Phẫu thuật thay van tim có tăng áp lực động mạch phổi nặng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức giai đoạn 2014-2016

Mục tiêu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu nhận xét kết quả sớm điều trị phẫu thuật thay van tim trên bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi nặng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức giai đoạn 2014 - 2016.

Kết quả: 70 trường hợp được phẫu thuật thay van tim có ALĐMP tâm thu ≥ 60 mmHg, trong đó có 54 trường hợp (77,14%) được phẫu thuật thay VHL đơn thuần và 16 trường hợp (22,86%) được phẫu thuật thay VHL phối hợp thay van ĐMC, có 46 BN can thiệp trên VBL. Tuổi trung bình 48,12±11,31 (23-74 tuổi). Thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể trung bình 123,96±57,27 phút. Siêu âm đánh giá tình trạng van tim nhân tạo sau mổ: 100% trường hợp van hoạt động tốt; 1,43% hở cạnh van. Tỷ lệ tử vong sau mổ thấp (1,43%), không có vỡ thất, không có chảy máu cần mổ lại. Áp lực động mạch phổi tâm thu giảm rõ sau mổ (từ 74,03±13,71 mmHg xuống 38,24 ±10,94 mmHg, p=0,00).

Kết luận: Phẫu thuật thay van tim trên BN có tăng áp lực ĐMP nặng vẫn là một lựa chọn khả thi, an toàn và hiệu quả

pdf 8 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật thay van tim có tăng áp lực động mạch phổi nặng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức giai đoạn 2014-2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật thay van tim có tăng áp lực động mạch phổi nặng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức giai đoạn 2014-2016

Phẫu thuật thay van tim có tăng áp lực động mạch phổi nặng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức giai đoạn 2014-2016
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
47TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018
Phẫu thuật thay van tim có tăng áp lực động 
mạch phổi nặng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức 
giai đoạn 2014-2016
 Đoàn Quốc Hưng, Nguyễn Anh Huy
Khoa PT Tim mạch Lồng ngực Bệnh viện Việt Đức
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu 
nhận xét kết quả sớm điều trị phẫu thuật thay van 
tim trên bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi 
nặng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức giai đoạn 
2014 - 2016.
Kết quả: 70 trường hợp được phẫu thuật thay 
van tim có ALĐMP tâm thu ≥ 60 mmHg, trong đó 
có 54 trường hợp (77,14%) được phẫu thuật thay 
VHL đơn thuần và 16 trường hợp (22,86%) được 
phẫu thuật thay VHL phối hợp thay van ĐMC, 
có 46 BN can thiệp trên VBL. Tuổi trung bình 
48,12±11,31 (23-74 tuổi). Thời gian chạy tuần hoàn 
ngoài cơ thể trung bình 123,96±57,27 phút. Siêu 
âm đánh giá tình trạng van tim nhân tạo sau mổ: 
100% trường hợp van hoạt động tốt; 1,43% hở cạnh 
van. Tỷ lệ tử vong sau mổ thấp (1,43%), không có 
vỡ thất, không có chảy máu cần mổ lại. Áp lực động 
mạch phổi tâm thu giảm rõ sau mổ (từ 74,03±13,71 
mmHg xuống 38,24 ±10,94 mmHg, p=0,00).
Kết luận: Phẫu thuật thay van tim trên BN có 
tăng áp lực ĐMP nặng vẫn là một lựa chọn khả thi, 
an toàn và hiệu quả.
Từ khóa: Phẫu thuật thay van tim, tăng áp lực 
động mạch phổi nặng.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh van tim, đặc biệt là bệnh van hai lá (VHL) 
và van động mạch chủ (ĐMC) là một trong những 
vấn đề lớn của bệnh tim mạch. Trong đó, những 
bệnh nhân có bệnh van tim kèm tăng áp lực động 
mạch phổi (tăng ALĐMP) là một trong những 
nhóm bệnh nhân cần được chú ý. Tăng ALĐMP 
là bệnh đặc trưng bởi sự tăng, tiến triển kháng trở 
mạch phổi gây nên khó thở, giảm hoặc mất khả năng 
vận động gắng sức, dẫn tới suy tim phải và tử vong 
sớm [1],[2]. Các tác giả nhận định tăng ALĐMP 
nặng làm tăng nguy cơ tử vong sau mổ gấp 2-3 lần 
so với không có hoặc tăng nhẹ áp lực động mạch 
phổi, kết quả theo dõi xa ở những bệnh nhân (BN) 
có tăng ALĐMP nặng cũng kém hơn so với nhóm 
tăng áp lực động mạch phổi nhẹ hoặc vừa [3],[4]. 
Do vậy trước đây việc chỉ định phẫu thuật ở nhóm 
bệnh này rất dè dặt, đa phần nghiêng về điều trị nội, 
không thay van.
Ngày nay, với sự phát triển về khoa học kỹ thuật, 
kinh tế, trình độ dân trí, nhiều BN bệnh van tim có 
tăng ALĐMP nặng đã được tiếp cận với các cơ sở y 
tế để chẩn đoán và điều trị. Cùng với sự phát triển 
về khoa học y học, nhiều trung tâm phẫu thuật tim 
mạch và can thiệp tim mạch đã ra đời và phát triển, 
điều trị BN bệnh van tim ở các mức độ bệnh khác 
nhau, trong đó có bệnh van tim tăng ALĐMP nặng. 
Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức là một bệnh viện 
tuyến cuối hàng năm tiếp nhận chẩn đoán và điều 
trị nhiều BN bệnh van tim có tăng ALĐMP nặng, 
với số lượng BN ngày càng tăng. Vì vậy chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu nhận xét 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
48 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018
Bảng 1. Các chỉ số siêu âm tim trước mổ (n=70)
Các chỉ số Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình
Nhĩ trái (mm) 19 82 52,69 ±13,97
Thất trái tâm trương (mm) 34 85 53,32 ± 9,82
kết quả sớm điều trị phẫu thuật bệnh van tim có 
tăng áp lực động mạch phổi nặng tại Bệnh viện Hữu 
nghị Việt Đức giai đoạn 2014-2016.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
Các BN được chẩn đoán bệnh van tim có tăng 
ALĐMP nặng, được phẫu thuật thay van tại Khoa 
Phẫu thuật Tim mạch-Lồng ngực Bệnh viện Hữu 
nghị Việt Đức giai đoạn 2014-2016.
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
- Chẩn đoán xác định bệnh VHL và/ hoặc bệnh 
van ĐMC
- ALĐMP tâm thu trước mổ ≥60 mmHg đo 
bằng siêu âm Doppler tim qua thành ngực.
- BN được phẫu thuật thay VHL, van ĐMC đơn 
thuần và/ hoặc phối hợp
- Có hoặc không phẫu thuật hoặc sửa van ba lá 
phối hợp.
- Hồ sơ bệnh án đáp ứng yêu cầu nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Được thay VHL nhưng có kèm theo can thiệp 
trên ĐMC lên, động mạch vành.
- Có thương tổn tim bẩm sinh kèm theo (thông 
liên thất, thông liên nhĩ).
- Thay lại van hoặc thay van sử dụng kỹ thuật ít 
xâm lấn (MICS).
- Các bệnh nhân có thông tin trong hồ sơ không 
đầy đủ.
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang hồi cứu 
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
Chọn mẫu thuận tiện theo số đối tượng thu thập 
được trong thời gian nghiên cứu.
Biến số/chỉ số nghiên cứu
Các thông tin về nhân khẩu học, đặc điểm lâm 
sàng (tiền sử bệnh lý liên quan, tình trạng nhập 
viện, mức độ khó thở, phù phổi cấp, suy tim), 
đặc điểm cận lâm sàng (điện tâm đồ, XQ tim phổi, 
siêu âm tim trước mổ), đặc điểm phẫu thuật và 
kết quả sớm sau mổ được thu thập. Thu thập thông 
tin, số liệu từ hồ sơ bệnh án lấy từ phòng lưu trữ hồ 
sơ Bệnh viện Việt Đức theo biểu mẫu thống nhất.
Xử lí và phân tích số liệu
Các số liệu được thu thập và xử lý bằng chương 
trình Epidata, STATA 13.0. Sử dụng các test: 
T-student, X2 để kiểm định. Giá trị p<0,05 được 
xem xét có ý nghĩa thống kê.
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu chỉ nhằm bảo vệ và nâng cao sức 
khỏe cho cộng đồng. Đối tượng nghiên cứu được 
cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết, tự nguyện tham 
gia nghiên cứu. Các thông tin liên quan đến đối 
tượng được giữ bí mật, chỉ phục vụ cho mục đích 
nghiên cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong giai đoạn 2014 - 2016, có 70 trường hợp 
đủ tiêu chuẩn nghiên cứu, trong đó có 54 trường 
hợp (77,14%) thay VHL đơn thuần và 16 trường hợp 
(22,86%) được phẫu thuật thay VHL và van ĐMC, 
có 46 trường hợp sửa van ba lá (VBL). Tuổi trung 
bình là 48,12 ± 11,31 (tuổi), lớn nhất 74 tuổi, nhỏ 
nhất là 23 tuổi. BN ở độ tuổi lao động từ 30 đến 60 
tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất. BN là nữ giới chiếm đa số 
66%, tỷ lệ nữ/nam là 1,9.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
49TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018
Thất phải (mm) 16 44 26,21 ±6,11
Phân xuất tống máu thất trái (EF%) 36 75 58,42 ± 8,87
ALĐMP tâm thu (mmHg) 60 110 74,03 ±13,71
Bảng 2. Thương tổn ở van tim trên siêu âm (n=70)
Thương tổn
Van hai lá Van ĐMC
N % n %
Dạng thấp 58 82,9 30 81,1
Dạng Osler 3 4,3 3 8,1
Dạng thoái hóa 4 5,7 4 10,8
Dạng khác 5 7,1 0 0,0
Tổng 70 100,0 37 100,0
Bảng 3. Thương tổn van ba lá trên siêu âm tim (n=70)
Mức độ HoBL n Tỷ lệ (%)
¼ 5 7,14
2/4 29 41,43
¾ 33 47,14
4/4 3 4,29
Tổng 70 100
100% BN đều tổn thương HoBL, trong đó đa số mức độ hở vừa (29 BN= 41,43%) và hở nặng (33 
BN=47,14%). 92,86% HoBL ≥ 2/4.
Bảng 4. Loại van sử dụng (n=70)
Đặc điểm van
Can thiệp van hai lá Can thiệp van ĐMC
N % n %
Cơ học 42 60,0% 12 75%
Sinh học 28 40,0% 4 25%
Tổng số 70 100% 16 100%
Bảng 5. Thời gian kẹp ĐMC và thời gian chạy máy tuần hoàn ngoài cơ thể (n=70)
Thời gian Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình
Thời gian kẹp ĐMC (phút) 32 133 100,99 ± 44,38
Thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể (phút) 60 460 123,96 ± 57,27
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
50 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018
Bảng 6. Thuốc vận mạch sau mổ (n=70)
Vận mạch trong mổ Vận mạch sau mổ
n % n %
Không thuốc 1 1,9% 4 5,7%
Một thuốc 29 54,7% 43 61,5%
Hai thuốc 20 37,7% 19 27,1%
Phối hợp 3 thuốc trở nên 3 5,7% 4 5,7%
Trong mổ có 98,1% BN cần sử dụng thuốc vận mạch ngay sau thả kẹp ĐMC, trong đó 3 trường hợp 
(5,7%) phối hợp ba thuốc. Sau mổ tỷ lệ BN dùng phối hợp hai hoặc ba thuốc vận mạch giảm xuống.
Bảng 7. Thời gian điều trị sau mổ (n=70)
Thời gian Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình
Thời gian hậu phẫu (ngày) 7 57 19,64 ± 10,29
Thời gian thở máy sau mổ (giờ) 6 240 70,16 ± 58,84
Thời gian nằm hồi sức sau mổ (ngày) 1 26 6,34 ± 5,35
Thời gian nằm viện sau mổ (ngày) 7 57 19,64 ± 10,29
Bảng 8. Biến chứng sớm sau mổ (n=70)
Biến chứng n %
Tử vong 1 1,4
Vỡ thất 0 0,0
Chảy máu phải mổ lại 0 0,0
Tràn dịch màng ngoài tim 2 2,9
TDMP, TKMP 15 21,4
Phù phổi cấp 0 0,0
Viêm phổi 0 0,0
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
51TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018
Nhiễm trùng vết mổ 0 0,0
Suy gan 0 0,0
Suy thận 1 1,4
Viêm nội tâm mạc 0 0,0
Hở cạnh van nhân tạo 1 1,4
Kẹt van nhân tạo 0 0,0
Tắc mạch do dùng không đầy đủ thuốc chống đông 0 0,0
Tắc mạch do dùng quá liều thuốc chống đông 0 0,0
Suy tuần hoàn sau mổ cần sử dụng ECMO 0 0,0
Số bệnh nhân cần sử dụng bóng đối xung 0 0,0
Bảng 9. Các chỉ số siêu âm tim lúc ra viện (n=69)*
Chỉ số trên siêu âm tim lúc ra viện Trước phẫu thuật Sau phẫu thuật p
Đường kính nhĩ trái (mm) 52,69 ± 13,97 49,57 ± 8,00 0,10
Đường kính thất trái tâm trương (mm) 53,32 ± 9,82 52,11 ± 7,52 0,41
Đường kính thất phải (mm) 26,21 ± 6,11 22,18 ± 3,54 0,00
Phân suất tống máu (EF%) 58,42 ± 8,87 58,18 ± 8,71 0,87
ALĐMP tâm thu (mmHg) 74,03 ± 13,71 38,24 ± 10,94 0,00
* Không tính 1 BN tử vong ngay sau mổ
BÀN LUẬN
Nghiên cứu trên 70 BN cho thấy, phương pháp 
siêu âm tim được sử dụng trong chẩn đoán trong 
nghiên cứu. Đây là phương pháp thăm dò cận lâm 
sàng quan trọng và hiệu quả trong chẩn đoán bệnh 
lý tim mạch nói chung. Siêu âm tim Doppler qua 
thành ngực cho phép xác định các thương tổn ở van 
tim, sự giãn các buồng tim, đo ALĐMP tâm thu 
cũng là một yếu tố quan trọng để tiên lượng bệnh. 
Bảng 3.1 cho kết quả đường kính nhĩ trái trung bình 
là 52,69± 13,97mm; đường kính thất phải trung 
bình 26,21±6,11 mm; đường kính thất trái tâm 
trương trung bình 53,32 ±9,82 mm, chức năng tim 
trung bình (EF%) 58,4 ±8,87. Các thông số này 
cũng phù hợp với nghiên cứu của Đặng Hanh Sơn 
(2010) tại Viện Tim Hà Nội [5] và Nguyễn Hồng 
Hạnh (2012) tại bệnh viện E [6]. Áp lực động 
mạch phổi tâm thu trong nghiên cứu của chúng tôi 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
52 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018
là 74,03± 13,71 mmHg, cao hơn nhiều so với các 
nghiên cứu của các tác giả trong nước như Đặng 
Hanh Sơn (2010) là 53,8±16,40 mmHg, Nguyễn 
Hồng Hạnh (2012) là 52,6±18,0 mmHg [5],[6].
Về thương tổn ở bộ máy VHL quan sát trên siêu 
âm, trong nghiên cứu của chúng tôi có 82,86% BN 
có thương tổn van dạng thấp: lá van dày, co rút lá 
van và tổ chức dưới van (Bảng 2). Điều đó cho thấy 
đa phần căn nguyên gây bệnh VHL ở nước ta vẫn là 
hậu thấp. Thương tổn dạng thấp trên siêu âm đối với 
van ĐMC cũng cho kết quả tương tự (81,08%). Kết 
quả này cũng tương đồng với các tác giả nghiên cứu 
trong nước khác [5], [11].
Trong bệnh lý van tim có tăng ALĐMP nặng, 
HoBL là thương tổn kèm theo hay gặp nhất. HoBL 
thường là hở cơ năng do giãn vòng van, hậu quả 
của giãn buồng thất phải khi thất phải co bóp để 
thắng được ALĐMP tăng cao. Áp lực động mạch 
phổi càng tăng cao thì thất phải càng co bóp mạnh 
hơn để thắng được sức cản, thất phải càng giãn và 
HoBL càng nặng nề. Hở van ba lá 2/4-3/4 cần can 
thiệp thu nhỏ vòng van trong mổ. Hở ba lá 4/4 nên 
dùng vòng van nhân tạo [7], [8]. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, 100% BN đều có tổn thương HoBL, 
trong đó đa số mức độ hở vừa (29 BN=41,43%) và 
hở nặng (33 BN =47,14%) (Bảng 3). So sánh với 
các tác giả khác, tỷ lệ HoBL trong nghiên cứu của 
chúng tôi có cao hơn, hậu quả của tăng ALĐMP lâu 
dài và nặng [7].
Kết quả nghiên cứu cho thấy, các BN được sử 
dụng tuần hoàn ngoài cơ thể thường quy, có hoặc 
không hạ thân nhiệt. Thời gian chạy máy tuần hoàn 
ngoài cơ thể nhỏ nhất là 60 phút, lâu nhất là 460 
phút, trung bình là 123,96 ± 57,27 phút. Thời gian 
kẹp ĐMC nhỏ nhất là 32 phút, lớn nhất là 133 
phút, trung bình là 100,99 ± 44,38 phút (Bảng 5). 
Thời gian kẹp ĐMC và chạy máy tuần hoàn ngoài 
cơ thể của chúng tôi có dài hơn một số nghiên cứu 
của các tác giả trong nước. Một phần vì thương tổn 
van nặng về, van dày, co rút và vôi hóa rất nhiều nên 
thao tác phải hết sức cẩn trọng. Một phần vì đa phần 
các BN trong nhóm nghiên cứu đều cần làm các thủ 
thuật can thiệp thêm như: lấy huyết khối nhĩ trái, 
khâu chân tiểu nhĩ trái.
Thời gian thở máy trung bình là 70,16±58,84, 
thời gian nằm hồi sức trung bình 6,34±5,35 ngày, 
thời gian nằm viện trung bình 19,64±10,29 ngày. 
Có 7,14% BN thở máy dưới 24 giờ, 24,29% BN 
thở máy 24-48 giờ và 68,57% BN thở máy > 48 
giờ. Thời gian nằm hồi sức phần lớn dưới 7 ngày 
(70%). Thời gian thở máy của các BN trong nghiên 
cứu của chúng tôi dài hơn so với các nghiên cứu 
khác. Theo Nguyễn Hữu Ước (2005) có thời gian 
thở máy trung bình là 25,9±20,5 giờ, Nguyễn Xuân 
Thành (2010) là 24,3±36,24 giờ [11]. Điều đó cho 
thấy những biến đổi về mô học ở động mạch phổi 
do hậu quả của tăng ALĐMP nặng kéo dài gây phức 
tạp, khó khăn cho điều trị sau mổ thay van.
Kết quả sớm sau mổ: có 1 BN tử vong bệnh viện 
chiếm 1,43%. Nguyên nhân tử vong do diễn biến 
suy tim cấp sau mổ, không đáp ứng với các thuốc 
vận mạch và trợ tim, rất tiếc BN không có điều 
kiện kinh tế để bệnh viện có thể thực hiện thêm các 
phương pháp hồi sức khác (ECMO, IABP). Tỷ lệ tử 
vong 1,43% khi tiến hành phẫu thuật trên nhóm BN 
nhiều nguy cơ như tăng ALĐMP nặng, theo chúng 
tôi là một kết quả rất đáng ghi nhận, điều đó chứng tỏ 
sự thuần thục trong kỹ thuật mổ, kỹ thuật chạy máy 
tuần hoàn ngoài cơ thể, đặc biệt là khả năng chăm 
sóc hồi sức sau mổ tại khoa phẫu thuật Tim mạch 
- Lồng ngực Bệnh viện Việt Đức. Najafi (1969) 
nghiên cứu thấy tỷ lệ tử vong là 16% ở nhóm có tăng 
ALĐMP vừa và 61% ở nhóm có tăng ALĐMP nặng 
[4]. Các nghiên cứu của các tác giả gần đây cho thấy 
tỷ lệ này có giảm xuống. Nirmal Kumar (2013) 
nghiên cứu thấy tỷ lệ tử vong ở nhóm có tăng ALĐMP 
nặng là 16,6% [9]. Tỷ lệ tử vong trong nghiên cứu 
của chúng tôi cũng không cao hơn một số nghiên 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
53TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018
cứu thay van tim nói chung ở trong và ngoài nước. 
Ngoại trừ 1 trường hợp tử vong bệnh viện, qua 
theo dõi 69 trường hợp còn lại trong thời gian hậu 
phẫu chúng tôi không gặp trường hợp nào bị vỡ thất, 
hay chảy máu phải mổ lại, không có trường hợp nào 
phải sử dụng ECMO hay bóng đối xung sau mổ. Tỷ 
lệ này thấp hơn so với tác giả Tạ Hoàng Tuấn (2016), 
nghiên cứu trên nhóm BN thay van ĐMC, 3 trường 
hợp chảy máu phải mổ lại (1,95%), 9 trường hợp 
phải dùng bóng đối xung (5,84%) [10]. Có 1 BN 
(1,43%) bị suy thận sau mổ, 15 trường hợp tràn máu 
tràn khí khoang màng phổi tuy nhiên các trường hợp 
này đều được xử lý kịp thời không làm nặng thêm 
tình trạng của BN. Trường hợp suy thận sau mổ cần 
phải siêu lọc nhưng cũng phục hồi nhanh và không 
làm thay đổi đáng kể kết quả điều trị.
Kết quả siêu âm tim kiểm tra sớm sau mổ cho 
thấy ALĐMP tâm thu giảm có ý nghĩa thống kê với 
p < 0,05 (Bảng 9). Điều này thực sự có ý nghĩa vì 
nó cho thấy hiệu quả ngay sau phẫu thuật thay van. 
Các chỉ số đường kính thất trái tâm trương (Dd), 
phân suất tống máu thất trái (EF%) thay đổi không 
có ý nghĩa thống kê so với trước mổ. Kết quả nghiên 
cứu này cũng phù hợp với kết quả của Đặng Hanh 
Sơn [5], Nguyễn Xuân Thành [11], Nguyễn Hồng 
Hạnh [6]. Những biến đổi này là phù hợp với sinh 
lý bệnh sau mổ thay van. Kích thước buồng thất trái 
chưa thể giảm ngay, chức năng tim (EF%) chưa thể 
cải thiện ngay sau mổ. Nguyễn Hồng Hạnh (2012) 
khi nghiên cứu về sự thay đổi huyết động sau mổ 
thay VHL cũng có nhận xét tương tự: đường kính 
nhĩ trái giảm ngay sau mổ, kích thước thất trái giảm 
có ý nghĩa ở nhóm có HoHL, còn nhóm HHL thì 
thất trái có xu hướng lớn hơn; chức năng tim (EF%) 
thay đổi không có ý nghĩa ngay sau mổ cho tới thời 
điểm 6 tháng sau phẫu thuật [6].
KẾT LUẬN
Phẫu thuật thay van tim ở nhóm bệnh nhân 
bệnh van tim có tăng áp lực động mạch phổi nặng, 
dù còn tồn tại nhiều nguy cơ tử vong và biến chứng, 
nhưng đây vẫn là phương pháp chọn lựa để giúp cải 
thiện các triệu chứng và chức năng tim của bệnh 
nhân, góp phẫn làm giảm tỷ lệ tử vong do suy tim 
và tăng áp lực động mạch phổi cố định nếu không 
được phẫu thuật.
ABSTRACT
Heart valve replacement surgery among patients with severe pulmonary arterial hypertension at 
Viet Duc hospital in 2014-2016
Aims:A cross-sectional study was conducted to examinethe early effects of heart valve replacement 
surgery among patients with severe pulmonary arterial hypertension at the Viet Duc Hospital from 2014 
to 2016.
Results: There were 70 patients undergoing valve replacement surgeries with pulmonary artery systolic 
pressure ≥ 60 mmHg, of which 54 cases (77,14%) experienced mitral valve replacement surgery, 16 
cases (22,86%) underwent mitro- aortic valve replacement surgery; and 46 cases had tricuspid valve 
repair. The mean age of patients were 48,12±11,31 years old (range 23-74 years old). Time for extra 
corporeal circulation was long (123,96±57,27 minutes). Postoperative ultrasound showed that: 100% 
valves were well performed, and 1,43% with perivalvular leak. The postoperative mortality was low 
(1,43%); no case had ventricular rupture or bleeding that required reoperation. Systolic blood pressure 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
54 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Marc Humbert, Joseph P. Lynch III (2009). Epidemiology of Pulmonary Arterial Hypertension. 
Lung Biology in Health and Disease, 236,10-19.
2. Kamal K and Mubarak (2009). A review of prostaglandin analogs in the management of patients with 
pulmonary arterial hypertension. Respiratory Medicine. 112, p. 1-13.
3. ACCF/AHA (2009). Expert Consensus Document on Pulmonary Hypertension. Journal of the American 
College of Cardiology. 53(17), 1573-1619.
4. Todd L. Kiefer, T.M. Bashore (2011). “Pulmonary Hypertension Related to Left-Sided Cardiac 
Pathology”. Pulmonary Medicine. 2011, 1-11.
5. Đặng Hanh Sơn (2010). Nghiên cứu đánh giá kết quả phẫu thuật thay van hai lá bằng van cơ học Sorin 
tại bệnh viện tim Hà Nội, Luận án tiến sĩ y học, Học viện Quân y.
6. Nguyễn Hồng Hạnh (2012). Nghiên cứu biến đổi lâm sàng, huyết động trước và sau phẫu thuật thay 
van hai lá bằng van cơ học loại Saint Judes Master, Luận án tiến sĩ, Viện nghiên cứu khoa học y-dược lâm 
sàng 108.
7. Đoàn Quốc Hưng, Phạm Quốc Đạt, Nguyễn Hữu Ước (2013). Kết quả sau mổ van ba lá trong điều 
trị bệnh van tim mắc phải tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Tạp chí Tim mạch học Việt Nam. 64, 9-17.
8. Nguyễn Văn Phan (2014). Những yếu tố liên quan đến chỉ định can thiệp bệnh hở van ba lá đồng thời 
trong phẫu thuật thay van hai lá tại Viện Tim TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Phẫu thuật tim mạch và lồng ngực 
Việt Nam. 6, 3-8.
9. T. K. Kaul (1976). Mitral valve replacement in the presence of severe pulmonary hypertension”. Thorax. 
31, 332-336.
10. Tạ Hoàng Tuấn, Đặng Hanh Sơn, Đoàn Quốc Hưng (2016). Đánh giá kết quả thay van ĐMC cơ 
học Sorin Bicarbon tại Bệnh viện Tim Hà Nội giai đoạn 2009-2014. Tạp chí Tim mạch học Việt Nam, 
74, 24-31.
11. Nguyễn Xuân Thành (2010). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả phẫu thuật thay 
van hai lá có huyết khối nhĩ trái tại Bệnh viện Việt Đức, Luận văn thạc sĩ, Đại học Y Hà Nội.
of pulmonary artery was significantly reduced after the operation (74,03±13,71 mmHg to 38,24±10,94 
mmHg, p=0.00).
Conclusion: valve replacement surgery among patients with severe pulmonary arterial hypertension is 
still a good choice and safe solution.
Keywords: Cardiac valve replacement, severe pulmonary arterial hypertension.

File đính kèm:

  • pdfphau_thuat_thay_van_tim_co_tang_ap_luc_dong_mach_phoi_nang_t.pdf