
nhịp và rối loạn chức năng tim. Tuy nhiên, triệu 
chứng bệnh lại rất mơ hồ, chẩn đoán chủ yếu 
dựa vào siêu âm tim hoặc CT scan. Bài viết xin 
trình bày về một trường hợp lâm sàng phình 
tiểu nhĩ trái bẩm sinh có kích thước lớn với các 
triệu chứng lâm sàng không điển hình. Mục 
tiêu: bổ sung thêm tư liệu về trường hợp lâm 
sàng hiếm gặp – phình tiểu nhĩ trái – chẩn đoán 
và hướng điều trị. 
Từ khóa: phình tiểu nhĩ trái. 
SUMMARY 
LEFT ATRIAL APPENDAGE ANEURYSM – 
A CASE REPORT 
Left atrial appendage aneurysm is a rare 
cardiovascular disease with many serious 
complications including thrombosis, arrhythmias 
and cardiac dysfunction. However, the symptoms 
are very vague, the diagnosis mainly based on 
echocardiography or CT scan. The report presents 
a case of left atrial appendage aneurysm with 
clinical symptoms atypical. Objective: To 
supplement the literature on a rare clinical case - 
Left atrial appendage aneurysm - Diagnosis and 
treatment. 
Keyword: Left atrial appendage aneurysm 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 
Phình tiểu nhĩ trái (LAAA - Left atrial 
appendage aneurysm) là một bệnh lý tim mạch 
hiếm gặp đã được báo cáo lần đầu tiên năm 1960 
[5]. Mặc dù nguyên nhân bẩm sinh, nhưng triệu 
chứng lâm sàng thường không xuất hiện cho đến 
những hai mươi hay ba mươi của cuộc đời. Một 
số trường hợp phình tiểu nhĩ trái được phát hiện 
tình cờ với các triệu chứng như hồi hộp, đánh 
trống ngực, khó thở, đau thắt ngực, hoặc tắc mạch 
do huyết khối [8], [11], [12]. Vì phình tiểu nhĩ 
trái có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm 
như tắc mạch, rối loạn nhịp, suy tim nên phẫu 
thuật cắt bỏ túi phình được khuyến cáo trong chỉ 
định [1]. Bài báo cáo của chúng tôi xin được trình 
bày một trường hợp lâm sàng: bệnh nhân nữ 31 
tuổi vào viện vì tình cờ phát hiện túi phình tiểu 
nhĩ trái qua siêu âm tim với các triệu chứng lâm 
sàng không đặc hiệu, bệnh nhân được chỉ định 
phẫu thuật cắt bỏ phình tiểu nhĩ trái với hệ thống 
tim phổi nhân tạo. Trong báo cáo này, chúng tôi 
xin trình bày trường hợp lâm sàng hiếm gặp – 
phình tiểu nhĩ trái bẩm sinh – chẩn đoán và 
hướng điều trị.* 
II. BÁO CÁO CA LÂM SÀNG 
Bệnh nhân nữ 31 tuổi không có tiền sử gì 
đặc biệt vào viện vì tình cờ phát hiện phình tiểu 
nhĩ trái trên siêu âm tim, thỉnh thoảng có hồi hộp, 
mệt ngực, nhịp tim nhanh, đau tức nhẹ vùng ngực 
trái khi gắng sức. Điện tâm đồ bình thường; tuy 
nhiên, xquang ngực: phì đại thành thất trái (Hình 1), 
siêu âm tim qua thành ngực cho thấy túi phình 
tiểu nhĩ trái lớn : d = 66 x 54 mm, túi phình lan 
xuống tận mặt bên trái của thất trái và chèn ép 
một phần vào thất trái, các buồng tim không giãn, 
các van tim mềm, có một ít dịch màng ngoài tim 
nhất là ở vùng thành bên nhĩ trái, không có dấu 
chèn ép tim. 
* Khoa ngoại lồng ngực – tim mạch, Bệnh viện trung ương Huế 
* Trường ĐH Y-Dược Huế 
Người chịu trách nhiệm khoa học: PGS.TS. Lê Quang Thứu 
Ngày nhận bài: 01/05/2018 - Ngày Cho Phép Đăng: 20/05/2018 
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Bùi Đức Phú 
 PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 22 
Hình 1: Xquang ngực thẳng 
Hình 2: CT scan túi phình tiểu nhĩ trái d=66x54mm, 
gây chèn ép một phần thất trái 
Dòng chảy của máu qua thông thương giữa 
nhĩ trái và túi phình được quan sát bằng Doppler 
. Phình tiểu nhĩ trái được xác định, không có 
huyết khối hay tín hiệu hồi âm bất thường. Chụp 
CT scan được thực hiện để đánh giá tình trạng 
của tĩnh mạch phổi và các cấu trúc xung quanh 
khác (Hình 2). 
Bệnh nhân được chẩn đoán: phình tiểu nhĩ 
trái bẩm sinh và có chỉ định cắt túi phình. 
Lược đồ phẫu thuật ghi nhận: 
Mở ngực dọc giữa xương ức, bộc lộ túi 
phình tiểu nhĩ trái khổng lồ với màng ngoài tim 
nguyên vẹn. Sử dụng hệ thống tim phổi nhân 
tạo. Túi phình được cắt bỏ và được khâu bằng 
chỉ prolene 5.0. Không có huyết khối trong túi 
phình hoặc bất thường cấu trúc tim khác ( Hình 
3a-b-c-d). Giải phẫu bệnh : phình mỏng và giãn 
của tiểu nhĩ trái (Hình 4). Tại thời điểm 1 tháng 
sau, bệnh nhân không có triệu chứng bất thường 
gì và siêu âm tim qua thành ngực cho thấy chỉnh 
sửa phình tiểu nhĩ trái tốt, tâm nhĩ không có bất 
thường gì. 
Hình 3a. 
Hình 3b. 
PHÌNH TIỂU NHĨ TRÁI - BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG 
 23 
Hình 3c. 
Hình 3d. 
Hình 3: phẫu thuật cắt phình tiểu nhĩ trái. 
III. BÀN LUẬN 
Phình tiểu nhĩ bẩm sinh là bệnh lý tim 
mạch hiếm gặp và có thể bên trái hoặc bên phải, 
hoặc cả hai bên [1, 7]. Đến nay, có khoảng 50 
trường hợp bệnh được báo cáo trong y văn. 
Bệnh thường được phát hiện cùng với các 
khuyết tật khác của tim, ví dụ: hẹp ba lá [10]. 
Phình tiểu nhĩ trái được gọi là “khổng lồ” 
thường dài hơn 5 cm. Tỷ lệ chính xác của túi 
phình chưa được ghi nhận; tuy nhiên, kích thước 
có thể tăng cùng với tuổi bệnh nhân. 
Bệnh sinh có thể là do cơ tim kém co bóp do 
dị sản [2]. Phình tiểu nhĩ nhanh có thể gây chèn ép 
các cấu trúc tim khác gây ra các triệu chứng bệnh 
bao gồm đánh trống ngực, khó thở, loạn nhịp, và 
tắc mạch huyết khối thường xuất hiện cho đến 
những hai mươi hay ba mươi của cuộc đời [1]. Trẻ 
sơ sinh và trẻ nhỏ dễ bị suy tim sung huyết và suy 
hô hấp nặng do túi phình gây chèn ép các tĩnh mạch 
phổi và gây tắc nghẽn đường thở [9, 14]. 
Hình 4: Phình tiểu nhĩ trái 
Phình tiểu nhĩ trái mang nguy cơ biến 
chứng đe dọa tính mạng, bao gồm nhịp nhanh 
nhĩ, tắc mạch, rối loạn co bóp cơ tim và suy tim. 
Sớm can thiệp phẫu thuật được khuyến cáo, ngay 
cả trong những trường hợp không triệu chứng [3]. 
Tuy nhiên, một chiến lược điều trị bảo tồn đã 
được báo cáo trong một vài trường hợp với phình 
tiểu nhĩ trái khổng lồ. Plonska-Gosciniak và cộng 
sự báo cáo trường hợp bệnh nhân 45 tuổi, phình 
tiểu nhĩ trái khổng lồ (112 × 49 x 80 mm) với 
triệu chứng đánh trống ngực và không dung nạp 
với các bài tập. Bệnh nhân đã từ chối phẫu thuật 
và chấp nhận điều trị nội khoa. Bệnh nhân vẫn ổn 
định và thỉnh thoảng có rối loạn nhịp trên thất 
trong 20 năm theo dõi [11]. Sharma và cộng sự 
cũng đã báo cáo một trường hợp bệnh nhân 35 
tuổi với phình tiểu nhĩ trái (51 x 66 mm) và đã từ 
chối phẫu thuật; với triệu chứng hụt hơi, bệnh 
nhân được theo dõi điều trị nội khoa trong 6 
tháng với chống đông bằng đường uống [12]. 
Những phát hiện này chỉ ra rằng điều trị nội khoa 
có thể được cân nhắc trong những trường hợp 
thiếu điều kiện cũng như trang thiết bị cho phép 
phẫu thuật. Tắc mạch huyết khối là một biến 
chứng thường gặp và nguy hiểm của phình tiểu 
nhĩ trái nếu không được điều trị [3]. Mặc dù 
không có triệu chứng thuyên tắc mạch, nhưng 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 24 
cũng không chắc chắn rằng huyết khối không 
hình thành nên việc chụp cộng hưởng từ não 
(MRI) cũng nên được xem xét, đặc biệt đối với 
những trường hợp không triệu chứng [16]. 
Điều trị nội khoa có thể là một lựa chọn cho 
bệnh nhân phình tiểu nhĩ trái. Mặc dù chiến lược 
điều trị bảo tồn này có thể làm tăng nguy cơ biến 
chứng, nhưng phẫu thuật cũng có nhiều thách 
thức. Việc sử dụng thuốc, cần phải theo dõi sát 
những thay đổi trong tiểu nhĩ và tâm nhĩ vì sự 
giãn lớn của phình tiểu nhĩ có thể gây khởi phát 
nhịp nhanh nhĩ [4] và có thể chèn ép cấu trúc tim 
lân cận như động mạch vành hoặc tâm thất như 
trong trường hợp của chúng tôi. Tuy nhiên, không 
có nghiên cứu nào xác định kích thước túi phình 
bao nhiêu là giảm nguy cơ biến chứng. Một 
nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng kích 
thước túi phình không dự đoán sự hình thành 
huyết khối hoặc tắc nghẽn, nhưng có thể gây 
nhịp nhanh nhĩ [1]. Vì vậy, theo dõi các triệu 
chứng lâm sàng là rất quan trọng. 
Mặc dù, điều trị bảo tồn làm giảm các triệu 
chứng trong một số ít trường hợp, nhưng phẫu 
thuật nên được chỉ định đặc biệt ở trẻ sơ sinh và 
trẻ nhỏ do những biến chứng nghiêm trọng cũng 
như những bất thường hiện có khác ở tim. Mở 
ngực dọc giữa xương ức thường được thực hiện 
và phù hợp hơn các cách tiếp cận khác vì vừa để 
loại bỏ phình tiểu nhĩ lớn, kiểm tra có huyết khối 
hay không, vừa có thể chỉnh sửa đồng thời van 2 
lá, trong trường hợp xuất hiện trào ngược là kết 
quả của sự biến dạng gây ra bởi túi phình [9]. 
Mặc dù cắt bỏ nội soi có thể thích hợp đối với các 
túi phình bẩm sinh nhỏ hơn, tuy nhiên đây là một 
kỹ thuật khó và cần được cân nhắc. Thủ thuật 
Cox-Maze II nên được thực hiện trong trường 
hợp tâm nhĩ lớn, giãn lớn túi phình, hoặc rung nhĩ 
kéo dài [13]. Sau khi phẫu thuật, hầu như không 
có báo cáo về tái phát các triệu chứng, ngoại trừ 
một bệnh nhân vẫn còn rung nhĩ, sau nhiều lần 
thử khử rung [8]. Trong trường hợp của chúng 
tôi, phẫu thuật là sự lựa chọn duy nhất để loại bỏ 
chèn ép vào thành thất. Thủ thuật Maze không 
được thực hiện bởi vì không có nhĩ lớn hoặc rung 
nhĩ. Siêu âm tim qua thành ngực là phù hợp và là 
cơ bản nhất để xác định phình tiểu nhĩ trái, có 
huyết khối hay các bất thường khác ở tim hay 
không, đồng thời cũng cung cấp những thông tin 
quan trọng trong chiến lược điều trị tiếp theo. Tuy 
nhiên, siêu âm tim qua thực quản, cung cấp chi 
tiết và rõ ràng hơn bao gồm dòng máu chảy qua 
lỗ thông và những huyết khối nhỏ và hiện cũng 
được khuyến cáo để phân định chính xác túi 
phình. Khi phình tiểu nhĩ quá lớn không thể cho 
hình ảnh tốt về siêu âm tim, thì CTscan và MRI 
là tốt hơn cả, đặc biệt là trong việc loại trừ các 
chẩn đoán phân biệt. Ngoài ra, vận tốc dòng chảy 
qua miệng chậm lại là một mối nguy hiểm với tín 
hiệu ứ đọng máu trong LAAA [15]. Trong những 
trường hợp này, tín hiệu hồi âm nên được đánh 
giá cẩn thận bởi vì tăng nguy cơ huyết khối tĩnh 
mạch thứ phát do sự ứ đọng. 
Phình tiểu nhĩ trái có thể kết hợp với các 
bất thường tim khác, nên siêu âm tim nên đánh 
giá toàn bộ cấu trúc tim . Tiêu chuẩn chẩn đoán 
đề xuất cho bệnh nhân phình tiểu nhĩ trái bẩm 
sinh là: (1) nguồn gốc từ một tâm nhĩ trái bình 
thường , (2) thông thương rõ ràng với tâm nhĩ trái 
(3) nằm bên trong màng ngoài tim, và (4) gây 
méo mó của thành tự do của tâm thất do túi phình 
[6]. Phình tiểu nhĩ trái rất hiếm gặp, nhưng nó có 
thể đe dọa tính mạng nếu có nghẽn mạch não. Vì 
vậy, khi có những bệnh nhân với các triệu chứng 
nói trên mà không có liên quan với bệnh lý nào 
khác thì cần phải xem xét về một chẩn đoán 
phình tiểu nhĩ trái. 
IV. KẾT LUẬN: 
Phình tiểu nhĩ trái là một bệnh lý hiếm gặp 
liên quan đến tỷ lệ tử vong về tim mạch do các 
biến chứng nghiêm trọng mà bệnh gây ra như rối 
loạn co bóp cơ tim, rối loạn nhịp tim và tắc mạch 
do huyết khối. Triệu chứng bệnh rất mơ hồ, chẩn 
PHÌNH TIỂU NHĨ TRÁI - BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG 
 25 
đoán chủ yếu dựa vào siêu âm tim hoặc CT scan. 
Phẫu thuật cắt bỏ túi phình được khuyến cáo để 
ngăn ngừa những biến chứng nguy hiểm trên. Điều 
trị bảo tồn có thể được xem xét cho một số bệnh 
nhân. Đánh giá toàn diện với siêu âm tim, MRI 
não và các triệu chứng lâm sàng có thể sẽ hữu ích 
cho việc quản lý điều trị tiếp theo của LAAA. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Aryal MR, Hakim FA, Ghimire S, 
Ghimire S, Giri S, Pandit A, et al. Left atrial 
appendage aneurysm: a systematic review of 82 
cases. Echocardiography. 2014;31(10):1312–8. 
[2]. Bramlet DA, Edwards JE. Congenital 
aneurysm of left atrial appendage. Br Heart J. 
1981;45(1):97–100. 
[3]. Chowdhury UK, Seth S, Govindappa 
R, Jagia P, Malhotra P. Congenital left atrial 
appendage aneurysm: a case report and brief 
review of literature. Heart Lung Circ. 
2009;18(6):412–6. 
[4]. Cujec B, Bharadwaj B, Orchard RC, 
Lopez JF. Transesophageal echocardiography in 
the diagnosis of left atrial appendage aneurysm. J 
Am Soc Echocardiogr. 1990;3(5):408–11. 
[5]. Diamond EG, Kittle CF, Voth DW. 
Extreme hypertrophy of the left atrial appendage: 
the case of the giant dog ear. Am J Cardiol. 
1960;5:122–5. 
[6]. Foale RA, Gibson TC, Guyer DE, 
Gillam L, King ME, Weyman AE. Congenital 
aneurysms of the left atrium: recognition by 
cross-sectional echocardiography. Circulation. 
1982;66(5):1065–9. 
[7]. Jonavicius K, Lipnevicius A, Sudikiene 
R, Zurauskas E, Lebetkevicius V, arutis V. Surgical 
repair of a giant congenital right atrial aneurysm: a 
case report. J Cardiothorac Surg. 2015;10:72. 
[8]. Kuiten WM, de Heer LM, van 
Aarnhem EE, Onsea K, van Herwerden LA. 
Giant left atrial appendage: a rare anomaly. Ann 
Thorac Surg. 2013; 96(4):1478–80. 
[9]. Morales JM, Patel SG, Jackson JH, 
Duff JA, Simpson JW. Left atrial aneurysm. Ann 
Thorac Surg. 2001;71(2):719–22. 
[10]. Pawar R, Patel S, Vs K, Pv S, Rao S. 
Giant left atrial appendage aneurysm in 
association with tricuspid atresia. Eur Heart J 
Cardiovasc Imaging. 2016;17(3):352. 
[11]. Plonska-Gosciniak E, Larysz B, 
Jurczyk K, Kasprzak JD. Five-chambered heart: 
a20-year story of left atrial appendage aneurysm. 
Eur Heart J. 2009;30(8):1014. 
[12]. Sharma J, Kapoor A. The fifth cardiac 
chamber: case of a huge left atrial appendage 
aneurysm. Indian J Med Res. 2015;142(6):770–1. 
[13]. Shih YJ, Lin YC, Tsai YT, Lin CY, 
Lee CY, Yang HY, et al. Left atrial appendage 
aneurysm with paroxysmal atrial fibrillation. 
Heart Surg Forum. 2012;15(1):E1–3. 
[14]. Stone KS, Brown JW, Canal D, 
Caldwell R, Hurwitz R, King H. Congenital 
aneurysm of the left atrial wall in infancy. Ann 
Thorac Surg. 1990;49(3):476–8. 
[15]. Ulucam M, Muderrisoglu H, Sezgin 
A. Giant left atrial appendage aneurysm: the third 
ventricle! Int J Cardiovasc Imaging. 2005;21(2-
3):225–30. 
[16]. Yan Chen, Yun Mou, Li-Jun Jiang 
and Shen-Jiang Hu, Congenital giant left atrial 
appendage aneurysm: a case report. Journal of 
Cardiothoracic Surgery (2017) 12:15 , DOI 
10.1186/s13019-017-0576-6. 

File đính kèm:

  • pdfphinh_tieu_nhi_trai_bao_cao_truong_hop_lam_sang.pdf