Phẫu thuật ung thư thực quản sau hóa - xạ đồng thời nhân 2 trường hợp
Mặc cho những tiến bộ đáng kể của phẫu thuật, hóa trị và xạ trị, tỉ lệ tử vong do ung thư thực quản vẫn còn cao.
Trong thập kỷ qua, điều trị đa mô thức đối với ung thư thực quản được xem như điều trị tiêu chuẩn.
Từ đầu năm 2019, chúng tôi bắt đầu thực hiện điều trị đa mô thức đối với ung thư thực quản tiến xa tại chỗ tại vùng.
Điều trị xạ tổng liều 41,4Gy - phân liều 1,8Gy, kết hợp với hóa trị đồng thời (Carboplatin và Paclitaxel mỗi tuần, trong 5 tuần).
Phẫu thuật cắt thực quản thực hiện 6 - 8 tuần sau khi hóa xạ đồng thời kết thúc (theo phương pháp McKeown).
Do một số nguyên nhân khách quan, số ca bệnh của chúng tôi không nhiều (02 ca), nhưng cũng đã cho một số kết quả hứa hẹn tích cực.
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật ung thư thực quản sau hóa - xạ đồng thời nhân 2 trường hợp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật ung thư thực quản sau hóa - xạ đồng thời nhân 2 trường hợp
TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 265 PHẪU THUẬT UNG THƯ THỰC QUẢN SAU HÓA - XẠ ĐỒNG THỜI NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP ĐẶNG HUY QUỐC THẮNG1, HOÀNG THÀNH TRUNG2, NGUYỄN THỊ THOẠI AN3 TÓM TẮT Mặc cho những tiến bộ đáng kể của phẫu thuật, hóa trị và xạ trị, tỉ lệ tử vong do ung thư thực quản vẫn còn cao. Trong thập kỷ qua, điều trị đa mô thức đối với ung thư thực quản được xem như điều trị tiêu chuẩn. Từ đầu nĕm 2019, chúng tôi bắt đầu thực hiện điều trị đa mô thức đối với ung thư thực quản tiến xa tại chỗ tại vùng. Điều trị xạ tổng liều 41,4Gy - phân liều 1,8Gy, kết hợp với hóa trị đồng thời (Carboplatin và Paclitaxel mỗi tuần, trong 5 tuần). Phẫu thuật cắt thực quản thực hiện 6 - 8 tuần sau khi hóa xạ đồng thời kết thúc (theo phương pháp McKeown). Do một số nguyên nhân khách quan, số ca bệnh của chúng tôi không nhiều (02 ca), nhưng cũng đã cho một số kết quả hứa hẹn tích cực. SUMMARY Esophagectomy surgery after concurrent chemoradiotherapy two cases report Despite substantial advances in surgery, chemotherapy and radiation therapy, mortality rates for esophageal cancer remain high. Over the last decade multi - modality treatment has gained increasing acceptance as the standard of care. Since the beginning of 2019, we have begun to perform multi - modality treatment of locally advanced esophageal cancer. Radiation therapy was conventionally fractionated (41,4Gy in 1,8Gy fractions) and a contemporary chemotherapy regimen (weekly Carboplatin and Paclitaxel for five cycles) was implemented. Surgery was performed 6 - 8 weeks following chemoradiotherapy completion (McKeown modification). Due to some objective reasons, the number of our cases is not much (02 cases), but it has also shown positive promising results. 1 BSCKII. Phó Trưởng Khoa Ngoại 2 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 ThS.BSCKII. Phó Trưởng Khoa Điều trị Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 3 ThS.BS. Khoa Ngoại 2 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Tần suất ung thư thực quản đang gia tĕng đáng kể trong ít thập niên gần đây. Mặc cho những tiến bộ lớn của phẫu thuật, hóa trị và xạ trị, tỉ lệ tử vong do bệnh lý này vẫn cao. Phương pháp điều trị tối ưu đối với bệnh nhân ung thư tiến xa tại chỗ tại vùng vẫn còn bàn cãi. Nếu như hóa xạ trị trước phẫu thuật đã là điều trị chuẩn trong ung thư trực tràng, thì hiện nay liệu pháp này cũng đã tỏ ra hứa hẹn trong điều trị những ung thư đường tiêu hóa khác. Hóa xạ trị tân hỗ trợ trước phẫu thuật mang lại những tiềm nĕng lợi ích về kỹ thuật điều trị và sinh học bướu khi so sánh với phẫu thuật đơn thuần hoặc điều trị bổ túc sau mổ[4]. Phẫu thuật cắt bỏ ung thư thực quản vẫn là điều trị tiêu chuẩn đối với ung thư còn có thể cắt được về mặt lâm sàng. Tuy nhiên, sống còn lâu dài lại ít hơn 25%. Để cải thiện sống còn, phương pháp điều trị hiện nay sẽ kết hợp phẫu thuật với hóa trị TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 266 và/hoặc xạ trị tiền phẫu. Phương thức này đã dẫn đến sự đáp ứng bướu quan trọng với đáp ứng bệnh học hoàn toàn (complete pathologic response = pCR) lên tới 17 - 51%. Ban đầu mức pCR này được ghi nhận ở bệnh nhân ung thư tế bào gai, nhưng nhiều nghiên cứu gần đây đã cho thấy tỉ lệ xảy ra tương đương ở bệnh nhân ung thư tuyến. Tuy vậy, tái phát vẫn thường xảy ra và sống còn dài lâu thì kém, vì vậy những nghiên cứu để tìm ra phương pháp điều trị tối ưu vẫn phải tiếp tục[3]. TÓM LƯỢC BỆNH ÁN Bn NGUYỄN VĔN S. - SN: 1958 - Vũng Tàu. NV: 07/11/2018. Chẩn đoán: K thực quản 1/3 dưới CT3NXM0. NS: Bướu chồi sùi cách cung rĕng 35 - 38cm, chiếm 1/2 chu vi thực quản. GPB: Carcinom TB gai - biệt hóa vừa - grad 2. CT Scan: Dầy thành TQ 1/3 dưới, kéo dài một đoạn 40mm. Hóa xạ đồng thời (03/12/2018 - 05/01/2019) Paclitaxel + Carboplatin 05 tuần. Kết hợp xạ tổng liều 41,4Gy/ 23 lần. Phẫu thuật: 20/02/2019 PTNS thì ngực - Tư thế nằm sấp. Thì bụng - cổ: Nằm ngữa - làm song song. Thực hiện miệng nối = tay, silk 3.0. Thời gian mổ: 05 giờ. Máu mất: 200ml. Thời gian hậu phẫu: 14 ngày. Xuất viện: 06/3/2019. Diễn tiến hậu phẫu Từ HP 7 vết mổ cổ thấm ít dịch nhầy chĕm sóc tại chỗ ổn định. Không khàn tiếng. Gpb sau mổ Đại thể: Bướu còn dạng loét 2,5cm, đáy sạch, bờ sượng. pT: Viêm loét kinh niên - không còn thấy bướu. pN (-): 14/14 hạch (06 hạch trung thất & 08 hạch ổ bụng). Tái khám: 1: 24/4: Bn ổn định. 2: 26/6: Biểu hiện hẹp miệng nối ->Phải nong = bong bóng tại BVCR. 3: 26/10: Ĕn uống tốt, lên cân. Bn TRẦN VĔN U. - SN: 1964 - Bạc Liêu NV: 13/5/2019. Chẩn đoán: K thực quản 1/3 dưới CT3NXM0. NS: Bướu chồi sùi cách cung rĕng 35 cm, bướu chồi sùi, chưa hẹp lòng. Gpb: Carcinom TB gai - biệt hóa kém. CT Scan: Ung thư TQ 1/3 dưới, kéo dài một đoạn 40 - 50mm. Hóa xạ đồng thời (04/6/2019 - 04/7/2019). Paclitaxel + Carboplatin 05 tuần. Kết hợp xạ tổng liều 41,4Gy/ 23 lần. Phẫu thuật: 21/8/2019 PTNS thì ngực - Tư thế nằm sấp. Thì bụng - cổ: nằm ngữa – làm song song. Thực hiện miệng nối = máy, CDH 25. Thời gian mổ: 04 giờ 30 phút. Máu mất: 100ml. Thời gian hậu phẫu: 08 ngày. Xuất viện: 30/8/2019. Diễn tiến hậu phẫu Bình thường. Khàn tiếng nhẹ. Gpb sau mổ Đại thể: Bướu còn dạng loét thâm nhiễm 03cm, xâm lấn hết lớp cơ. pT: Mô bướu hoại tử phần lớn, còn một ít tb ác tính. pN (-): 08/08hạch (06 hạch trung thất & 02 hạch ổ bụng). Tái khám 1: 13/9: Bệnh nhân ổn định. 2: 14/10: Ĕn uống tốt - khàn tiếng giảm. BÀN LUẬN Hóa xạ trị tân hỗ trợ trước mổ Chúng tôi có 2 bệnh nhân với giải phẫu bệnh là ung thư tế bào gai, với giai đoạn T3 lâm sàng (clinical T3) được hóa xạ trước mổ là phù hợp với xu thế điều trị hiện nay. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 267 Đối với bướu T3 - 4 hay N1 lâm sàng, nếu chỉ phẫu thuật đơn thuần sẽ cho kết quả rất kém, với 3 nĕm sống còn chỉ khoảng 10 - 25%. Do đó, trong những trường hợp như vậy điều trị tân hỗ trợ sẽ rất cần thiết[1]. Cơ sở việc chọn hóa xạ tiền phẫu Sự tưới máu bướu còn nguyên vẹn sẽ tĕng cung cấp oxygen và cải thiện được đáp ứng với xạ trị cũng như phân bố thuốc hóa trị. Tiềm nĕng làm giảm giai đoạn bướu, tĕng tỉ lệ cắt bỏ R0, và giảm nguy cơ bướu tái phát tại chỗ do loại bỏ được những tổn thương dưới lâm sàng (subclinical disease) không thể loại bỏ trong lúc phẫu thuật. Tiềm nĕng xác định được biểu hiện sinh học thái quá của bướu, từ đó có thể tránh một cuộc mổ không cần thiết. Tiềm nĕng thiết lập trường xạ trị nhỏ hơn và nhiều chính xác hơn, qua đó cải thiện được độ dung nạp điều trị và kết quả điều trị[4]. Giảm di cĕn vi thể[6]. Hiệu quả lợi ích hiệp đồng của hóa xạ đồng thời[10]. Nghiên cứu CROSS gần đây đã chỉ ra rõ ràng vai trò của hóa xạ tiền phẫu khi so sánh với phẫu thuật đơn thuần. Đây là một nghiên cứu pha III, đa trung tâm, đánh giá lợi ích của hóa xạ dẫn đầu với carboplatin/ taxol/ kết hợp xạ trị 41,4Gy so sánh với phẫu thuật đơn thuần. 25% bệnh nhân là ung thư tế bào gai. Kết quả sống còn trung bình là 49 tháng/ nhóm điều trị đa mô thức, so với 24 tháng/ nhóm phẫu thuật đơn thuần (p = 0,003). Sống còn toàn bộ 5 nĕm cũng nhiều cải thiện hơn trong nhóm điều trị đa mô thức (47% vs 34%, p = 0,003). Những bệnh nhân ung thư tế bào gai sẽ có lợi ích lớn hơn. Trong nhóm này, tỉ lệ tái phát tại chỗ thấp hơn (14% vs 34%, p < 0,001) và nguy cơ gieo rắc phúc mạc thấp hơn (04% vs 14 %, p < 0,001)[10]. Hóa xạ trị hay hóa trị trước mổ Mục đích của hóa trị trước mổ nhằm tĕng khả nĕng cắt bỏ tổn thương nhờ việc làm thu nhỏ bướu, giảm giai đoạn bệnh, cũng như tiêu diệt những di cĕn tiềm ẩn. Hiện tại, chưa có một công trình nghiên cứu pha III ngẫu nhiên nào so sánh trực tiếp giữa hóa trị trước mổ và hóa xạ trước mổ. Trong một nghiên cứu hậu kiểm, nhận thấy tĕng lợi ích sống còn toàn bộ 7% trong 2 nĕm với hóa trị trước mổ. Tiếp tục phân tích dưới nhóm, nhận thấy hóa trị không có tác động quan trọng trên tỉ lệ tử vong bệnh nhân ung thư tế bào gai, nhưng có lợi ích sống còn quan trọng trên ung thư tuyến (HR = 0.78; p = 0.014). Vì vậy mà hóa trị trước mổ là điều trị tiêu chuẩn cho ung thư thực quản giữa và dưới loại carcinoma tuyến ở UK[8]. Tuy nhiên, hóa xạ trị trước mổ vẫn là chọn lựa phổ biến cho ung thư thực quản tiến xa tại chỗ, tại vùng tại Hoa Kỳ. Trong một nghiên cứu hậu kiểm trên 10 thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát, nhận thấy tĕng lợi ích sống còn toàn bộ 13% trong 2 nĕm. Một phân tích dưới nhóm của nghiên cứu Dutch (CRT Chemo-RadioTherapy), sử dụng Paclitaxel và Carboplatin, kết hợp xạ trị, nhận thấy nhiều lợi ích trên bệnh nhân ung thư tế bào gai (HR = 0.34; CI = 0.17-0.65) so với ung thư tuyến (HR = 0.82; CI = 0.58 -1.16)[8]. Trong một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm khác ở Châu Âu, cho thấy hóa xạ trước mổ sẽ giúp đạt tỉ lệ pCR (complete pathologic response) và R0 cao hơn, đồng thời di cĕn hạch thấp hơn. Tuy nhiên, chưa thấy thuận lợi hơn trong PFS hay sống còn toàn bộ 3 nĕm. Mặc dù vậy, hóa xạ trước mổ cho kết quả phẫu thuật thuận lợi hơn và việc lập kế hoạch điều trị để nhằm gia tĕng tỉ lệ pCR sẽ giúp cải thiện sống còn của bệnh nhân[5]. Chọn lựa thời điểm phẫu thuật Chúng tôi có 2 ca được phẫu thuật vào tuần thứ 6 (ca 1) và tuần thứ 7 (ca 2) sau hóa xạ phù hợp theo khuyến cáo. Khi này bệnh nhân đã có đủ thời gian hồi phục sau hóa xạ, ĕn uống được tốt hơn, thể trạng cải thiện hơn. Khi phẫu thuật, chúng tôi cũng không nhận thấy có khó khĕn nào do tình trạng viêm xơ dính sau xạ. Trong một chừng mực nào đó, PTNS thì ngực thấy ít chảy máu rỉ rả hơn, đặc biệt khi nạo các nhóm hạch quanh carina, có lẽ do những mạch máu nhỏ ít nhiều viêm xơ sau xạ hóa. Thông thường, phẫu thuật được thực hiện sau hóa - xạ đồng thời 3 - 8 tuần. Có quan niệm cho rằng, sự trì hoãn phẫu thuật có thể gây khó khĕn bóc tách khi phẫu thuật do tĕng tình trạng xơ hóa sau xạ trị, cho phép bướu tái phát triển và tĕng nguy cơ tái phát. Cũng có quan niệm cho rằng, sự trì hoãn phẫu thuật sẽ giúp tĕng cải thiện pCR và giảm những tổn hại sau mổ do phẫu thuật sớm. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu giữa 2 nhóm 150 bệnh nhân phẫu trong vòng 8 tuần và 116 bệnh nhân phẫu sau hơn 8 tuần với những thông số: thời gian phẫu thuật, máu mất, tỉ lệ dò miệng nối, tỉ lệ biến chứng, tỉ lệ pCR, sống còn toàn bộ, các tác giả nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 268 Kết luận: Thời gian mổ sau hóa - xạ đồng thời không quyết định biến chứng quanh phẫu thuật, pCR và sống còn toàn bộ. Có lẽ hợp lý để trì hoãn phẫu thuật từ 8 tuần trở đi để bệnh nhân hồi phục sau hóa - xạ trị[2]. Đáp ứng bệnh học hoàn toàn (pCR) sau hóa - xạ đồng thời Kết quả GPB của chúng tôi cho thấy: 01 ca có T đáp ứng hoàn toàn sau hóa xạ đồng thời (ca 1 - Viêm loét kinh niên, không còn thấy bướu - trước mổ là Carcinom TB gai, biệt hóa vừa) và một ca gần hoàn toàn (ca 2 - Mô bướu hoại tử phần lớn, còn một ít tế bào ác tính - trước mổ là Carcinom TB gai, biệt hóa kém). Kết quả này đã phản ánh khá rõ nét ích lợi của hóa xạ tân hỗ trợ. Tuy nhiên, đáp ứng bệnh học hoàn toàn (sau phẫu thuật cắt thực quản) sau điều trị tân hỗ trợ đối với ung thư thực quản tiến xa tại chỗ tại vùng không đồng nghĩa với điều trị khỏi. Mặc dù đạt pCR sẽ giúp cải thiện tỉ lệ sống còn toàn bộ và sống còn không bệnh (DFS), có khoảng 20% - 40% bệnh nhân sẽ tái phát, hầu hết trong 2 nĕm đầu tiên. Barbetta và cs nhận thấy rằng: bướu biệt hóa kém sẽ tĕng nguy cơ tái phát. Giống những nghiên cứu khác, hầu hết (72%) sự tái phát biểu hiện bằng di cĕn xa. Từ đó, đặt ra vấn đề điều trị toàn thân để kiểm soát bướu, đó là hóa trị hỗ trợ sau phẫu thuật cắt bỏ thực quản, đặc biệt trên những bệnh nhân có bướu biệt hóa kém. Những thử nghiệm lâm sàng về vấn đề này là rất cần thiết. Nghiên cứu này cũng cho thấy một tỉ lệ cao đáng ngạc nhiên (25% - 30%) bệnh nhân với pCR có tái phát di cĕn não. Như vậy, đặt ra vấn đề nên kiểm tra hình ảnh não bộ khi theo dõi những bệnh nhân với pCR đã điều trị[12]. Xạ trị có ảnh hưởng tới biến chứng miệng nối (dò và hẹp miệng nối thực quản cổ - dạ dày) trên những bệnh nhân được hóa – xạ tân hỗ trợ hay không? Trong 2 ca ghi nhận: Chúng tôi nhận thấy việc bóc tách thực quản cổ để thực hiện miệng nối vẫn thực hiện thuận lợi như bình thường, vùng cổ không xơ viêm. Một ca được thực hiện miệng nối bằng tay với silk 3.0, mũi đơn, một lớp - đến ngày hậu phẫu 7 mới thấy thấm ít dịch nhầy qua nơi đặt penrose dẫn lưu, không hiện tượng viêm tấy vùng cổ, chỉ khâu da cũng đã được cắt hoàn toàn, chúng tôi chỉ chĕm sóc tại chỗ, không cần thiết mở rộng vết mổ, và khoảng 4 ngày sau vùng mổ khô hoàn toàn. Một ca với miệng nối bằng CDH 25, vùng mổ hoàn toàn ổn định tới ra viện. Như vậy, chúng tôi nhận thấy hóa xạ tân hỗ trợ đã không quá ảnh hưởng trên tình trạng dò miệng nối, nếu miệng nối đó được thực hiện tốt với đầy đủ máu nuôi, kín và không cĕng. Điều này phù hợp với các nghiên cứu hiện nay của các tác giả trên thế giới. Riêng tình trạng hẹp miệng nối cần thêm thời gia theo dõi. Với bệnh nhân thực hiện miệng nối tay, 03 tháng sau mổ, có tình trạng nuốt hơi khó, bệnh nhân được chuyển nong miệng nối 01 lần bằng bóng tại BVCR, hiện tại ĕn uống tốt và lên cân. Bệnh nhân nối máy CDH 25, hiện tại vẫn ĕn uống tốt. Vấn đề đặt ra là có gì khác nhau khi nối tay hay máy hay không? Trong một nghiên cứu của Marijn Koeter, Maurice JC van der Sangen và cs trên 53 bệnh nhân (2009-2011), hóa - xạ tân hỗ trợ (23 X 1,8Gy), kết hợp với Paclitaxel + Carboplatin, phẫu thuật nội soi hoặc mổ mở với ống dạ dày thay thế thực quản và miệng nối ở cổ bên trái, nối tay hoặc nối máy stapler. Kết quả dò miệng nối 13/53 bệnh nhân (25,5%), hẹp miệng nối 24/53 bệnh nhân (45,3%). Thời gian theo dõi trung bình 20 tháng. Phân tích hồi quy logistic cho thấy liều xạ trung bình, tuối, bệnh đi kèm, phương pháp làm miệng nối, thời gian phẫu thuật và khoảng thời gian giữa kết thúc xạ trị và phẫu thuật không phải là những yếu tố phỏng đoán cho tình trạng dò hay hẹp miệng nối Các tác giả kết luận: liều xạ 23 x 1,8Gy, sẽ không gây ảnh hưởng đến tình trạng dò hay hẹp miệng nối trên bệnh nhân ung thư thực quản được hóa xạ tân hỗ trợ trước phẫu thuật[7]. Về vấn đề thực hiện miệng nối tay hay máy thì theo Pramod Kumar Mishra, cả 2 phương pháp đều cho hiệu quả tương đương. Tuy nhiên nối máy giúp giảm thời gian phẫu thuật và giảm tần suất hẹp miệng nối, đặc biệt khi có tình trạng dò miệng nối vùng cổ[9]. Ảnh hưởng của số lượng hạch phẫu tích được trên sống còn sau hóa - xạ trị trước phẫu thuật Trong cả 2 trường hợp phẫu thuật, số lượng hạch thu được không nhiều, 6 hạch trung thất/ mỗi ca, chủ yếu là hạch quanh carina. Có lẽ do đây là những ca chẩn đoán ban đầu đã là CT3N0M0, lại đã trải qua hóa xạ dẫn đầu, mặt khác có thể do kinh nghiệm phẫu thuật nạo hạch trung thất chưa thật hoàn chỉnh khi mà PTNS thì ngực chúng tôi chỉ mới thực hiện chưa đầy 2 nĕm gần đây. Khi số lượng hạch thu được ít thì sẽ giảm khả nĕng xác định giai đoạn thật chính xác và trong một chừng mực nào đó tĕng nguy cơ tái phát nếu như hạch di cĕn còn sót lại và như vậy sẽ ảnh hưởng tiên lượng sống còn trên bệnh nhân. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 269 Riêng phẫu thuật thì bụng, chúng tôi mổ mở và thực hiện song song với thì cổ khi bệnh nhân nằm ngữa. Chúng tôi vẫn làm nạo hạch thì bụng gần tương tự như trong ung thư dạ dày, tuy nhiên số lượng hạch cho ca 1 là 08, ca 2 chỉ 02. Điều này có thể do giai đoạn bệnh CT3N0 thật sự, nhưng cũng có thể do chủ quan PTV khi phẫu tích bệnh phẩm, bỏ sót các hạch nhỏ khác trong khối bệnh phẩm. Nghiên cứu CROSS (The Randomized Chemotherapy for Oesophageal cancer followed by Surgery Study) đã cho thấy hóa xạ tiền phẫu (nCRT = neoadjuvant chemoradiotherapy) kết hợp với phẫu thuật có hiệu quả tốt hơn phẫu thuật đơn thuần. Hiện nay, đây là phương thức điều trị chính đối với ung thư thực quản tại chỗ tại vùng. Thêm nữa, hóa xạ trước mổ cũng ảnh hưởng đến kiểu cách tái phát của ung thư. Tỉ lệ tái phát hạch trung thất thấp hơn quan trọng so với bệnh nhân phẫu thuật đơn thuần. Dẫu cho nghiên cứu CROSS cho thấy số lượng hạch phẫu tích được đã không ảnh hưởng trên sống còn của bệnh nhân. Tuy vậy, giá trị điều trị và tiên lượng của việc nạo hạch trên bệnh nhân điều trị hóa xạ tiền phẫu vẫn còn bàn cãi. Một điều đáng chú ý là hóa xạ tiền phẫu có thể ảnh hưởng trên số lượng hạch thu được. Một nghiên cứu pha III, ngẫu nhiên có kiểm soát nhận thấy số lượng hạch ở bệnh nhân có nCRT thấp hơn so với không có nCRT (16 vs 22, p = 0.001). Nghiên cứu CROSS cũng nhận thấy số lượng hạch giảm đi quan trọng sau nCRT. Mặc dù vậy, số lượng hạch nạo được vẫn là tiêu chuẩn đánh giá sự hoàn hảo của việc nạo hạch, việc này ảnh hưởng đến tính chính xác của việc xếp giai đoạn và nguy cơ tái phát sẽ tĕng nếu như những hạch thật sự bị di cĕn còn sót lại. Đáng lưu ý là số lượng hạch tối ưu cần lấy trên bệnh nhân sau điều trị hóa xạ tiền phẫu vẫn chưa được xác định rõ ràng. Theo Hana và cs thì nạo được nhiều hạch hơn, sống còn sẽ tốt hơn. Tác giả Chao và cs lại nhận thấy số lượng hạch thu được không ảnh hưởng sống còn nếu như đạt pCR (pathological complete response) sau khi nCRT. Riêng với bệnh nhân không có được pCR thì số lượng hạch thu được cao hơn (lớn hơn hoặc bằng 08) sẽ có tiên lượng tốt hơn. Tác giả San - Gang Wu và cs dựa trên mẫu phân tích lớn nhận thấy OS sẽ tốt hơn khi số lượng hạch thu được trên 10. Giải thích cho vấn đề này chính là khi nạo được nhiều hạch thì xếp giai đoạn sẽ chính xác hơn và bệnh nhân sẽ nhận được điều trị bổ túc thích hợp, như vậy sẽ cải thiện được kiểm soát tại chỗ và nâng cao sống còn. Tác giả nhận thấy số lượng hạch là một yếu tố tiên lượng độc lập trên bệnh nhân điều trị tiền phẫu. Như vậy, các PTV được khuyến cáo càng nạo được nhiều hạch càng tốt bất kể đáp ứng điều trị[11]. Tình trạng hạch sau điều trị tân hỗ trợ sẽ quyết định sống còn Cả 2 trường hợp của chúng tôi đều có kết quả toàn bộ là hạch viêm sau phẫu thuật. Điều này phù hợp chẩn đoán lâm sàng ban đầu là N0. Hy vọng đây là một dấu hiệu tích cực trong tiên lượng sống còn trên 2 bệnh nhân này. Tuy nhiên với bệnh nhân GPB Carcinom tb gai, biệt hóa kém thì vẫn còn một ít tế bào ác tính/ bướu sau hóa xạ và tiên lượng sẽ nhiều dè dặt hơn vì cho đến hiện tại vẫn chưa có sự đồng thuận trong việc có nên hóa trị bổ túc cho nhóm bệnh nhân này hay không - BN vẫn đang được tiếp tục theo dõi sát định kỳ. Theo một nghiên cứu mới đây, chính tình trạng của hạch chứ không phải tình trạng của bướu nguyên phát sau điều trị hóa hay hóa xạ mới là yếu tố quyết định sống còn của bệnh nhân ung thư thực quản tiến xa tại chỗ tại vùng. Nghiên cứu trình bày ở American Association for Thoracic Surgery’s 98th Annual Meeting cho thấy hóa xạ tiền phẫu sẽ cải thiện sống còn bệnh nhân, và bệnh nhân có di cĕn hạch có sống còn kém hơn không di cĕn hạch. Nghiên cứu cũng cho thấy nếu đáp ứng hoàn toàn tĕng, sống còn cũng sẽ cải thiện. Do đó, cần một chiến lược điều trị tân hỗ trợ tối ưu nhằm tĕng tỉ lệ đáp ứng hạch hoàn toàn và một kế hoạch điều trị bổ túc mạnh mẽ sau mổ nếu như bệnh học hạch còn di cĕn. Nghiên cứu này giúp BS có thể tư vấn cho bệnh nhân về tiên lượng của họ và quyết định những ai sẽ nhận được lợi ích của hóa trị bổ túc sau mổ[13]. KẾT LUẬN Những cố gắng trong điều trị hiện nay chính là phương pháp điều trị đa mô thức nhằm làm thay đổi sinh bệnh học của ung thư thực quản. Hóa xạ trị trước phẫu thuật giúp cải thiện khả nĕng cắt bỏ bướu nguyên phát, cải thiện khả nĕng kiểm soát tại chỗ - tại vùng, giảm di cĕn xa, và cho thấy nâng cao sống còn[6]. Tái phát cũng ít xảy ra hơn trên bệnh nhân ổn định từ 3 nĕm trở lên sau khi trải qua điều trị đa mô thức[6]. Với những kết quả bước đầu hứa hẹn trong điều trị đa mô thức với hóa xạ tân hỗ trợ, theo sau bằng phẫu thuật, chúng tôi đã và đang đi đúng hướng trong việc kiểm soát cĕn bệnh hiểm nghèo này. Tuy nhiên, để có một cái nhìn toàn diện và chính xác hơn, một số lượng bệnh nhân lớn hơn cần được ghi nhận và đánh giá trong tương lai. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 270 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ankit Bharat, MD, Traves Crabtree, MD (2012) Management of Advaced stage operable esophageal cancer. Contemporary Management of Esophageal Malignancy - Surgical clinics of North America, W.B Saunders Company, Philadelphia, 92 (5): 1185. 2. Jae Y Kim, MD, Arlene M Correa, PhD, Ara A Vaporciyan et al (2012). Does timing of Esophagectomy after Neoadjuvant Chemoradiation affect outcome? Ann Thoracic Surg; 93(1): 207 - 213. 3. Jessica S Donington, Daniel L Miller, Mark S Allen, Claude Deschamps, Francis C Nichols (2003). Tumor response to induction chemoradiation: influence on survival after esophagectomy. European journal of Cardio- thoracic Surgery 24: 631 - 637. 4. Joseph M Pepek, Christopher G Willett & Brian G Czito (2012). The CROSS trial: end of the debate on neoadjuvant therapy for esophageal cancer?. Clin.pract; 9 (6): 607 - 609. 5. Jose Mario Pimiento, Sarah E Hofffe, Khaldoun Almhanna (2016). Neoadjuvant chemotherapy versus chemoradiation for esophageal cancer: no survival difference does not mean no differences. Translational Cancer Research; 5 (6): 1281 - 1283. 6. John I Lew, MD; William E Gooding, MS; Ulysses Ribeiro Jr, MD et al (2001). Long term survival following induction chemoradiotherapy and esophagectomy for esophageal carcinoma. Arch Surg; 136: 737 - 742. 7. Marijn Koeter, Maurice JC van der Sangen, Coen W Hurkmans et al (2015). Radiation dose does not influence anastomotic complications in patients with esophageal cancer treated with neoadjuvant chemoradiation and transhiatal esophagectomy. Radiation Oncology; 10: 2 - 11. 8. Naufal Rashid, Mohamed Elshaer, Michael Kosmin and Amjid Riaz (2015). Current management of oesophageal cancer. British journal of Medical Practitioners; 8 (1): a804. 9. Pramod Kumar Mishra, Harsh Shah, Nikhil Gupta et al (2016). Stapled versus hand - sewn cervical esophagogastric anastomosis in patients undergoing esophagectomy: A Retrospective Cohort Study. Annals of Medicine and Surgery 5: 118 - 124. 10. Rachit D Shah, Anthony D Cassano, James P Neifeld (2014). Neoadjuvant therapy for esophageal cancer. World J Gastrointest Oncol; 6 (10): 403 - 406. 11. San-Gang Wu, Zhao - Qiang Zhang, Wen - Ming Liu et al (2016). Impact of the number of resected lymph nodes on survival after preoperative radiotherapy for esophageal cancer. Oncotarget; 7 (16): 22497 - 22506. 12. Shawn S Groth, MD, MS, FACS (2019). Pathologic complete response after esophagectomy following neoadjuvant chemoradiation therapy for esophageal carcinoma: A cure sometime? The journal of Thoracic and Cardiovascular Surgery; 157 (3): 1260 - 1261. 13. Shawn S Groth, MD, MS, FACS (2018). For patients with esophageal cancer, status of lymph nodes after preoperative therapy determines survival. https://medicalxpress.com/news/2018 - 05-patients-esophageal-cancer-status- lymph.html.
File đính kèm:
phau_thuat_ung_thu_thuc_quan_sau_hoa_xa_dong_thoi_nhan_2_tru.pdf

