Phẫu thuật tạo hình bản sống VVT-kỹ thuật hirabayashi cải biên-néo ép đỉnh mấu gai vào ốc khối bên cho bệnh lý tủy sống cổ

Tóm tắt

Tạo hình bản sống mở rộng ống sống cổ là một phương

pháp điều trị hiệu quả cho bệnh lý tủy sống cổ. Hai phương

pháp được chọn lựa như tiêu chuẩn vàng ở Nhật Bản hiện

nay: mở cửa sổ một bên Itoh và mở cửa sổ hai bên

Kurokawa. Tuy nhiên Hosono năm 1996 phát hiện thấy nhiều

biến chứng đau cổ theo trục sau mổ của các phương pháp

trên. Để phòng ngừa những bất lợi này, chúng tôi xin giới

thiệu một kỹ thuật Hirabayashi đổi mới thích ứng với điều kiện

xã hội-kinh tế-y tế tại Việt Nam: phẫu thuật tạo hình bản sống

VVT bằng phương pháp néo ép đỉnh mấu gai vào ốc khối

bên, mang tính bảo tồn mô mềm và xương cao: không phá

dây chằng liên gai, dây chằng trên gai, giữ nguyên vẹn màng

bao khớp, đỉnh mấu gai, không cắt nơi bám cơ vào đỉnh mấu

gai C2. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá kết quả lâm

sàng và hình ảnh học của phương pháp tạo hình bản sống

VVT

pdf 10 trang phuongnguyen 3680
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật tạo hình bản sống VVT-kỹ thuật hirabayashi cải biên-néo ép đỉnh mấu gai vào ốc khối bên cho bệnh lý tủy sống cổ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật tạo hình bản sống VVT-kỹ thuật hirabayashi cải biên-néo ép đỉnh mấu gai vào ốc khối bên cho bệnh lý tủy sống cổ

Phẫu thuật tạo hình bản sống VVT-kỹ thuật hirabayashi cải biên-néo ép đỉnh mấu gai vào ốc khối bên cho bệnh lý tủy sống cổ
NGHIÊN CỨU 
THỜI SỰ Y HỌC 09/2016 31 
PHẪU THUẬT TẠO HÌNH BẢN SỐNG VVT – KỸ 
THUẬT HIRABAYASHI CẢI BIÊN – NÉO ÉP ĐỈNH 
MẤU GAI VÀO ỐC KHỐI BÊN CHO BỆNH LÝ TỦY 
SỐNG CỔ 
Phan Anh Tuấn* Võ Văn Thành* 
Tóm tắt 
Tạo hình bản sống mở rộng ống sống cổ là một phương 
pháp điều trị hiệu quả cho bệnh lý tủy sống cổ. Hai phương 
pháp được chọn lựa như tiêu chuẩn vàng ở Nhật Bản hiện 
nay: mở cửa sổ một bên Itoh và mở cửa sổ hai bên 
Kurokawa. Tuy nhiên Hosono năm 1996 phát hiện thấy nhiều 
biến chứng đau cổ theo trục sau mổ của các phương pháp 
trên. Để phòng ngừa những bất lợi này, chúng tôi xin giới 
thiệu một kỹ thuật Hirabayashi đổi mới thích ứng với điều kiện 
xã hội-kinh tế-y tế tại Việt Nam: phẫu thuật tạo hình bản sống 
VVT bằng phương pháp néo ép đỉnh mấu gai vào ốc khối 
bên, mang tính bảo tồn mô mềm và xương cao: không phá 
dây chằng liên gai, dây chằng trên gai, giữ nguyên vẹn màng 
bao khớp, đỉnh mấu gai, không cắt nơi bám cơ vào đỉnh mấu 
gai C2. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá kết quả lâm 
sàng và hình ảnh học của phương pháp tạo hình bản sống 
VVT. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu 
36 trường hợp bệnh lý tủy sống cổ được phẫu thuật tạo hình 
bản sống VVT tại Khoa Cột Sống A Bệnh Viện Chấn Thương 
Chỉnh Hình từ tháng 11/2007 đến tháng 09/2012. 
Chỉ định phẫu thuật: Bệnh lý tủy sống cổ chèn ép do các 
nguyên nhân riêng lẻ hay phối hợp nhau không kèm còng cột 
sống cổ: 1-Nhiều tầng bệnh (ba hay bốn tầng). 2-Một hay hai 
tầng có kèm hẹp ống sống cổ bẩm sinh. 
Kỹ thuật: Dùng khoan mài đính kim cương mài qua hai vỏ 
xương nơi nối bản sống và khối mấu khớp phía bên có triệu 
chứng lâm sàng nặng hơn. Mài qua một vỏ xương phía bên 
đối diện. 
Từ C3 đến C6: Ốc được đặt từng con vào khối bên, điểm 
đặt giống Roy Camille, nhưng theo kỹ thuật riêng của chúng 
tôi, bắt thẳng ra trước cho C3, C4, C5 và hướng ra ngoài 15 
độ ở C6. Đường kính ốc 3.5 mm (4 mm hoặc 4.5 mm cho 
trường hợp loãng xương). Chiều dài ốc là 14mm hay ít hơn. 
Cột chỉ thép vào đỉnh từng mấu gai và ống sống được dở lên 
khoảng 10mm-15mm. BN chỉ mang nẹp cổ 1 tuần sau mổ. 
Tập phục hồi chức năng tránh teo các cơ vùng cổ và phục 
hồi vận động các chi yếu liệt. 
Kết quả: Thời gian phẫu thuật trung bình: 129 phút (90-
180). Lượng máu mất trung bình: 203 ml (30-600). Truyền 
máu: 0 ca. Thời gian theo dõi trung bình: 24 tháng (12-60). 
Điểm JOA trung bình trước mổ: từ 10.42 ± 2.56 (2-13). Điểm 
JOA trung bình ngay sau mổ: 13.94 ± 1.93 (8-16). Điểm JOA 
trung bình khi theo dõi lần chót: 14.78 ± 1.38 (10-16). Tỉ lệ 
phục hồi Hirabayashi ngay sau mổ: 56.3% ± 12.05. Tỉ lệ phục 
hồi Hirabayashi sau theo dõi lâu dài: 67.11% ± 10.59. Biến 
chứng: 1 ca đau cổ, 1 ca liệt rễ C6 diễn tiến vào ngày thứ 2 
sau mổ và phục hồi hoàn toàn 6 tháng sau. 
*Khoa Cột Sống A, BV Chấn thương Chỉnh hình TP. HCM, Việt Nam 
Công trình nghiên cứu của Khoa Cột Sống A- PGS TS BS Võ Văn Thành, 
BV Chấn thương Chỉnh hình, TP. HCM, Việt Nam 
Kết luận: Đây là một phương pháp hiệu quả tương 
đương các phẫu thuật tạo hình bản sống kinh điển. Tuy 
nhiên, kỹ thuật đơn giản với ít tổn thương cho xương và dây 
chằng, dễ thực hành và thời gian học tập ngắn với kết quả 
rất khả quan. Phương pháp này hoàn toàn khả thi trong nước 
ta và đóng góp thêm một lựa chọn điều trị cho bệnh lý tủy 
sống cổ với kết quả tốt, giá thành phù hợp. 
Từ khóa: Phẫu thuật tạo hình bản sống VVT, kỹ thuật 
Hirabayashi cải biên, néo ép đỉnh mấu gai vào ốc khối bên, 
bệnh lý tủy sống cổ, tạo hình bản sống, tính bảo tồn mô mềm 
và xương, điểm JOA, kỹ thuật Hirabayashi, mở cửa sổ một 
bên Itoh, mở cửa sổ hai bên Kurokawa. 
Abstract 
VVT LAMINOPLASTY– A NEW TECHNIQUE OF 
MODIFIED HIRABAYASHI – WITH LATERAL MASS 
SCREWING AND SPINOUS PROCESS WIRING 
FOR CERVICAL MYELOPATHY 
Expansive laminoplasty is an effective treatment for 
cervical myelopathy. Two methods were selected as the gold 
standard in Japan: one side open-door Itoh and two sides 
open-door Kurokawa. However, Hosono 1996 (7) recognized 
some disavantages of these techniques such as axial pain 
symptoms. To prevent these inconveniences, we have 
introduced the new modified Hirabayashi laminoplasty 
technique to adapt to the socio-economo-medical conditions 
in VietNam: VVT laminoplasty by expansive open-door 
laminoplasty with lateral mass screwing and spinous process 
wiring, conservative behaviour to soft tissue and bone: 
preserve the supraspinatus and interspinous ligament, facet 
capsules, tips of spinous process, the muscle insertion to tip 
of C2 spinous process. The purpose of this retrospective 
study was to evaluate the clinical and radiologic results of 
lateral mass screwing and spinous process wiring in cervical 
expansive open door - VVT laminoplasty. 
Methods of the study: A retrospective cohort study 
conducted in 36 patients whose diagnosis is cervical 
myelopathy and were operated with VVT laminoplasty at 
Spinal Surgery Department A in Hospital for Traumatology & 
Orthopedics, HCM City, Viet Nam from November 2007 to 
September 2012. 
Indications for surgery: Compressive cervical myelopathy 
due to different causes isolated or combined (CDH, CSS, 
OPLL, OYL) without cervical kyphosis: 1-Multiple levels (3,4 
levels). 2-One or two levels in developmental cervical 
stenosis. 
Technique: One gutter through two cortex in the junction 
area of cervical mass and laminar on the predominant 
symptoms and signs is realized. One gutter through only one 
cortex on the opposite side is realized. 
From C3 to C6 level: Lateral mass screwing for every 
level with the same entry point as done by Roy Camille’s 
CHUYÊN ĐỀ CỘT SỐNG 
32 THỜI SỰ Y HỌC 09/2016 
technique. The posterior-anterior direction is simple: 0 degree 
for C3, C4, C5 and 15 degree out for C6. Screw’s diameter is 
3.5 mm (4 or 4.5 mm for osteoporotic bone) and the length of 
screws should be 14 mm or less. 
VVT laminoplasty with wires from screws to tips of each 
spinous process and the cervical canal open up from 10 mm 
to 15 mm. 
Soft collar wiring in only one week. Rehabilitation for 
cervical spine muscle and motor weakness. 
Findings: 36 patients were operated with VVT 
laminoplasty from November 2007 to September 2012 in 
Spinal Surgery Department A, Hospital for Trauma- 
Orthopedics, HCM City, Viet Nam. 
Results: Mean operative time was 129 minutes (90-180). 
Mean intraoperative blood loss was 203 ml (30-600). 
Transfusion: 0. Mean FU: 24 months (12-60). JOA of 36 
cases with full data: Mean JOA score improved from 10.42 ± 
2.56 (2-13) points pre-oper-atively to 13.94 ± 1.93 (8-16) 
points post-operatively and 14.78 ± 1.38 (10-16) points at 
final follow-up. Post-op recovery JOA rate: 56.3% ± 12.05. FU 
recovery JOA rate: 67.11% ± 10.59. 
Mean Torg index improvement: 71.5%-100.3% on C3 
level, 69.9%-101.1% on C4, 69.9%-99.7% on C5, 71.7%- 
97.6% on C6. One axial pain complaint. One C6 paralysis 
developed 2 days post-op and spontaneous recovery was 
observed at 6 months postoperatively. 
Conclusion: This is a simple technique with less injury to 
the bone and ligaments, easy to practice and short learning 
curve with satisfactory results. This method is feasible in our 
country and contribute an additional treatment option for CSM 
with good results, reasonable price to the patients in Viet Nam 
and in developing countries. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong nước ta, bệnh lý tủy do hẹp ống sống cổ 
ngày càng được phát hiện nhiều ở người lớn tuổi 
nhờ sự tiến bộ của các phương tiện chẩn đoán hình 
ảnh. Việc phát hiện và điều trị bệnh sớm cần được 
đặt ra nhằm mục đích phục hồi các chức năng thần 
kinh, đưa BN về cuộc sống bình thường với chất 
lượng sống cao.14,26,28 Phương pháp tạo hình bản 
sống với mục tiêu làm rộng ống sống cổ và giải ép 
tủy sống cổ bị chèn ép do các tác giả Nhật Bản đề 
xuất được áp dụng từ thập niên 80 đã làm thay đổi 
chỉ định phương pháp điều trị, cải thiện dự hậu 
phục hồi và phòng ngừa còng cột sống cổ. Hai 
phương pháp được chọn lựa như tiêu chuẩn vàng 
ở Nhật Bản hiện nay: mở cửa sổ một bên Itoh và 
mở cửa sổ hai bên Kurokawa.8.13 Tuy nhiên 
Hosono năm 19967 phát hiện thấy nhiều biến 
chứng đau cổ theo trục sau mổ của các phương 
pháp trên. Để phòng ngừa những bất lợi này, chúng 
tôi xin giới thiệu một kỹ thuật Hirabayashi đổi mới 
thích ứng với điều kiện xã hội-kinh tế-y tế tại Việt 
Nam: phẫu thuật tạo hình bản sống VVT bằng 
phương pháp néo ép đỉnh mấu gai vào ốc khối bên, 
mang tính bảo tồn mô mềm và xương cao: không 
phá dây chằng liên gai, dây chằng trên gai, giữ 
nguyên vẹn màng bao khớp, đỉnh mấu gai, không 
cắt nơi bám cơ vào đỉnh mấu gai C2. 
Mục đích của nghiên cứu là đánh giá kết quả 
lâm sàng và hình ảnh học của phương pháp tạo 
hình bản sống VVT. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
Có 36 bệnh nhân (BN) bệnh lý tủy do hẹp ống 
sống cổ khoa Cột Sống A từ tháng 11/2007 đến 
9/2012 điều trị phẫu thuật tạo hình bản sống VVT 
néo ép đỉnh mấu gai vào ốc khối bên. 
1. Về phương pháp đánh giá lâm sàng: 
Thang điểm JOA11 : Thang điểm JOA được sử 
dụng vì đánh giá chi tiết và có tính khách quan cao. 
Theo Hội Chấn Thương Chỉnh Hình Nhật Bản: 
JOA dưới 8 điểm: nhóm nặng 
JOA từ 8-12 điểm: nhóm trung bình 
JOA từ 13-16 điểm: nhóm nhẹ 
JOA 17 điểm: bình thường. 
Chỉ số thương tật cột sống cổ (NDI)24 được phát 
triển năm 1989 bởi Vernon và Mior. Đây là một 
chỉ số được các tác giả nước ngoài sử dụng trong 
việc đánh giá triệu chứng đau cổ của BN đã ảnh 
hưởng đến khả năng kiểm soát các hoạt động hàng 
ngày của họ như thế nào. 
Tỉ lệ phục hồi Hirabayashi5: 
Tỉ lệ hồi phục (%)= 
(JOA sau mổ - JOA trước mổ) x100 
 (17 – JOA trước mổ) 
• Rất tốt: phục hồi 75-100%. 
• Tốt: 50-75%. 
• Trung bình: 25-50%. 
• Kém: dưới 25%. 
2. Về phương pháp đánh giá hình ảnh học: 
X Quang thường quy cột sống cổ:25,27,28 thực 
hiện sáu tư thế: thẳng, ngang, ngang cúi, ngang 
ngửa, nghiêng ¾ phải, nghiêng ¾ trái. Chú ý tìm 
yếu tố động: hình ảnh mất vững trong tư thế động 
ngang cúi và ngửa 
Đo chỉ số Torg trên phim ngang để chẩn đoán 
hẹp ống sống cổ bẩm sinh. Chỉ số Torg nhỏ hơn 
hoặc bằng 80% cho thấy hẹp ống sống cổ bẩm 
sinh.23 Đánh giá sự thay đổi chỉ số Torg trước mổ, 
sau mổ và khi theo dõi ngang mỗi thân đốt sống. 
Đánh giá tai biến dụng cụ: gãy ốc, tuột ốc hay 
đứt chỉ thép. 
Hình ảnh Cộng Hưởng Từ:18 
NGHIÊN CỨU 
THỜI SỰ Y HỌC 09/2016 33 
Đánh giá nguyên nhân gây bệnh, mức độ hẹp, 
số tầng hẹp và vị trí tổn thương tủy sống cổ. 
X Quang cắt lớp điện toán: Đánh giá tổn thương 
liên quan đến xương như gai xương, chồi xương 
trong thoái hóa thân đốt sống hay liên quan đến 
dây chằng như cốt hóa dây chằng dọc sau, cốt hóa 
dây chằng vàng. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
1. Về giới tính: BN nam chiếm đa số trong 
nghiên cứu của chúng tôi (tỉ lệ 5/1) có khác nhau 
giữa các tác giả. Có thể do phái nam lao động nặng 
hơn, có nhiều hoạt động gắng sức trong cuộc sống 
hàng ngày gây ảnh hưởng cột sống cổ tạo các chồi 
xương thoái hóa, làm hẹp ống sống cổ gây bệnh lý 
tủy.2 
2. Về sự phân bố theo tuổi: kết quả của nghiên 
cứu này cũng tương đương với nhận xét của các 
tác giả trong và ngoài nước, với độ tuổi tập trung 
từ 40 đến 60, tuổi trung bình là 54 tuổi (30-76). 
Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ gặp nhiều nhất ở độ 
tuổi từ 40 đến 50. Sau tuổi 50, thoái hóa cột sống 
cổ thường gặp hơn. Có thể kèm nhiều nguyên nhân 
khác kết hợp: cốt hóa dây chằng dọc sau, cốt hóa 
dây chằng vàng 
3. Về cảm giác: 100% BN có rối loạn cảm giác 
trước mổ, trong đó rối loạn cảm giác chi trên 36 
ca, rối loạn cảm giác chi dưới 33 ca, rối loạn cảm 
giác thân 18 ca. Di chứng tê sau mổ thường hay 
gặp với mức độ nhiều ít khác nhau, di chứng 
thường gặp dị cảm tê, nóng rát bàn tay hoặc bàn 
chân gây khó chịu cho BN nhưng không ảnh 
hưởng nhiều chức năng vận động, cảm giác tê có 
thể giảm nhưng ít khi biến mất hoàn toàn, BN phục 
hồi cảm giác chậm hơn vận động và có thể dừng 
lại ở một mức độ chấp nhận được chứ không phục 
hồi hoàn toàn. 
4. Về vận động: 97.2% (35/36 ca) rối loạn vận 
động biểu hiện bởi dáng đi giật cục mất vững và tê 
cứng trong các hoạt động của hai bàn tay. Liệt vận 
động chi trên 35 ca, liệt vận động chi dưới 32 ca. 
Qua thời gian theo dõi, 100% BN có phục hồi với 
nhiều mức độ khác nhau, trong đó 21 BN phục hồi 
vận động hoàn toàn tứ chi chiếm 60% và 14 BN 
phục hồi vận động một phần tứ chi chiếm 40%. 
5. Về cơ vòng bọng đái: có 13 trường hợp rối 
loạn cơ vòng bọng đái, trong đó có 5 ca bí tiểu 
hoàn toàn, 1 ca tiểu nhỏ giọt và 7 ca tiểu gắt. Kết 
quả sau mổ sớm sự phục hồi về cơ vòng bọng đái 
khá tốt, chỉ còn 2 trường hợp rối loạn. Ở lần đánh 
giá sau cùng, có 12 /13 BN (92.3%) phục hồi hoàn 
toàn cơ vòng bọng đái chiếm, chỉ còn 1 BN tiểu 
gắt chiếm 7.7%. 
6. Các thời gian: 
Thời gian khởi bệnh trung bình : 13 tháng (1-
108 tháng). 
Thời gian nằm viện trung bình : 23 ngày (9-41 
ngày). 
Thời gian phẫu thuật trung bình : 129 phút (90-
180 phút). 
Lượng máu mất trung bình : 203 ml (30-
600ml). Không truyền máu ca nào. 
Thời gian theo dõi trung bình : 24 tháng (12-60 
tháng). 
7. Về số tầng bệnh: Hai tầng: 8 (22%). Ba tầng: 
18 (50%). Bốn tầng: 10 (28%). 
Như vậy, BN từ ba tầng bệnh trở lên chiếm đa 
số (77.8%). Có tổng cộng 110 tầng hẹp trên 36 BN, 
vị trí hẹp ống sống cổ phân bố đều nhau ở C3, C4, 
C5 và C6. 
8. Về chỉ số Torg: 81% (29/36 ca) hẹp ống sống 
cổ bẩm sinh. Ở những BN hẹp ống sống cổ bẩm 
sinh chỉ cần có thêm một sự chèn ép nhẹ cũng gây 
nên bệnh lý tủy. 
Chỉ số Torg trung bình thay đổi theo thứ tự 
trước và sau mổ: 
Ngang C3 trước/sau mổ: 71.5%- 100.3%. 
Ngang C4 trước/sau mổ: 69.9%- 101.1%. 
Ngang C5 trước/sau mổ: 69.9%- 99.7%. 
Ngang C6 trước/sau mổ: 71.7%- 97.6%. 
Chỉ số Torg trung bình thay đổi ngang mỗi thân 
đốt sống trước mổ và sau mổ khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p<0.001). 
9. Về điểm JOA 
JOA trung bình trước mổ là 10.42. 
JOA sau mổ: 13.94. 
JOA theo dõi sau cùng: 14.78 điểm, sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê (p<0.001). 
Chúng tôi đạt kết quả này có lẽ nhờ nghiêng 
theo đường lối chỉ định phẫu thuật sớm khi JOA 
trung bình trước mổ hơn 10 điểm. 
Có thể thấy kết quả điều trị của các nghiên cứu 
trong nước và ngoài nước đều rất khả quan về chỉ 
số JOA trung bình sau mổ và tỉ lệ phục hồi theo 
Hirabayashi. Kết quả so sánh cũng cho thấy dù tạo 
hình bản sống mở cửa sổ một bên hay hai bên đều 
có kết quả tương đương. 
CHUYÊN ĐỀ CỘT SỐNG 
34 THỜI SỰ Y HỌC 09/2016 
Bảng 1: Kết quả sau mổ sớm của các tác giả 
Tác giả Số 
BN 
Chỉ số JOA trung 
bình (điểm) 
Tỉ lệ phục 
hồi 
Hirabayashi 
sau mổ (%) Trước 
mổ 
Sau mổ 
Bapat1 25 9.4 ± 2.9 14.96 ± 
1.24 
73.22 ± 
14.93 
Jain10 13 9.1 ± 2.2 13.74 ± 
1.34 
58.85 ± 
15.38 
Chen2 29 9.48 ± 
2.28 
13.79 ± 
1.78 
57.48 ± 
16.51 
Nghiên 
cứu này 
36 10.42 ± 
2.56 
13.94 ± 
1.93 
56.30 ± 
12.05 
10. Về tỉ lệ phục hồi Hirabayashi 
 Kết quả theo dõi lâu dài tỉ lệ phục hồi sau tạo 
hình bản sốn ...  được chia thành 2 nhóm có và 
không có chấn thương (Bảng 8). 
Kết quả này khác biệt so với nghiên cứu của 
nhiều tác giả, khi cho rằng khởi bệnh do yếu tố 
chấn thương là một tiên lượng xấu cho kết quả 
phục hồi. Điều này có thể giải thích khi chúng tôi 
xem xét kỹ bệnh sử, chỉ có 2 trường hợp bị chấn 
thương nặng rõ ràng, 8 trường hợp còn lại bị chấn 
thương rất nhẹ, có thể nói là do ảnh hưởng của 
bệnh lý tủy. Tất cả BN chấn thương đều có kèm 
hẹp ống sống cổ bẩm sinh. 
CHUYÊN ĐỀ CỘT SỐNG 
36 THỜI SỰ Y HỌC 09/2016 
Bảng 8: Tỉ lệ phục hồi Hirabayashi theo yếu tố 
chấn thương 
Thời điểm 
đánh giá 
Tỉ lệ phục hồi Hirabayashi % 
theo yếu tố chấn thương 
p* 
Có (n=10) Không (n=26) 
Ngay sau 
mổ 
50.93 ± 
8.98 
58.37 ± 12.59 0.098 
Lần tái 
khám sau 
cùng 
66.16 ± 
11.96 
67.48 ± 10.24 0.742 
* Independent Samples T Test 
Một chấn thương tình cờ rất nhẹ lên cột sống cổ 
đã bị hẹp bẩm sinh cũng gây ra biến chứng liệt tứ 
chi. Ví dụ như BN ngồi sau xe gắn máy thắng gấp 
đập đầu vào lưng người ngồi trước hay trượt chân 
té ngồi đập mông xuống đất cũng gây ra triệu chứng 
yếu liệt tứ chi. Kết quả phục hồi khá tốt sau phẫu 
thuật tạo hình bản sống VVT cho những BN này. 
17. Về mối liên quan giữa mức độ chèn ép tủy 
và tỉ lệ phục hồi: BN được chia ra 3 nhóm có mức 
độ chèn ép tủy trước mổ là: nặng, trung bình và 
nhẹ (Bảng 9). 
Sự khác biệt tỉ lệ phục hồi giữa các nhóm là có ý 
nghĩa thống kê ở cả thời điểm ngay sau mổ lẫn lần 
tái khám sau cùng. Như vậy, mức độ chèn ép tủy 
sống cổ trước mổ là một yếu tố tiên lượng cho khả 
năng phục hồi của BN, mức độ chèn ép càng nặng 
thì tỉ lệ phục hồi càng kém. 
Bảng 9: Tỉ lệ phục hồi Hirabayashi theo mức độ 
chèn ép 
Thời 
điểm 
đánh giá 
Tỉ lệ phục hồi Hirabayashi 
theo mức độ chèn ép % 
p* 
 Nặng 
(n=5) 
Trung 
bình 
(n=26) 
Nhẹ 
(n=5) 
Ngay sau 
mổ 
42.14 
±8.1 
57.35 
±10.33 
65%± 
13.69 
0.005 
Lần tái 
khám sau 
cùng 
57.47 
±7.8 
70.34 ± 
8.79 
60%± 
13.69 
0.008 
* Oneway ANOVA 
Kết quả của chúng tôi tương tự như đa số các 
nghiên cứu khác, đều ghi nhận rằng mức độ chèn 
ép tủy sống cổ trước mổ có liên quan đến tỉ lệ phục 
hồi của BN. Theo Hirabayashi cũng như 
Kawaguchi6,12 bệnh lý tủy cổ càng nặng thì dự hậu 
phục hồi càng kém, vì vậy khi thấy bệnh lý tủy 
sống cổ tiến triển phải phẫu thuật càng sớm càng 
tốt. 
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này có một sự khác 
biệt nhỏ ở lần theo dõi sau cùng, khi tỉ lệ phục hồi 
của nhóm BN có mức chèn ép tủy trung bình cao 
hơn nhóm BN có mức chèn ép tủy nhẹ. Để có câu 
trả lời cho sự khác biệt này, chúng tôi điều tra lại 
giữa hai nhóm BN thì thấy ở nhóm chèn ép tủy nhẹ 
quay trở lại công việc sớm hơn so với nhóm chèn 
ép tủy trung bình, có thể việc trở lại lao động sớm 
sau phẫu thuật ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Đây 
là một vấn đề cần nghiên cứu sâu hơn và rộng hơn 
trong tương lai để chúng ta có một kế hoạch phục 
hồi chức năng tốt nhất cho BN bệnh lý tủy sống cổ. 
18. Về mối liên quan giữa nguyên nhân gây bệnh 
và tỉ lệ phục hồi: BN được chia ra 3 nhóm có nguyên 
nhân gây bệnh là: thoát vị đĩa đệm, thoái hóa cột 
sống cổ và cốt hóa dây chằng dọc sau (Bảng 101). 
Bảng 10: Tỉ lệ phục hồi Hirabayashi theo nguyên 
nhân gây bệnh 
Thời điểm 
đánh giá 
Tỉ lệ phục hồi Hirabayashi % 
theo nguyên nhân gây bệnh 
p* 
 TVĐĐ 
(n=23) 
THCS 
(n=7) 
CHDCDS 
(n=6) 
Ngay sau 
mổ 
56.47 
±11.7 
 49 
±10.66 
64.17 
±11.14 
0.07 
Lần tái 
khám sau 
cùng 
66.38 
±11.2 
65.6 
±9.82 
 71.67 
±9.31 
0.52 
* Oneway ANOVA 
Ghi chú: TVĐĐ: thoát vị đĩa đệm. THCS: thoái hóa cột sống. 
CHDCDS: cốt hóa dây chằng dọc sau 
Sự khác biệt tỉ lệ phục hồi giữa các nhóm là 
không có ý nghĩa thống kê, điều này cho thấy 
không có sự khác biệt giữa nguyên nhân gây bệnh 
và tỉ lệ phục hồi trong nghiên cứu của chúng tôi. 
Kết quả này khác biệt so với nghiên cứu của nhiều 
tác giả, vốn đều cho rằng bệnh lý tủy sống cổ do 
nguyên nhân thoát vị đĩa đệm mềm có tỉ lệ phục 
hồi tốt hơn hẳn so với nhóm BN do nguyên nhân 
thoái hóa cột sống và cốt hóa dây chằng dọc sau. 
Sự khác biệt của nhóm nghiên cứu có thể giải thích 
do cỡ mẫu của chúng tôi không đủ lớn và thời gian 
nghiên cứu không đủ dài, chúng tôi tin rằng trong 
tương lai với thời gian nghiên cứu dài hơn cùng số 
lượng BN lớn sẽ đưa ra kết luận xác thực hơn. 
Tóm lại qua nghiên cứu 36 trường hợp tạo hình 
bản sống VVT, kết quả phục hồi sau mổ của bệnh 
lý tủy sống cổ liên quan đến tuổi- tuổi dưới 60 thì 
tỉ lệ phục hồi cao hơn, ảnh hưởng bởi tổn thương 
tủy- BN có tổn thương tủy tăng cường độ tín hiệu 
T2W trên hình ảnh cộng hưởng từ có tiên lượng 
NGHIÊN CỨU 
THỜI SỰ Y HỌC 09/2016 37 
phục hồi kém hơn, ảnh hưởng bởi mức độ chèn ép 
tủy sống cổ- mức độ chèn ép tủy sống cổ trước mổ 
càng trầm trọng thì tỉ lệ phục hồi càng kém. Các 
yếu tố như thời gian khởi bệnh, nguyên nhân gây 
bệnh cũng như khởi bệnh do chấn thương đều 
không ảnh hưởng đến kết quả điều trị sau cùng của 
BN. 
19. Về biến chứng của phương pháp điều trị 
Chúng tôi có 1/36 BN dò dịch vết mổ, BN được 
cấy dịch và làm kháng sinh đồ, kết quả không mọc 
sau 3 ngày, đây là trường hợp do dị ứng chỉ khâu 
da, cắt chỉ vết thương sớm và BN ổn định. Có 1/36 
BN bị rách nhẹ màng cứng xảy ra trong lúc mài 
qua hai vỏ xương, đây là trường hợp bị hẹp ống 
sống nặng, bị chèn ép 4 tầng bệnh do nhiều nguyên 
nhân phối hợp: thoát vị đĩa đệm, thoái hóa cột 
sống, cốt hóa dây chằng dọc sau và vôi hóa dây 
chằng vàng, màng cứng bị rách nhẹ khi mài qua 
hai vỏ xương do dày dính vôi hóa dây chằng vàng 
ở phía sau, nhưng BN được xử lý kịp thời đắp 
surgicel và sau phẫu thuật cho nằm nghỉ 10 ngày, 
BN hồi phục hoàn toàn không để lại di chứng. Có 
1/36 ca liệt rễ thần kinh C6 xảy ra vào ngày thứ 2 
sau mổ, tỉ lệ liệt rễ thần kinh được báo cáo trong 
các nghiên cứu trung bình từ 5-8%, thường gặp 
yếu vận động, ít thay đổi về cảm giác. Nguyên 
nhân chính xác của liệt này vẫn còn không biết rõ, 
có thể do sự kéo dãn các rễ thần kinh khi tủy sống 
di chuyển ra sau. BN này được theo dõi và hướng 
dẫn tập vật lý trị liệu, phục hồi sau mổ 6 tháng. 
Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề hoàn 
thiện kỹ thuật trong lúc mổ nhưng tỉ lệ liệt rễ thần 
kinh vẫn không giảm đáng kể, không có biện pháp 
phòng ngừa hiệu quả trong lúc mổ. Gần đây, một 
số phẫu thuật viên ủng hộ việc mở rộng lỗ liên hợp 
cùng với tạo hình bản sống để ngăn ngừa hoặc điều 
trị liệt rễ, tuy nhiên cần tiếp tục nghiên cứu để làm 
sáng tỏ nguyên nhân. Chúng tôi chỉ có 1/36 BN 
than mỏi cổ chiếm 2.8%, đây là trường hợp BN 
không đi tái khám đúng lịch hẹn nên mang nẹp cổ 
mềm 8 tuần sau mổ, không được hướng dẫn tập 
vận động các cơ vùng cổ trong khi phương pháp 
của chúng tôi chỉ mang nẹp cổ mềm 1 tuần. Tỉ lệ 
đau mỏi cổ theo trục sau mổ được báo cáo xảy ra 
trung bình từ 20-40%. Chúng tôi đạt tỉ lệ đau cổ 
thấp 2.8%. Giải thích có lẽ do phương pháp phẫu 
thuật mang tính bảo tồn cao: tránh tối đa sự tàn phá 
cơ, dây chằng, cố gắng giữ nguyên vẹn màng bao 
khớp và cố định vững đã cho phép BN tập ngay 
các động tác cổ nhẹ nhàng như cúi, ngửa, xoay 
phải, xoay trái sớm một tuần sau mổ không cần 
mang nẹp cổ so với các phương pháp khác mang 
hai tháng. Tập phục hồi chức năng sớm sẽ tránh 
được sự teo cơ vùng vai cổ và sớm phục hồi khỏi 
đau sau mổ.2,5,21 
KẾT LUẬN 
Đây là một kỹ thuật đơn giản với ít tổn thương 
cho xương và dây chằng, dễ thực hành và thời gian 
học tập ngắn với kết quả rất khả quan. 
Phương pháp này hoàn toàn khả thi trong nước 
ta và đóng góp thêm một lựa chọn điều trị cho bệnh 
lý tủy sống cổ với kết quả tốt, giá thành phù hợp 
cho các BN tại Việt Nam và các nước phát triển. 
Tài liệu tham khảo 
1- Bapat, MR., et al.,(2008), “Surgical approach to cervical spondylotic 
myelopathy on the basis of radiological patterns of compression:prospective 
analysis of 129 cases”, Eur Spine J. 17, p. 1651-63. 
2- Chen, G., et al.,(2012), “Expansive open door laminoplasty with titanium 
miniplate versus sutures”, Orthopedics 35(4), p. 543-8. 
3- Hirabayashi, K., et al.,(1978), “Expansive open-door laminoplasty for cervical 
spondylotic myelopathy”, Shujutsu 32, p. 1159-63. 
4- Hirayabashi, K., et al.,(1983) “Expansive open-door laminoplasty for cervical 
spine stenotic myelopathy”, Spine. 8, p. 693-9. 
5- Hirabayashi, K. and K. Satomi,(1988), “Operative procedure and results of 
expansive open-door laminoplasty”, Spine. 13, p. 870-6. 
6- Hirabayashi, K., et al.,(1999), “Expansive Laminoplasty for Myelopathy in 
Ossification of the Longitudinal Ligament”, Clinical Orthopedics and Related 
Research. 1(359), p. 35-48. 
7- Hosono, N., Yonenobu K, Ono K,(1996), “Neck and shoulder pain after 
laminoplasty. A noticeable complication”, Spine 21, p. 1969-73. 
8- Itoh, T. and H. Tsuji,(1985), “Technical improvements and results of 
laminoplasty for compressive myelopathy in the cervical spine”, Spine. 10(8), 
p. 729-36. 
9- Iwasaki, M., et al.,(2002), “Long term results of expansive laminoplasty for 
ossification of the posterior longitudinal ligament of the cervical spine: more 
than 10 years follow up”, J Neurosurg 96, p. 180-9. 
10- Jain, SK,. et al.,(2005), “Mutisegmental cervical ossification of the posterior 
longitudinal ligament: anterior versus posterior approach”, Neurol India 53, p. 
283-5. 
11- Japanese Orthopaedic Association,(1994), Japanese Orthopaedic 
Association scoring system for cervical myelopathy (17-2 version and 100 
version) (in Japanese with English translation), Nippon Seikeigeka Gakkai 
Zasshi. 68, p. 490-503. 
12- Kawaguchi, Y., et al.,(2003), “Minimum 10 year follow up after en bloc 
cervical laminoplasty”, Clin Orthop 411, p. 129-39. 
13- Kurokawa, T., et al.,(1982), “Enlargement of the spinal canal by the sagittal 
splitting of spinous processes”, Bessatsu Seikeigeka, vol. 2, p. 249-52. 
14- Lê Thị Hồng Liên và Võ Văn Thành,(1997), “Khảo sát lâm sàng, điều trị 
bệnh lý rễ-tủy sống cổ do thoát vị đĩa đệm và hẹp ống sống cổ thoái hóa”, 
Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh. 
15- Matsuda, Y., et al.,(1999), “Outcomes of surgical treatment for cervical 
myelopathy in patients more than 75 years of age”, Spine (Phila Pa 1976) 
15(24), p. 529-34. 
16- Mehalic, TF., et al.,(1990), “Magnetic resonance imaging and cervical 
spondylotic myelopathy”, Neurosurgery 26, p. 217-26. 
17- Naderi, S., et al.,(1998), “Cervical spondylotic myelopathy:surgical results 
and factors affecting prognosis”, Neurosurgery 43, p. 43-9. 
18- Nguyễn Thị Ánh Hồng, (1999), “Hẹp ống sống cổ: giá trị MRI qua khảo sát 
CHUYÊN ĐỀ CỘT SỐNG 
38 THỜI SỰ Y HỌC 09/2016 
300 trường hợp”, Tạp chí Y Học TP.HCM, tập 3, số 1, tr.56-8. 
19- Ogawa, Y., et al.,(2004), “Long term results of expansive open door 
laminoplasty for ossification of the posterior longitudinal ligament of the 
cervical spine”, J Neurosurg (Spine 1) 2, p. 168-74. 
20- Seichi, A., et al.,(2001), “Long-term results of double-door laminoplasty for 
cervical stenotic myelopathy”, Spine (Phila Pa 1976). 26(5), p. 479-87. 
21- Shiraishi T., et al.,(2003), “Results of skip laminectomy: minimum 2-year 
follow-up study compared with open-door laminoplasty”, Spine (Phila Pa 
1976). 28(24), p. 2667-72. 
22- Suri, A., et al.,(2003), “Effect of intramedullary signal changes on the 
surgical outcome of patients with cervical spondylotic myelopathy”, Spine J. 
3, p. 33–45. 
23- Torg, JS., et al.,(2002), “Injuries to the Cervical Spine in American Football 
Players”, J Bone Joint Surg Am. 84(1), p. 112-22. 
24- Vernon H. and S. Mior,(1991), “The Neck Disability Index: a study of 
reliability and validity”, J Manipulative Physiol Ther. 14(7), p. 409-15. 
25- Võ Văn Thành,(1997), “Phẫu thuật tái tạo bản sống, một số kinh nghiệm 
đầu tiên trong diều trị hẹp ống sống cổ bằng kỹ thuật Kurokawa”, Tạp chí 
Y Học TP.HCM, tập 1, số 4, tr. 55-60. 
26- Võ Văn Thành,(1997),“Nhân một trường hợp bệnh lý tủy sống cổ mạn tính 
do cốt hóa dây chằng sau”, Nghiên cứu khoa học, Đại học Y Dược TP. 
HCM, tr. 204-8. 
27- Võ Văn Thành và cộng sự,(2000), “Điều trị phẫu thuật hẹp ống sống cổ: 
nhân 100 trường hợp”, Tạp chí Y Học TP.HCM, tập 4, số 4, tr. 20-37. 
28- Võ Văn Thành và cộng sự,(2006), “Phẫu thuật tạo hình bản sống mới -
Hirabayashi cải biên- néo ép đỉnh mấu gai vào ốc khối bên cho bệnh lý tủy 
sống cổ”, Kỷ yếu hội nghị thường niên lần thứ XIII, Hội Chấn Thương 
Chỉnh Hình TP.HCM, tr. 104-17. 
BỆNH ÁN MINH HỌA 
BN Nguyễn Hữu Th., Nam, 71 tuổi, Hưu trí, 
Ngày nhập viện: 10.05.2012. Bệnh sử: 5 năm: khởi 
bệnh tê 10 đầu ngón tay, ngày càng tăng dần. 1 
năm: tê tay nặng điều trị tại bệnh viện bạn với chẩn 
đoán ống cổ tay 2 bên, được mổ giải ép thần kinh 
giữa, không giảm tê tay. Cách nhập viện 1 tháng: 
liệt dần tứ chi, hai tay cầm nắm khó khăn, ngồi xe 
lăn, tê yếu tứ chi nhiều, ăn bằng muỗng, tay chân 
ngày càng yếu liệt nên nhập viện. 
Lâm sàng BN bị tê yếu tứ chi. Ăn bằng muỗng, 
ngồi xe lăn. Liệt cứng 1 phần tứ chi: sức cơ tay T 
3-4/5, tay P 4/5, sức cơ hai chân 4/5. Phản xạ gân 
cơ: nhị đầu, tam đầu, gối gót đều tăng. Tiêu tiểu 
bình thường. L’hermitte:(-). Hoffman 2 bên: (+), 
Babinski 2 bên: (+). 
Chẩn đoán: Bệnh lý tủy sống cổ mạn do TVĐĐ, 
thoái hóa cột sống C3-C4, C4-C5, C5- C6, C6-C7, 
cốt hóa dây chằng dọc sau C3C4, cốt hóa dây 
chằng vàng C5-C6, tổn thương tủy ngang C3-C4, 
C5-C6, liệt cứng 1 phần tứ chi. Hẹp ống sống cổ 
bẩm sinh. 
Điều trị: phẫu thuật tạo hình bản sống VVT C3-
C6, 4 ốc 3.5x14mm, mở rộng ống sống bên phải. 
Trong lúc mổ, màng cứng bị rách nhẹ do dày dính 
cốt hóa dây chằng vàng ở phía sau. Xử trí: đắp 
surgicel và sau phẫu thuật cho BN nằm nghỉ 10 
ngày, BN hồi phục hoàn toàn không để lại di 
chứng. 
Kết quả: BN phục hồi vận động hoàn toàn tứ 
chi, hết tê hoàn toàn 2 chân, tê nhẹ 2 tay. Chỉ số 
Torg thay đổi theo thứ tự trước và sau mổ: Ngang 
C3 trước/sau mổ: 77%- 94%. Ngang C4 trước/sau 
mổ: 69%- 97%. Ngang C5 trước/sau mổ: 67%- 
92%. Ngang C6 trước/sau mổ: 68%- 88%. Thang 
điểm JOA: Trước mổ 11 điểm - Sau mổ 15 điểm - 
Sau cùng 16 điểm. Tỷ lệ phục hồi sau mổ: 67%. 
Tỷ lệ phục hồi sau cùng= 83%. 
Theo dõi: BN được theo dõi TK 6 tháng, 12 
tháng, mỗi 6 tháng trong năm thứ hai, sau đó mỗi 
năm tái khám 1 lần. Lần tái khám sau cùng (13 
tháng sau phẫu thuật) BN không đau cổ, chức năng 
cột sống cổ đạt rất tốt, BN hài lòng với cuộc mổ. 
(Xem hình ở trang 39 & 40)
NGHIÊN CỨU 
THỜI SỰ Y HỌC 09/2016 39 
 Hình 1- X Quang cột sống cổ: a: thẳng; b: ngang; c: ngang cúi; d: ngang ngửa; e: thẳng sau mổ; f: ngang sau mổ; 
h: nghiêng ¾ phải; k: nghiêng ¾ trái 
Hình 2- X Quang cắt lớp điện toán: cốt hóa dây chằng dọc sau C3C4, cốt hóa dây chằng vàng C5C6. 
CHUYÊN ĐỀ CỘT SỐNG 
40 THỜI SỰ Y HỌC 09/2016 
Hình 3- Hình ảnh Cộng hưởng từ: TVĐĐ và THCS từ C3 đến C7, tổn thương tủy ngang C3C4, C5C6. 
 Hình 4- X Quang cột sống cổ thẳng và ngang 13 tháng sau mổ.
Hình 5- Hình ảnh bệnh nhân vận động cột sống cổ bình thường sau mổ. 

File đính kèm:

  • pdfphau_thuat_tao_hinh_ban_song_vvt_ky_thuat_hirabayashi_cai_bi.pdf