Phẫu thuật robot trong bệnh lý hiếm muộn thời đại 4.0

Trong những năm gần đây, với ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đã đưa phẫu thuật robot

đang trở thành một xu hướng mới được quan tâm. Với ưu thế khắc phục được các khuyết điểm của phẫu

thuật viên trong các phẫu thuật nội soi (PTNS) cổ điển như sự khéo tay, sự chính xác cũng như tối ưu hóa

tầm nhìn phẫu thuật robot cho các kết quả trội hơn PTNS cổ điển. Cụ thể là trong điều trị u xơ tử cung,

robot có lợi thế với những khối u ở vị trí khó tiếp cận và khả năng khâu đáy u nhiều lớp một cách lý tưởng

hơn hẳn PTNS cổ điển. Cũng như trong tái tạo ống dẫn trứng sau triệt sản, sự ra đời của robot phẫu thuật

đã mở ra một bước tiếp cận mới vì ngoài những ưu điểm đã mô tả, hình ảnh 3D còn phù hợp trong việc cho

phép khả năng phóng đại hình ảnh, tạo thuận lợi cho những thao tác tinh vi, góp phần cải thiện kết quả. Và

không thể không đề cập đến những ưu thế của phẫu thuật robot trong điều trị những tổn thương lạc nội

mạc tử cung, đặc biệt là loại bỏ nang lạc nội mạc buồng trứng mà không làm mất mô lành buồng trứng,

giúp giảm thiểu nguy cơ giảm dự trữ buồng trứng sau mổ cũng như khả năng loại bỏ các tổn thương lạc

nội mạc sâu cao hơn khi so với PTNS cổ điển. Ngoài ra, phẫu thuật robot còn được sử dụng trong phục

hình tử cung và được báo cáo là an toàn, khả thi và thành công cao. Khi so với nội soi truyền thống, kỹ

thuật này cho phép xẻ tử cung với khả năng tổn thương thành tử cung thấp nhất bởi những nâng cấp về

hình ảnh, công cụ, khu vực điều khiển. Nhìn chung, bài viết này sẽ cung cấp các thông tin cần biết về robot

phẫu thuật mà cụ thể là hệ thống da Vinci trong điều trị hỗ trợ sinh sản cho phụ nữ nói riêng

pdf 8 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật robot trong bệnh lý hiếm muộn thời đại 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật robot trong bệnh lý hiếm muộn thời đại 4.0

Phẫu thuật robot trong bệnh lý hiếm muộn thời đại 4.0
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Tổng Quan 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 1
PHẪU THUẬT ROBOT TRONG BỆNH LÝ HIẾM MUỘN THỜI ĐẠI 4.0 
Thân Trọng Thạch1, Nguyễn Hà Ngọc Thiên Thanh2 
TÓM TẮT 
Trong những năm gần đây, với ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đã đưa phẫu thuật robot 
đang trở thành một xu hướng mới được quan tâm. Với ưu thế khắc phục được các khuyết điểm của phẫu 
thuật viên trong các phẫu thuật nội soi (PTNS) cổ điển như sự khéo tay, sự chính xác cũng như tối ưu hóa 
tầm nhìnphẫu thuật robot cho các kết quả trội hơn PTNS cổ điển. Cụ thể là trong điều trị u xơ tử cung, 
robot có lợi thế với những khối u ở vị trí khó tiếp cận và khả năng khâu đáy u nhiều lớp một cách lý tưởng 
hơn hẳn PTNS cổ điển. Cũng như trong tái tạo ống dẫn trứng sau triệt sản, sự ra đời của robot phẫu thuật 
đã mở ra một bước tiếp cận mới vì ngoài những ưu điểm đã mô tả, hình ảnh 3D còn phù hợp trong việc cho 
phép khả năng phóng đại hình ảnh, tạo thuận lợi cho những thao tác tinh vi, góp phần cải thiện kết quả. Và 
không thể không đề cập đến những ưu thế của phẫu thuật robot trong điều trị những tổn thương lạc nội 
mạc tử cung, đặc biệt là loại bỏ nang lạc nội mạc buồng trứng mà không làm mất mô lành buồng trứng, 
giúp giảm thiểu nguy cơ giảm dự trữ buồng trứng sau mổ cũng như khả năng loại bỏ các tổn thương lạc 
nội mạc sâu cao hơn khi so với PTNS cổ điển. Ngoài ra, phẫu thuật robot còn được sử dụng trong phục 
hình tử cung và được báo cáo là an toàn, khả thi và thành công cao. Khi so với nội soi truyền thống, kỹ 
thuật này cho phép xẻ tử cung với khả năng tổn thương thành tử cung thấp nhất bởi những nâng cấp về 
hình ảnh, công cụ, khu vực điều khiển. Nhìn chung, bài viết này sẽ cung cấp các thông tin cần biết về robot 
phẫu thuật mà cụ thể là hệ thống da Vinci trong điều trị hỗ trợ sinh sản cho phụ nữ nói riêng. 
Từ khóa: phẫu thuật nội soi cổ điển, điều trị hỗ trợ sinh sản 
ABSTRACT 
ROBOTIC SURGERY FOR INFERTILITY TREATMENT IN 4.0 ERA 
Than Trong Thach, Nguyen Ha Ngoc Thien Thanh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 1 - 2021: 01 - 08 
In recent years, the impact of the 4.0 technology revolution has led to robotic surgery becoming a new trend of 
interest. With advantages that overcome the technical limitations of the surgeon in classic laparoscopic surgery 
such as personal skillset, precision, or optimizing vision, robotic surgery demonstrates that it is the superior 
option. Specifically, in the treatment of uterine fibroids, robotic-assisted laparoscopic approach shows to be more 
favored in treating tumors which are difficult to approach by human hands, along with its demonstrated suturing 
capabilities. As in laparoscopic tubal sterilization reversal, the introduction of surgical robots has opened up a new 
approach, since, besides the described advantages, 3D imaging is suitable for magnification of images that helps to 
facilitate sophisticated operation, hence improving surgery outcomes. Robot has also been widely incorporated in 
the treatment of endometriosis because of its advantage in the elimination of endometriosis cysts without the loss 
of healthy ovary tissue, in reducing the risk of post-surgery diminished ovarian reserve (DOR) as well as its 
superior ability to remove deeper endothelial lesions as compared to conventional laparoscopy. In addition, robotic 
surgery is also used in uterine restoration and is reported to be safe, feasible and highly successful. Comparing to 
traditional endoscopy, this technique allows uterine dissection with the lowest possibility of uterine damage by 
advanced imaging, instruments, and console areas. In this article, we focus on providing information on the use of 
1Bộ môn Sản phụ khoa, Đại học Y Dược TP. HCM 2Bộ môn Sản phụ khoa, Đại học Tân Tạo 
Tác giả liên lạc: BS. Thân Trọng Thạch ĐT: (084)908400040 Email: [email protected] 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 2
robot, especially the da Vinci Robot system, in the field of assisted reproductive technology (ART) for women. 
Removal of uterine fibroids, hysteroscopy, reconstruction of fallopian tubes after sterilization, and treatment of 
endometriosis are typical examples of robotic surgery for infertility treatment. 
Keyword: classic laparoscopic surgery, infertility treatment 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay ứng dụng của robot trong điều trị 
các bệnh lý phụ khoa đang ngày một phát triển 
bởi những giá trị mà nó mang lại vượt xa các 
phương pháp cũ. Sử dụng robot để phẫu thuật 
trong những trường hợp bệnh nhân mắc bệnh lý 
có thể can thiệp bằng phẫu thuật là một hướng 
đi đầy hứa hẹn bởi hiệu quả song hành với tính 
xâm lấn tối thiểu và hạn chế tối đa thương tổn có 
thể phát sinh. Với ưu thế tuyệt đối của mình 
trong những phẫu thuật đòi hỏi sự tinh tế và 
chính xác cao, robot hoàn toàn thể đóng góp vào 
việc điều trị hỗ trợ sinh sản. Trong đó bóc nhân 
xơ tử cung, tái tạo ống dẫn trứng sau triệt sản và 
điều trị lạc nội mạc tử cung là những ví dụ điển 
hình cho điều trị vô sinh bằng robot phẫu thuật. 
Hình 1: Ba thành tố chính của hệ thống robot phẫu thuật là buồng điều khiển, tháp robot và bộ phận hiển thị 
(ThachThan, MD) 
Bóc nhân xơ tử cung 
U xơ tử cung (UXTC) là u lành sinh dục phổ 
biến nhất ở nữ giới, ảnh hưởng 30% phụ nữ 
trong độ tuổi sinh sản, lên đến 70% ở phụ nữ 50 
tuổi. Gần 1/3 số trường hợp có triệu chứng kinh 
điển gồm rong kinh, đau vùng chậu và hiếm 
muộn. Điều trị có thể chỉ tập trung giải quyết 
triệu chứng hay xử lý triệt để bằng phẫu thuật. 
Trong đó phẫu thuật bằng mổ mở, nội soi cổ 
điển hay sử dụng robot thường mang lại kết quả 
tốt cho nguyện vọng có thai về sau, nhất là 
những u nằm dưới niêm mạc thì càng cần thiết 
phải can thiệp. Tổng quan hệ thống và phân tích 
gộp của Rikhraj K công bố năm 2019 dựa trên 15 
nghiên cứu đoàn hệ (5 tiến cứu, 10 hồi cứu) cho 
thấy UXTC trong cơ không làm biến dạng lòng 
tử cung vẫn làm giảm tỉ lệ điều trị IVF thành 
công bao gồm tỉ lệ sinh sống (OR=0,56; 95% CI 
0,46-0,69) và thai lâm sàng (OR=0,68; 95% CI 
0,56-0,84) dù không giảm rõ rệt tỉ lệ làm tổ và sẩy 
thai(1). 
Xét về kết quả phẫu thuật, tổng quan hệ 
thống và phân tích tổng hợp của Wang và cs trên 
20 nghiên cứu đoàn hệ giai đoạn 2007-2016 lại 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Tổng Quan 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 3
cho thấy sự khác biệt. Lượng máu mất qua phẫu 
thuật robot giảm đáng kể so với phẫu thuật nội 
soi (PTNS) cổ điển (p=0,02) và rõ rệt hơn khi so 
sánh với mổ mở qua ngã bụng (p <0,00001). Số 
trường hợp có biến chứng trong lúc mổ cũng 
được hạn chế khi ứng dụng robot vào phẫu 
thuật so với PTNS (p=0,009) và so với mổ mở 
(p=0,03) mặc dù khi phân tích ở từng loại biến 
chứng riêng lẻ điều này không thể hiện rõ. Thời 
gian nằm viện được rút ngắn ngoạn mục thêm 
khoảng 1,74 ngày khi so với mổ mở (95% CI 1,45-
2,03; p <0,00001). Tuy nhiên, mục tiêu điều trị vô 
sinh lại không cho thấy sự ưu thế của phẫu thuật 
robot so với nội soi truyền thống (OR=0,91; 95% 
CI 0,37–2,22; p=0,84)(2). 
Đối với phụ nữ trẻ được chỉ định bóc UXTC, 
việc may phục hồi cấu trúc còn lại của tử cung có 
ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quá trình 
lành vết cắt. Về lý thuyết, dụng cụ trong phẫu 
thuật bóc u bằng robot được thiết kế hoàn hảo 
cho mục đích này. Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu 
của Sheu BC năm 2019 đã khảo sát kết cục trên 
vết may tử cung qua PTNS và robot. Với 203 
bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, những 
bệnh nhân được phẫu thuật robot có số lượng u 
xơ nhiều hơn đáng kể so với nhóm nội soi 
(3,3±3,4 so với 1,8±1,3, p <0,001) và tỉ lệ u xơ 
nhóm 1-2-3 theo FIGO cũng cao hơn đáng kể 
(51,1% vs 23,4%, p <0,001). Tuy nhiên đánh giá 
trên siêu âm sau mổ 1 tháng thì có 6/110 bệnh 
nhân ở nhóm nội soi bị tụ máu vết cắt trong khi 
đó không bệnh nhân nào gặp vấn đề này ở 
nhóm được mổ bằng robot (p=0,032). Theo dõi 
sau đó ghi nhận có 5 thai kỳ bình thường với 4 
trong số này ở nhóm mổ bằng robot. Các tác giả 
cho rằng robot đã làm rất tốt vai trò của mình 
nhất là khi đối tượng phẫu thuật là những 
trường hợp đa u xơ vốn là điểm yếu của nội soi 
cổ điển. Khả năng robot hạn chế biến chứng tụ 
máu vết cắt là do khả năng khâu phục hồi nhiều 
lớp tốt hơn nhờ vào những lợi thế về kỹ thuật cả 
về dụng cụ, cổ tay robot, hiển thị 3D. Vì thế có 
thể robot phù hợp trong những trường hợp u xơ 
phức tạp và gia tăng tỉ lệ có thai sau điều trị bóc 
u xơ(3). 
Đối với những bệnh nhân đa u xơ, nội soi cổ 
điển gặp nhiều khó khăn khi thao tác bị giới hạn 
và nhiều trường hợp phải mổ mở vì lý do này. 
Năm 2018, Kim HK công bố nghiên cứu hồi cứu 
trên 26 bệnh nhân có từ 10 u xơ trở lên được 
phẫu thuật bằng robot hoặc mổ mở. Kết quả cho 
thấy các chỉ số hậu phẫu ngắn hạn bao gồm 
lượng máu mất, tỉ lệ truyền máu hay cần đặt dẫn 
lưu đều tương đương. Đặc biệt nhóm bệnh nhân 
được mổ robot có thể xuất viện sớm hơn (bình 
quân 2,5 ngày nằm viện so với 3,5 ngày, p=0,003) 
đồng thời mở ra triển vọng điều trị bệnh nhân 
đa u xơ bằng kỹ thuật mới này(4). Một trở ngại 
lớn khác cho các phẫu thuật viên khi đối mặt với 
trường hợp u xơ kích thước lớn, ở vị trí sâu trong 
cơ tử cung hay nhiều u cần phải giải quyết cùng 
một lúc. Mổ mở và PTNS thường khó thao tác để 
bóc u triệt để hoặc tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây 
tổn thương thứ phát trong lúc phẫu thuật. Năm 
2017, Kang SY công bố nghiên cứu đoàn hệ hồi 
cứu trên 100 trường hợp có nhiều UXTC sâu 
được điều trị bằng phẫu thuật robot, trong đó có 
32 người ngoài u xơ còn kèm theo những bất 
thường phụ khoa khác đòi hỏi phẫu thuật cùng 
lúc. Kết quả ghi nhận tổng số u xơ được giải 
quyết trung bình trên mỗi bệnh nhân là 3,8±3,5 
(dao động từ 1−18 u xơ), với kích thước khối u xơ 
to nhất là 7,5±2,1 cm (dao động từ 4,0−15,0 cm) 
và nếu kết hợp các khối u này lại trên từng bệnh 
nhân thì trung bình mỗi trường hợp khối u xơ có 
tổng kích thước là 14±6,8 cm (dao động từ 4,0–
49,0 cm). Điều đáng quan tâm là không có 
trường hợp nào phải chuyển mổ mở hay phẫu 
thuật lại. Đặc biệt có đến 9 trong số 12 trường 
hợp mong muốn bóc u xơ để điều trị vô sinh đã 
mang thai và 7 trong số đó thai kỳ đủ tháng, chỉ 
có 1 trường hợp sẩy thai và trường hợp còn lại 
thai kỳ đang tiến triển tại thời điểm công bố(5). 
Mặc dù nghiên cứu này không có nhóm chứng 
để so sánh giữa phẫu thuật robot với những 
phương pháp cổ điển nhưng kết quả này đầy 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 4
hứa hẹn trong lĩnh vực điều trị hiếm muộn trên 
những ca UXTC phức tạp. 
Biến chứng vỡ tử cung khi mang thai sau bóc 
u đã được ghi nhận với tỉ lệ 1,2% khi mổ nội soi 
và 0,4% khi mổ mở(6). Do chưa có nhiều thống kê 
về biến chứng này trên phẫu thuật bằng robot 
nên hiện nay chỉ có một trường hợp được báo 
cáo vào năm 2015 ở một bệnh nhân có thai 33 
tuần. Do vậy có thể tạm thời đánh giá rằng robot 
phẫu thuật an toàn cả ngắn hạn và dài hạn(7). 
Không có nhiều nghiên cứu tin cậy so sánh 
hiệu quả về điều trị hiếm muộn của robot phẫu 
thuật và các biện pháp khác vì sự không đồng 
nhất của nguyên nhân gây hiếm muộn, những 
đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trên từng 
nhóm hay thời gian theo dõi cũng khác nhau. 
Ước tính sau phẫu thuật loại bỏ nhân xơ tỉ lệ có 
thai khoảng 50-70% cho mổ nội soi và khoảng 
70% cho phẫu thuật robot cho thấy tiềm năng 
không nhỏ của robot trong điều trị hiếm muộn(8). 
Chi phí cho điều trị UXTC bằng phẫu thuật 
robot cao hơn hẳn mổ nội soi và mổ mở. Tuy 
nhiên việc đánh giá hiệu quả trên khoản phí bỏ 
ra vẫn chưa được phân tích xác đáng dù rằng về 
lâu dài việc giảm thời gian nằm viện, nhanh 
chóng phục hồi sau phẫu thuật có thể đem lại lợi 
ích cho cá nhân và cộng đồng. Hơn nữa nhu cầu 
sử dụng các kỹ thuật xâm lấn tối thiểu đang tăng 
dần còn hứa hẹn về một chi phí dễ tiếp cận hơn 
trong tương lai. 
Tái tạo ống dẫn trứng sau triệt sản 
Triệt sản dựa trên cơ sở can thiệp làm mất 
tính liên tục trên hai ống dẫn trứng bằng kẹp, 
nhẫn Falope, cắt đốt hay qua kỹ thuật Pomeroy, 
Parkland... thông thường được tiến hành ngay 
sau khi mổ lấy thai hay bằng mổ nội soi sau giai 
đoạn hậu sản trong trường hợp sanh qua ngã âm 
đạo trên những phụ nữ không mong muốn có 
con trong tương lai. Trên thế giới có khoảng 200 
triệu phụ nữ đã được triệt sản theo phương 
pháp này với 8,2% phụ nữ ở những nước phát 
triển và 20,6% phụ nữ ở những nước đang phát 
triển. Dù được biết đến là một hình thức ngừa 
thai vĩnh viễn, song vẫn có cách thức đảo ngược 
lại tình hình. Những lý do khiến họ thay đổi 
quyết định thường gặp là sự cải thiện về tài 
chính, sau kết hôn với người đàn ông khác hay 
việc tử vong không mong muốn của những đứa 
trẻ. Điều này khiến có khoảng 5 đến 20% phụ nữ 
cảm thấy hối tiếc sau triệt sản và 1% đến 5% phụ 
nữ yêu cầu tái tạo lại ống dẫn trứng sau triệt 
sản(9). 
Tái thông ống dẫn trứng có thể tiến hành 
bằng mổ mở, nội soi với sự hỗ trợ của kính lúp 
dùng cho vi phẫu. Sự ra đời của robot phẫu 
thuật đã mở ra một bước tiếp cận mới vì ngoài 
những ưu điểm đã mô tả, hình ảnh 3D còn 
phù hợp trong việc cho phép khả năng phóng 
đại hình ảnh tạo thuận lợi cho những thao tác 
tinh vi được chính xác tối đa. Về nguyên tắc, 
phẫu thuật này được tiến hành bằng cách xén 
đi phần mô ống dẫn trứng đã tổn thương do 
triệt sản, hai đầu tận của ống dẫn trứng được 
kéo lại gần nhau và may lại để tái lập sự thông 
suốt như trước. 
Một nghiên cứu hồi cứu của Caillet M năm 
2010 về hiệu quả của phẫu thuật phục hồi ống 
dẫn trứng sau triệt sản trên 93 phụ nữ cho thấy 
71% có ít nhất một lần mang thai và 62,4% ít nhất 
một lần sinh con. Nghiên cứu cho thấy tuổi tác là 
yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất đến khả năng phục 
hồi lại khả năng sinh sản vốn có sau phẫu thuật 
khi phụ nữ dưới 36 tuổi có 91% khả năng có thai 
lại, giảm xuống còn 75% ở phụ nữ 36-39 tuổi, 
50% ở phụ nữ 40-42 tuổi và sau tuổi 43 chỉ còn 
33% (p <0,001) khi theo dõi trong vòng 2 năm(10). 
Khi so sánh hiệu quả giữa sử dụng robot với mổ 
mở, tổng quan hệ thống của van Seeters JH năm 
2017 (2 nghiên cứu có cỡ mẫu lần lượt là 28 và 
89) cho thấy thời gian xuất viện nhanh hơn (4 giờ 
so với 35 giờ, p=0,0001), lượng thuốc giảm đau 
sử dụng ít hơn, nhưng không có sự khác biệt về 
tỉ lệ có thai sau phẫu thuật (p=0,1), thời gian mổ 
kéo dài hơn (p=0,001) và chi phí bỏ ra cũng nhiều 
hơn đáng kể (p <0,001). Khi so với PTNS, chỉ có 
một nghiên cứu với cỡ mẫu 25 người cho thấy tỉ 
lệ có thai cũng không khác biệt đáng kể (50% so 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Tổng Quan 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 5
với 40%, giá trị p không báo cáo), và cũng có thời 
gian kéo dài hơn cho ca mổ (284 phút với 191 
phút, p=0,0006)(11). Xem xét hiệu quả trong điều 
trị vô sinh không cho thấy robot ưu thế hơn hai 
phương pháp còn lại nhưng các nghiên cứu này 
cỡ mẫu còn quá ít khó tránh khỏi sai lệch. Hơn 
nữa độ thành thạo về kỹ năng của hình thức 
phẫu thuật mới như phẫu thuật robo ... ống dẫn trứng 
đã có tuổi song hành với tình trạng giảm dự trữ 
buồng trứng. Vấn đề đặt ra là chúng ta liệu sẽ 
tiến hành tái thông hai ống dẫn trứng và chờ có 
thai tự nhiên hay bắt tay ngay vào biện pháp hỗ 
trợ sinh sản như IVF (In vitro fertilization), bởi 
mục đích cuối cùng của họ là mang thai trở lại. 
Hơn nữa phẫu thuật luôn tiềm ẩn những nguy 
cơ và biến chứng mặc dù nó có thể giúp người 
phụ nữ mang thai tự nhiên thêm nhiều lần và 
tiết kiệm hơn là thực hiện IVF. Một nghiên cứu 
đoàn hệ hồi cứu của Boeckxstaens A công bố 
năm 2007 trên 163 phụ nữ với mục tiêu tìm ra 
phương án thích hợp nhất giữa hai lựa chọn này. 
Nhóm nghiên cứu ghi nhận khi so sánh giữa hai 
nhóm: phẫu thuật tái tạo ống dẫn trứng (84 
trường hợp) và nhóm IVF (79 trường hợp) 
không cho thấy sự khác biệt về tỉ lệ có thai sau 
điều trị trong thời gian theo dõi. Nhóm nghiên 
cứu đã gộp chung cả hai nhóm lại và chia nhóm 
theo tuổi thì phát hiện ra tuổi là yếu tố ảnh 
hưởng đến kết quả có thai hơn là phương pháp 
điều trị (p=0,012). Và khi phân tích phương pháp 
điều trị theo từng nhóm tuổi thì sự khác biệt lúc 
này trở nên nổi bật ở nhóm phẫu thuật (p=0,006) 
so với nhóm IVF. Đối với những phụ nữ dưới 37 
tuổi, phẫu thuật có hiệu quả ở 72% trường hợp 
so với 52% trường hợp khi tiến hành IVF. Ngược 
lại nếu họ từ 37 tuổi trở lên, phẫu thuật chỉ còn 
hiệu quả với 36,6% so với 51,4% khi làm IVF. 
Mặc dù chi phí điều trị IVF cao gấp đôi so với 
phẫu thuật (11707 € và 6015 € tại Bỉ), tuy nhiên 
khi phân tích hiệu quả trên chi phí thì để có một 
lần sinh con, những phụ nữ trẻ hơn mốc 37 tuổi 
bỏ ra 12140€ cho dịch vụ IVF trong khi chỉ 4953€ 
cho việc phẫu thuật, mức độ chênh lệch này 
được kéo giảm khi phụ nữ từ 37 tuổi trở lên. 
Nhóm nghiên cứu kết luận rằng đối với những 
phụ nữ dưới 37 tuổi chúng ta có thể cân nhắc 
phẫu thuật trong khi những trường hợp lớn tuổi 
hơn IVF là lựa chọn thích hợp dựa trên hài hòa 
giữa chi phí, hiệu quả và nguy cơ(12). Nhìn chung 
sử dụng robot phẫu thuật vào tái tạo ống dẫn 
trứng hậu triệt sản là một lựa chọn đầy tiềm 
năng, an toàn và có hiệu quả nhất là khi được chỉ 
định trên đối tượng phù hợp. Dù rằng hạn chế 
về thời gian mổ và chi phí là trở ngại chính song 
trong tương lai hai khuyết điểm này có thể được 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 6
cải thiện. 
Lạc nội mạc tử cung 
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là tình trạng 
tồn tại những mô giống nội mạc tử cung bên 
ngoài tử cung, đi kèm với đó là biểu hiện viêm 
mạn tính. Trên toàn thế giới, LNMTC xảy ra ở 
khoảng 11% nữ giới, con số này tăng lên 35-50% 
trong nhóm những phụ nữ xuất hiện triệu 
chứng đau bụng và hoặc vô sinh vì có không ít 
trường hợp LNMTC không triệu chứng. Đến 
thời điểm hiện tại, LNMTC vẫn là bệnh lý với 
căn nguyên chưa rõ và là thách thức lớn cho 
những nhà sản phụ khoa lâm sàng. Ngoài gây 
nên triệu chứng đau bụng khi hành kinh, đau 
khi giao hợp thì sự xuất hiện mô nội mạc tử cung 
lạc vị cũng gây vấn đề vô sinh. Điều này làm 
giảm nghiêm trọng chất lượng cuộc sống và là 
gánh nặng không nhỏ cho ngành y tế. Ước tính 
hiện nay suất độ của bệnh lý này trên toàn cầu 
khoảng 2-10% nữ giới trong độ tuổi sinh sản với 
tỉ lệ đặc biệt cao xấp xỉ 50% ở nhóm phụ nữ có 
tình trạng hiếm muộn(13). Tình trạng viêm vùng 
chậu, cường estrogen và đề kháng progesterone 
tại chỗ là những lý giải ban đầu cho bệnh sinh 
của LNMTC(14). 
Việc điều trị LNMTC nội khoa bằng 
hormone liệu pháp thường chỉ đạt mục tiêu 
kiểm soát triệu chứng và không giúp cải thiện 
khả năng mang thai nên những phụ nữ muốn có 
thai thường được cân nhắc phẫu thuật(15). Trong 
đó cả mổ mở và nội soi đều có thể được lựa chọn 
nhưng PTNS nói chung tỏ ra ưu thế hơn vì là 
một hình thức xâm lấn tối thiểu, giảm những 
biến chứng trong và sau phẫu thuật với cùng 
hiệu quả mang lại, cũng như là một phương tiện 
chẩn đoán giá trị những trường hợp nghi ngờ 
LNMCT để có thể điều trị cùng lúc. Theo 
khuyến cáo của ESHRE 2013, đối với những phụ 
nữ LNMTC giai đoạn I-II nên tiến hành PTNS 
cắt bỏ khối LNM và giải quyết sự dính vùng 
chậu thay vì chỉ để chẩn đoán sẽ cải thiện khả 
năng mang thai (Mức độ khuyến cáo A), còn giai 
đoạn III-IV cũng nên tiến hành mổ nội soi thay 
vì chờ mang thai tự nhiên (Mức độ khuyến cáo 
B). Đối với LNM tử cung buồng trứng, một khi 
đã quyết định phẫu thuật nên bóc toàn bộ khối 
LNM gồm cả vỏ bao là phương pháp tối ưu nâng 
cao khả năng có thai hơn hẳn chỉ dẫn lưu hay 
đốt điện. Tuy nhiên phẫu thuật này rất ảnh 
hưởng đến dự trữ buồng trứng và do vậy cả 
ESHRE 2013 và RCOG 2017 đều có cái nhìn thận 
trọng khi lưu ý rằng những chứng cứ về lợi ích 
trên cải thiện tỉ lệ có thai sau PTNS LNMTC 
buồng trứng vẫn chưa được xác lập ngay cả khi 
khối LNM trên 3 cm mặc dù việc phẫu thuật có 
thể giúp việc tiếp cận buồng trứng tốt hơn(13,16). 
Tuy nhiên, chỉ định cụ thể và hướng dẫn chung 
một phương pháp điều trị tối ưu cho LNMTC 
vẫn chưa được xác định. Nên nhớ rằng cơ sở của 
các khuyến cáo này chưa dựa trên những bước 
tiến vượt bậc về kỹ thuật mổ bằng robot, vốn 
được biết đến bởi tính chính xác cao và độ xâm 
lấn và tổn thương là tối thiểu. Kể từ robot được 
ứng dụng vào điều trị phụ khoa thì vai trò của 
nó trong điều trị vô sinh do LNMTC càng quan 
trọng bởi khả năng quan sát và phóng đại của 
hình ảnh 3D và sự nâng cấp vượt trội của dụng 
cụ phẫu thuật, hỗ trợ phẫu thuật viên trong 
những ca phức tạp. 
Mức độ thành công của phẫu thuật LNMTC 
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng quan sát và 
nhận diện mô LNM để tiến hành loại bỏ. Một 
nghiên cứu của Mosbrucke C trên 98 bệnh nhân 
so sánh mức độ phát hiện mô LNM của thiết bị 
2D trong nội soi cổ điển và hình ảnh 3D do hệ 
thống robot mang lại cho thấy cải tiến về hiển thị 
trên robot phẫu thuật giúp phát hiện được nhiều 
mô LNM hơn (95,5% so với 79,3%, p <0,001), dù 
tỉ lệ thật sự là mô LNM qua phân tích mô học 
thu được là tương đương ở hai nhóm (57,4% so 
với 58,7%). Robot có thể phát hiện 100% mô 
LNM ở túi cùng trong khi nội soi cổ điển chỉ 
phát hiện 79% (p <0,001) và khi phân tích giải 
phẫu bệnh hình ảnh 3D cũng chính xác hơn 
28,7% (p <0,001). Đặc biệt những mô LNM nhỏ 
dưới 5mm robot phát hiện chính xác hơn nội soi 
cổ điển 38% (p <0,001) và 13,6% với những mô 
LNM lớn hơn 5mm (p <0,001)(17). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Tổng Quan 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 7
Năm 2020, tổng quan hệ thống và phân tích 
tổng hợp của Restaino S dựa trên 5 nghiên cứu 
trong đó có một RCT để đánh giá hiệu quả của 
hai phương pháp xâm lấn tối thiểu được ưa 
chuộng gồm robot phẫu thuật và nội soi cổ điển. 
Kết quả cho thấy robot phẫu thuật gặp phải hạn 
chế về thời gian ca mổ trung bình bị kéo dài (với 
khác biệt trung bình WMD=0,54; 95%CI 0,37-0,7, 
p <0,00001). Thời gian nằm viện sau mổ không 
khác biệt ở hai nhóm (WMD=0,12; 95%CI–0,05–
0,29; p=0,17). Tương tự chỉ số về tỉ lệ biến chứng 
sau mổ (p=0,49), biến chứng trong lúc phẫu thuật 
(p=0,71) và lượng máu mất (p=0,25) cũng không 
khác biệt ở hai nhóm này(18). Do đó có thể nói 
robot không thua kém nội soi trong điều trị 
LNMTC(18). 
Nghiên cứu hồi cứu của Moon HS năm 2018 
trên 120 trường hợp phẫu thuật LNMTC một 
ngõ vào bằng robot và nội soi cũng cho thấy thời 
gian phẫu thuật robot lâu hơn (107,8 phút so với 
76,9 phút; p=0,001) được lý giải do quá trình lắp 
ghép robot kéo dài, lượng máu mất nhiều hơn 
(106,67ml so với 57,1 ml; p=0,001), cũng như 
không khác biệt về thời gian nằm viện (p=0,862) 
hay biến chứng phẫu thuật. Tuy nhiên robot 
phải giải quyết những khối LNM to hơn (5,23 cm 
so với 4,37 cm, p=0,03) so với nội soi truyền 
thống. Hơn nữa tỉ lệ LNMTC xâm lấn sâu (DIE: 
deep filtrating endometriosis) vào dây chằng tử 
cung cùng hay thành trước tại chỗ gặp nhau với 
đại tràng sigma gây dính và phá hủy túi cùng 
âm đạo lại nhiều hơn ở nhóm robot so với nhóm 
nội soi (76,5% so với 63,5%). Phẫu thuật robot 1 
ngõ là phẫu thuật khó nên kéo dài thời gian 
phẫu thuật và tăng lượng máu mất. Chính bởi 
đây là nghiên cứu hồi cứu nên hai nhóm so sánh 
không được đồng nhất về các đặc điểm và trong 
trường hợp này nhóm robot phẫu thuật đã gặp 
nhiều trường hợp khó thực hiện hơn nên có thể 
đã làm ẩn đi sự vượt trội so với nội soi truyền 
thống(19). Các phẫu thuật này đòi hỏi kinh 
nghiệm, quá trình đào tạo kéo dài và cần phối 
hợp nhiều chuyên khoa. Đặc biệt trên những 
trường hợp LNMTC xâm lấn vào buồng trứng 
thì robot phẫu thuật cho phép bảo tồn chức năng 
buồng trứng trong khi PTNS có thể gây suy 
buồng trứng sớm bởi hạn chế về thao tác. Đó có 
thể là một tiềm năng mà phẫu thuật robot có thể 
khai thác trong cải thiện khả năng sinh sản ở phụ 
nữ LNMTC giai đoạn 4(20). 
Do đó dù kết quả không thật sự vượt trội 
PTNS, có thể thấy rằng robot trong điều trị 
LNMTC hoàn toàn an toàn, hiệu quả, thao tác 
chính xác và thay thế hoàn hảo PTNS đặc biệt 
trong những tình huống đòi hỏi kỹ thuật phức 
tạp như DIE ảnh hưởng đến những tạng trong ổ 
bụng. Những nghiên cứu mới là cần thiết để 
thêm những bằng chứng ủng hộ quan điểm này. 
KẾT LUẬN 
Robot phẫu thuật ra đời và phát triển đúng 
vào thời điểm các ngành công nghệ kỹ thuật cao 
khác bùng nổ đã trở thành sản phẩm hội tụ 
những tiến bộ bậc nhất mà con người vươn tới 
được. Phương tiện này dường như là một bước 
nhảy vọt và khắc phục được những hạn chế của 
nội soi cổ điển. Một hệ thống khoa học, ưu việt 
hiện đại với tính năng thông minh, cập nhật liên 
tục đã vẽ nên một định hướng mới cho ngoại 
khoa nói chung và phụ khoa nói riêng. 
Trong điều trị hiếm muộn, robot phẫu thuật 
dù chỉ mới được cân nhắc dùng đến trong vài 
năm gần đây vẫn tạo nên những kết quả hứa 
hẹn. Trong UXTC, robot có thể đảm nhận điều 
trị những ca phức tạp vốn trước nay phải 
chuyển mổ mở. Ngoài ra, chất lượng và sự hài 
lòng mà robot mang lại không thua kém nội soi 
cổ điển. Đối với tái thông ống dẫn trứng sau triệt 
sản, robot cũng chứng minh được khả năng của 
mình và cho thấy hoàn toàn có thể thay thế nội 
soi và mang lại tỉ lệ thành công cao trên đối 
tượng bệnh nhân thích hợp. Trong điều trị 
LNMTC, hiệu quả của robot cũng không hề thua 
kém nội soi cổ điển nếu không muốn nói robot 
còn ưu thế trong những trường hợp bệnh giai 
đoạn nặng. 
Tuy nhiên hạn chế cố hữu về chi phí phẫu 
thuật vẫn còn là rào cản cho đến hiện nay khiến 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 8
robot chưa thể phổ biến rộng khắp để tiếp cận 
đại đa số bệnh nhân. Các nghiên cứu vẫn chưa 
có độ tin cậy cần thiết để có thể đánh giá khách 
quan về robot trong điều trị hiếm muộn. Vì lẽ 
đó, phương tiện đầy tiềm năng này cần được 
trao cơ hội để thể hiện mình, đóp góp vào điều 
trị cho bệnh nhân để hướng đến nâng cao chất 
lượng dịch vụ y tế. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Rikhraj K, Tan J, Taskin O, Albert AY, Yong P and Bedaiwy 
MA (2020). The Impact of Noncavity-Distorting Intramural 
Fibroids on Live Birth Rate in In Vitro Fertilization Cycles: A 
Systematic Review and Meta-Analysis. Journal of Women's 
Health, 29(2):210-219. 
2. Wang T, Tang H, Xie Z and Deng S (2018). Robotic-assisted vs. 
laparoscopic and abdominal myomectomy for treatment of 
uterine fibroids: a meta-analysis. Minim Invasive Ther Allied 
Technol, 27(5):249-264. 
3. Sheu BC, Huang KJ, Huang SC and Chang WC (2020). 
Comparison of uterine scarring between robot-assisted 
laparoscopic myomectomy and conventional laparoscopic 
myomectomy. J Obstet Gynaecol, 40(7):974-980. 
4. Kim HK, Shim S, Hwang Y, Kim M, Hwang H, Chung YJ, Cho 
HH and Kim MR (2018). Is robot-assisted laparoscopic 
myomectomy limited in multiple myomas? a feasibility for ten 
or more myomas. Obstetrics & Gynecology Science, 61(1):135-141. 
5. Kang SY, Jeung IC, Chung YJ, Kim HK, Lee CR, Mansukhani 
TS and Kim MR (2017). Robot-assisted laparoscopic 
myomectomy for deep intramural myomas. Int J Med Robot, 
doi: 10.1002/rcs.1742. 
6. Claeys J, Hellendoorn I, Hamerlynck T, Bosteels J and Weyers S 
(2014). The risk of uterine rupture after myomectomy: a 
systematic review of the literature and meta-analysis. 
Gynecological Surgery, 11(3):197-206. 
7. Hortu I, Akdemir A, Şendağ F and Öztekin MK (2015). Uterine 
rupture in pregnancy after robotic myomectomy. Turkish 
Journal of Obstetrics and Gynecology, 12(3):188-191. 
8. Nathan JH, Shvalb N, Smorgick N (2016). Robotic-Assisted 
Laparoscopic Myomectomy versus Traditional Laparoscopic 
Myomectomy: Are They the Same? Current Obstetrics and 
Gynecology Reports, 5(4):341-347. 
9. George K, Kamath MS, Tharyan P (2013). Minimally invasive 
versus open surgery for reversal of tubal sterilization. Cochrane 
Database Syst Rev, 2:CD009174. 
10. Caillet M, Vandromme J, Rozenberg S, Paesmans M, Germay O 
and Degueldre M (2010). Robotically assisted laparoscopic 
microsurgical tubal reanastomosis: a retrospective study. Fertil 
Steril, 94(5):1844-1847. 
11. Van Seeters JaH, Chua SJ, Mol BW, Koks CM (2017). Tubal 
anastomosis after previous sterilization: a systematic review. 
Hum Reprod Update, 23(3):358-370. 
12. Boeckxstaens A, Devroey P, Collins J and Tournaye H (2007). 
Getting pregnant after tubal sterilization: surgical reversal or 
IVF? Hum Reprod, 22(10):2660-2664. 
13. Dunselman G, Vermeulen N, Becker C, Calhaz-Jorge C, 
D'hooghe T, De Bie B, Heikinheimo O, Horne A, Kiesel L and 
Nap A (2014). ESHRE guideline: management of women with 
endometriosis. Human Reproduction, 29(3):400-412. 
14. De Ziegler D, Borghese B and Chapron C (2010). Endometriosis 
and infertility: pathophysiology and management. Lancet, 
376(9742):730-738. 
15. Practice Committee of the American Society for Reproductive 
M (2012). Endometriosis and infertility: a committee opinion. 
Fertil Steril, 98(3):591-598. 
16. Jayaprakasan K, Becker C and Mittal M (2018). The effect of 
surgery for endometriomas on fertility: scientific impact paper 
no. 55. Bjog-An International Journal of Obstetrics and Gynaecology, 
125(6):E19-E28. 
17. Mosbrucker C, Somani A and Dulemba J (2018). Visualization 
of endometriosis: comparative study of 3-dimensional robotic 
and 2-dimensional laparoscopic endoscopes. J Robot Surg, 
12(1):59-66. 
18. Restaino S, Mereu L, Finelli A, Spina MR, Marini G, Catena U, 
et al (2020). Robotic surgery vs laparoscopic surgery in patients 
with diagnosis of endometriosis: a systematic review and meta-
analysis. J Robot Surg, 14(5):687-694. 
19. Moon HS, Shim JE, Lee SR and Jeong K (2018). The 
Comparison of Robotic Single-Site Surgery to Single-Port 
Laparoendoscopic Surgery for the Treatment of Advanced-
Stage Endometriosis. J Laparoendosc Adv Surg Tech A, 
28(12):1483-1488. 
20. Carbonnel M, Goetgheluck J, Frati A, Even M and Ayoubi JM 
(2014). Robot-assisted laparoscopy for infertility treatment: 
current views. Fertil Steril, 101(3):621-626. 
Ngày nhận bài báo: 10/11/2020 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfphau_thuat_robot_trong_benh_ly_hiem_muon_thoi_dai_4_0.pdf