Phẫu thuật nội soi toàn bộ không có robot hỗ trợ, tim đập vá thông liên nhĩ ở trẻ nhỏ

Từ tháng 5/2016 đến tháng 4/2017, 14bệnh nhân (TLN đơn thuần/ TLN kèm TMP lạc chỗ bán phần: 13/1) với tuổi trung bình là 7,5 ± 3,9 và cân nặng trung bình là 21 ± 8,8 kgđược phẫu thuật theo phương pháp NSTB không robot hỗ trợ, tim đập.Cannula động mạch (ĐM) đùi một hoặc hai bên;đặt 3 trocar 5mm và 1 trocar 12mm, chỉ thắt TMC trên, làm đầy khoang màng phổi bằng CO2. Miếng vá nhân tạo được sử dụng trong tất cả các trường hợp. Thời gian theo dõi trung bình 5,4 ± 3,6 tháng (1 tháng đến 11 tháng). Không có biến chứng liên quan phẫu thuật và tử vong sau mổ. Thời gian mổ và thời gian chạy máy trung bình lần lượt là 244,6± 52,3 (phút) và 145,9 ± 40,5 (phút). Bệnh nhân được rút nội khí quản trong vòng 6 giờ đầu, dẫn lưu trong ngày đầu <60ml. sau="" 4="" ngày="" người="" bệnh="" không="" cần="" dùng="" thuốc="" giảm="" đau="" và="" trở="" về="" với="" sinh="" hoạt="" bình="" thường="" sau="" mổ="" 1="" tuần.="" phẫu="" thuật="" nstbkhông="" có="" robot="" hỗ="" trợ="" vá="" tln="" tim="" đập="" là="" phương="" pháp="" an="" toàn="" và="" hiệu="" quả="" khi="" thực="" hiện="" ở="" trẻ="" nhỏ.="" người="" bệnh="" hồi="" phục="" sớm,="" sẹo="" mổ="" có="" giá="" trị="" thẩm="" mỹ="" cao="" đặc="" biệt="" ở="" trẻ="">

pdf 7 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật nội soi toàn bộ không có robot hỗ trợ, tim đập vá thông liên nhĩ ở trẻ nhỏ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật nội soi toàn bộ không có robot hỗ trợ, tim đập vá thông liên nhĩ ở trẻ nhỏ

Phẫu thuật nội soi toàn bộ không có robot hỗ trợ, tim đập vá thông liên nhĩ ở trẻ nhỏ
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 17 - THÁNG 8/2017 
 26 
PHẪU THUẬT NỘI SOI TOÀN BỘ KHÔNG CÓ ROBOT HỖ TRỢ, TIM ĐẬP 
VÁ THÔNG LIÊN NHĨ Ở TRẺ NHỎ 
Đặng Quang Huy*, Nguyễn Công Hựu*, Trần Đắc Đại*, Nguyễn Đỗ Hùng*, 
Nguyễn Trung Hiếu*, Phạm Thị Minh Huệ*, Đặng Thanh Hường*, Lê Ngọc Thành* 
Từ tháng 5/2016 đến tháng 4/2017, 14bệnh 
nhân (TLN đơn thuần/ TLN kèm TMP lạc chỗ 
bán phần: 13/1) với tuổi trung bình là 7,5 ± 3,9 và 
cân nặng trung bình là 21 ± 8,8 kgđược phẫu 
thuật theo phương pháp NSTB không robot hỗ 
trợ, tim đập.Cannula động mạch (ĐM) đùi một 
hoặc hai bên;đặt 3 trocar 5mm và 1 trocar 12mm, 
chỉ thắt TMC trên, làm đầy khoang màng phổi 
bằng CO2. Miếng vá nhân tạo được sử dụng 
trong tất cả các trường hợp. Thời gian theo dõi 
trung bình 5,4 ± 3,6 tháng (1 tháng đến 11 tháng). 
Không có biến chứng liên quan phẫu thuật và tử 
vong sau mổ. Thời gian mổ và thời gian chạy 
máy trung bình lần lượt là 244,6± 52,3 (phút) và 
145,9 ± 40,5 (phút). Bệnh nhân được rút nội khí 
quản trong vòng 6 giờ đầu, dẫn lưu trong ngày 
đầu <60ml. Sau 4 ngày người bệnh không cần 
dùng thuốc giảm đau và trở về với sinh hoạt bình 
thường sau mổ 1 tuần. Phẫu thuật NSTBkhông có 
robot hỗ trợ vá TLN tim đập là phương pháp an 
toàn và hiệu quả khi thực hiện ở trẻ nhỏ. Người 
bệnh hồi phục sớm, sẹo mổ có giá trị thẩm mỹ 
cao đặc biệt ở trẻ gái. 
Từ khóa: phẫu thuật tim nội soi toàn bộ, 
phẫu thuật tim ít xâm lấn, phẫu thuật tim đập, 
thông liên nhĩ 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Từ những năm 2000, với sự hỗ trợ của hệ 
thống robot, phẫu thuật nội soi toàn bộ (NSTB) đã 
lần đầu tiên được ứng dụng trong điều trị bệnh lý 
tim mạch, trong đó có bệnh thông liên nhĩ (TLN). 
Nhờ sự linh hoạt của thiết bị và sự chính xác trong 
từng thao tác, hệ thống robot giúp phẫu thuật viên 
(PTV) có thể can thiệp vào những vị trí sâu, không 
gian chật hẹp với độ an toàn cao. Tuy vậy đến thời 
điểm này, phẫu thuật nội soi tim ở trẻ em vẫn là 
thách thức lớn đối với các PTV tim mạch. Mặt 
khác, chi phí phẫu thuật và chi phí đào tạo rất cao là 
lý do không nhỏ khiến phẫu thuật NSTB có sự hỗ 
trợ của robot chưa được ứng dụng rộng rãi. Trong 
nghiên cứu này, chúng tôi báo cáo kinh nghiệm ban 
đầu về phẫu thuật NSTB không robot hỗ trợ, tim 
đập trong điều trị bệnh TLN ở trẻ nhỏ. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Lựa chọn bệnh nhân 
Từ tháng 5/2016 đến tháng 4/2017, 14bệnh 
nhân (BN)chẩn đoán TLN (nam/ nữ: 3/11) được 
điều trị bằng phương pháp phẫu thuật NSTB 
không có robot hỗ trợ, tim đập. Tiêu chuẩn lựa 
chọn gồm: (1) TLN lỗ thứ phát đơn thuần, TLN 
kèm theo TMP lạc chỗ bán phần; (2) < 18 tuổi với 
cân nặng > 13kg. Tất cả BN được siêm âm doppler 
kiểm tra tình trạng ĐM chậu đùi trước mổ. Những 
trường hợp kích thước ĐM đùi quá nhỏ không thiết 
lập được tuần hoàn ngoại vi bị loại ra khỏi nghiên 
cứu. BN TLN lỗ tiên phát hoặc TLN kèm bệnh lý 
khác không được lựa chọn.6 
* Trung tâm tim mạch bệnh viện E 
** Bệnh viện Việt Đức 
Người chịu trách nhiệm khoa học: GS.TS. Lê Ngọc Thành 
Ngày nhận bài: 01/08/2017 - Ngày Cho Phép Đăng: 07/08/2017 
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Bùi Đức Phú 
 PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng 
PHẪU THUẬT NỘI SOI TOÀN BỘ KHÔNG CÓ ROBOT HỖ TRỢ, TIM ĐẬP VÁ THÔNG LIÊN NHĨ Ở TRẺ NHỎ 
 27
Bảng 2.1. 
Các thông số nhân trắc học và thông số trước mổ (n=14) 
Tuổi (năm) 7,4± 3,9 (2,3 – 17) 
Giới (nam/nữ) 3/11 
Cân nặng (kg) 21± 8,78 (13,5 – 40) 
Diện tích da (m2) 0,831± 0,229 (0,61 – 1,29) 
Loại bệnh 
TLN thứ phát đơn thuần 13 
TLN kèm TMP lạc chỗ bán phần 1 
ĐK lỗ thông (mm) 25,7± 4,8 (16 - 32) 
Áp lực ĐMP (mmHg) 44,4± 9,1 (28 – 58) 
Nguyên nhân chỉ định phẫu thuật 
Bịt dù thất bại 3 
Không có gờ 5 
Gờ ngắn 2 
TMP lạc chỗ 2 
Lỗ thông lớn 2 
TLN: thông liên nhĩ, VBL: van ba lá, TMP: tĩnh mạch phổi, ĐMP: động mạch phổi 
Các thông số nhân trắc học (tuổi, cân nặng, 
diện tích da, kích thước lỗ thông) trước mổ, các 
đặc điểm về bệnh học và nguyên nhân chỉ định 
mổ được trình bày trong Bảng 1. Phương pháp 
phẫu thuật được hội đồng khoa học bệnh viện 
thông qua và được sự đồng thuận của gia đình 
bệnh nhân. 
2.2. Phương pháp phẫu thuật 
BN được gây mê bằng ống nội khí quản một 
nòng. Bác sĩ gây mê đặt catheter tĩnh mạch trung 
ương vào TM cảnh trong trái. BN được đặt tư thế 
nằm nghiêng trái 20-30º, hai tay xuôi theo thân 
người. Phẫu thuật viên vẽ sẵn vị trí dự định đặt 
các lỗ trocar. 
Để thiết lập tuần hoàn ngoại vi chúng tôi 
tạo một đường rạch dài 2cm ngang ở nếp bẹn 
bên phải, bộc lộ ĐM đùi chung và TM đùi. Ở 
những BN có cân nặng > 15kg, chúng tôi thiết 
lập đường ĐM một cách gián tiếp vào ĐM đùi 
chung qua một đoạn mạch Dacron số 6. 
Cannula TMC trên và TMC dưới được đặt qua 
TM cảnh trong phải và TM đùi theo phương 
pháp Sheldinger. Trước khi đặt trocar, chúng 
tôi kiểm tra đường ĐM bằng cách chạy máy 
thử; nếu với toàn bộ lưu lượng, áp lực đường 
ĐM < 220mmHg là chấp nhận được. Nếu áp 
lực đường ĐM tăng quá 220mmHg, chúng tôi 
sẽ đặt một đường ĐM phụ ở đùi bên trái với 
kích thước cannula nhỏ hơn 4F so với kích 
thước dự kiến theo cân nặng BN. Ở những BN 
có cân nặng < 15kg, chúng tôi đặt cannula trực 
tiếp vào ĐM đùi hai bên, lựa chọn cannula nhỏ 
hơn 2-4F so với kích thước dự kiến theo cân 
nặng của BN. 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 17 - THÁNG 8/2017 
 28 
Bảng 2.2. 
Các thông số về thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể ngoại vi 
Cannula ĐM đùi (n=14) 
Một bên qua mạch Dacron số 6 6 
Hai bên chủ động 3 
Một bên thất bại (chuyển thành hai bên) 5 
Kích thước cannula TMC trên (F) 15,2 ± 2,1 (12 – 20) 
Kích thước cannula TMC dưới (F) 16,8 ± 1,9 (14 – 21) 
ĐM: động mạch, TMC: tĩnh mạch chủ 
Đặt 4 trocar tại các vị trí đã đánh dấu sẵn 
(hình 2), cụ thể là: 01 trocar 12mm tại khoang 
liên sườn (KLS) V đường nách trước là tay làm 
việc chính, 01 trocar 5mm tại KLS III đường 
nách giữa là tay làm việc phụ, 01 trocar 5mm tại 
KLS V đường nách giữa (cho đèn nội soi) và 01 
trocar 5mm tại KLS VI đường nách giữa (cho 
đường hút máu về). Sau khi vào đến khoang 
màng phổi, hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể bắt 
đầu hoạt động, nhiệt độ thực quản được hạ dần 
xuống 32ºC, màng tim được mở song song và 
phía trước so với thần kinh hoành 2cm. 
Hình 1 cách thức đặt 4 trocar. Mầu đỏ là vị trí tay làm việc chính đặt ở KLS V đường nách trước. Mầu vàng là vị trí 
tay làm việc phụ đặt ở KLS III đường nách giữa. Mầu xanh lục là vị trí đặt camera đặt ở KLS V đường nách giữa. 
Mầu xanh lá cây là vị trí đường hút máu về đặt ở KLS VI đường nách giữa. 
Khoang màng phổi và màng tim được làm 
đầy bởi khí CO2. Mở nhĩ phải (NP) dọc theo 
rãnh liên nhĩ sau khi đã thắt TMC trên và BN ở 
tư thế Trendelenburg. Tất cả lỗ TLN được đóng 
bằng miếng vá nhân tạo, khâu vắt. TMP lạc chỗ 
được tạo đường hầm trong tim dẫn máu về nhĩ 
trái qua lỗ TLN. Đường mở NP được đóng hai 
lớp. Tim được làm đầy sau khi thả thắt TMC 
trên, tư thế đầu bằng và kiểm tra cầm máu kỹ, 
màng tim được đóng mũi rời. Ngừng tuần hoàn 
ngoài cơ thể sau khi đặt 01 dẫn lưu màng tim và 
01 dẫn lưu màng phổi. Quy trình còn lại giống 
như phẫu thuật nội soi đơn thuần. 
PHẪU THUẬT NỘI SOI TOÀN BỘ KHÔNG CÓ ROBOT HỖ TRỢ, TIM ĐẬP VÁ THÔNG LIÊN NHĨ Ở TRẺ NHỎ 
 29
2.3. Chăm sóc sau mổ: 
Bệnh nhân được theo dõi sau mổ tại phòng 
hồi sức. Chụp Xquang ngực và siêu âm màng 
tim, màng phổi được thực hiện tại giường để 
loại trừ biến chứng về phổi (xẹp phổi, tràn 
dịch màng phổi). Bệnh nhân được rút ống 
nội khí quản sớm nhất có thể và được chuyển 
về bệnh phòng vào ngày hôm sau nếu không 
cần theo dõi đặc biệt. Giảm đau ngày đầu tiên 
bằng Morphine, những ngày sau dùng giảm 
đau bằng non-steroid đường uống. Bệnh nhân 
và bố mẹ được khuyến khích không dùng 
thuốc giảm đau ngay khi có thể. Tất cả bệnh 
nhân sau mổ được kiểm tra bằng siêu âm qua 
thành ngực và siêu âm doppler mạch máu kiểm 
tra trước khi ra viện. 
Hình 2, Kỹ thuật vá TLN NSTB. (A) vá lỗ TLN sử dụng miếng vá nhân tạo; 
(B) Hoàn thành đường khâu vắt vá TLN. 
2.4. Theo dõi sau mổ: 
Bệnh nhân được hẹn khám lại sau mổ 1 
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm. Bệnh nhân được 
khám, đánh giá tình trạng sẹo mổ, sự cân đối giữa 
hai ngực, tình trạng dị cảm quanh vị trí vết mổ 
ngực và đùi, sự hài lòng của gia đình và bệnh 
nhân về vị trí và kích thước sẹo mổ. Bệnh nhân 
được siêu âm tim qua thành ngực và siêu âm 
doppler mạch kiểm tra. 
2.5. Phân tích số liệu: 
Số liệu được tính ra trung bình ± phương sai 
(S.D.) cho những biến định lượng và tính ra số 
lượng với tỉ lệ phần trăm cho những biến định 
tính. Số liệu được quản lý và phân tích bởi phần 
mềm SPSS 14.0. 
III. KẾT QUẢ 
3.1. Kết quả sau mổ 
Phẫu thuật được thực hiện thành công ở tất cả 
các trường hợp. Không có trường hợp nào cần mở 
rộng vết mổ hoặc chuyển cưa xương ức.Tất cả 
BN được thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể ngoại 
vi. Cannula ĐM được đặt gián tiếp qua một đoạn 
mạch Dacron ở 11BN;trong đó có 5 BN cần đặt 
thêm đường ĐM phụ vào ĐM đùi trái.Có 3 BN 
cân nặng < 15kg, chúng tôi chủ động đặt trực tiếp 
cannula ĐM đùi hai bên.Ba trường hợp trẻ nhỏ 
phải sử dụng cannula ĐM để đặt cho TMC dưới. 
Chi tiết về thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể được 
trình bày trong Bảng 2. 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 17 - THÁNG 8/2017 
 30 
Bảng 3. 
Các thông số trong và sau mổ (n=14) 
Thời gian mổ (phút) 244,6± 52,3 (175 – 350) 
Thời gian chạy máy (phút) 145,9± 40,5 (78 – 220) 
Thời gian bộc lộ lỗ thông (phút) 25,4 ± 4,9 (20 - 35) 
Thời gian vá TLN (phút) 49,1 ± 22,1 (24 – 90) 
Thời gian đóng nhĩ phải (phút) 18 ± 8,4 (10 - 40) 
Thời gian thở máy (giờ) 6,4± 4,5 (1,25 – 15) 
Thời gian nằm hồi sức (giờ) 19,7± 5,3 (16 – 36) 
Dẫn lưu trong 24 giờ đầu (ml) 55,4± 40,3 (0 – 160) 
Thời điểm không cần dùng thuốc giảm đau sau mổ (ngày) 3,9± 0,6 (3 - 5) 
Thời gian nằm viện sau mổ (ngày) 10,1± 2,9 (6 - 17) 
Biến chứng sau mổ (thần kinh, mạch đùi, dị cảm đùi, tồn lưu) 0 
 Thời gian phẫu thuật và thời gian chạy máy 
trung bìnhlần lượt là 244,6± 52,3 phút và 145,9± 
40,5phút. Tất cả BN không cần dùng thuốc vận 
mạch sau ngừng hệ thống tim phổi máy và được 
rút máy thở trong vòng 6 giờ. Không có BN nào 
có biến chứng về thần kinh và biến chứng về 
mạch máu sau mổ. Sau 3-5 ngày BN không cần 
dùng thuốc giảm đau, người bệnh có thể trở lại 
sinh hoạt bình thường sau mổ 7 ngày (bảng 3).Tất 
cả BN và gia đình đều rất hài lòng về hiệu quả và 
tính thẩm mỹ của sẹo mổ. 
3.2. Kết quả theo dõi 
Thời gian theo dõi trung bình là 5,4 ± 3,6tháng, 
(từ 1 tháng đến 11 tháng). Tất cả lỗ thông được vá 
kín, không có biến chứng sau mổ liên quan đến hệ 
thống thần kinh và mạch máu đùi. 
IV. BÀN LUẬN 
Theo Van der Linde (2011), TLN là một 
trong số những bệnh tim bẩm sinh thường gặp 
nhất với tỉ lệ mắc bệnh ngày càng tăng theo thời 
gian [1]. Tim mạch can thiệp, với nhiều ưu điểm, 
đã trở thành lựa chọn hàng đầu trong điều trị TLN 
tại hầu hết các quốc gia trên thế giới trong hơn 20 
năm trở lại đây; tuy vậy ngày càng có nhiều báo 
cáo về biến chứng lâu dài của phương pháp điều 
trị ít xâm lấn này [2-4]. Biến dạng lồng ngực và 
sẹo mổ xấu là những biến chứng không thể tránh 
khỏi khi phẫu thuật cho những bệnh nhân nhỏ 
tuổi bằng phương pháp kinh điển – cưa xương 
ức[5]. Gần đây, việc sử dụng robot trong phẫu 
thuật tim nội soi đã dần trở nên quen thuộc và cho 
thấy nhiều ưu điểm khi áp dụng ở những BN 
trưởng thành, nhưng có rất ít báo cáo về áp dụng 
kỹ thuật này ở trẻ nhỏ[6, 7]. Nghiên cứu này công 
bố kinh nghiệm lâm sàng của chúng tôi trong việc 
áp dụng phương pháp phẫu thuật NSTB, tim đập, 
không có sự hỗ trợ của robot ở trẻ nhỏ có cân 
nặng từ 13.5kg trở lên. 
Nhiều tác giả thừa nhận phẫu thuật tim đập 
giúp làm giảm nguy cơ thiếu máu cơ tim và 
hiện tượng tái tưới máu sau mổ[7, 8].Tuy vậy, 
phương pháp này không được sử dụng rộng rãi 
PHẪU THUẬT NỘI SOI TOÀN BỘ KHÔNG CÓ ROBOT HỖ TRỢ, TIM ĐẬP VÁ THÔNG LIÊN NHĨ Ở TRẺ NHỎ 
 31
do phẫu trường không sạch máu và tim đập liên 
tục trong quá trình mổ gây khó khăn về kỹ 
thuật. Với kinh nghiệm > 120 trường hợp áp 
dụng phẫu thuật tim đập trong điều trị thông 
liên nhĩ, chúng tôi nhận thấy đây là phương 
pháp có nhiều ưu điểm: (1) không can thiệp vào 
gốc ĐMC giúp rút ngắn thời gian phẫu thuật và 
giảm nguy cơ chảy máu sau mổ; (2) chúng tôi 
gặp 2 trường hợp TLN lớn lan tới lỗ xoang 
vành, trong quá trình vá TLN xuất hiện block 
dẫn truyền nhĩ thất hoàn toàn, mũi khâu được 
rút ra và nhịp xoang trở lại sau đó 15-20 phút. 
Hình 3. Kết quả sau mổ NSTB không có robot hỗ trợ, tim đập. 
(A) BN nữ 7 tuổi sau mổ 1 tháng; (B) BN nữ 4 tuổi ngay sau mổ 
và (C) BN nam 27 tháng sau mổ 1 tháng 
Mặc dù không dùng kim hút gốc ĐMC, 
chúng tôi không gặp biến chứng về thần kinh 
do làm đầy liên tục khoang màng tim và màng 
phổi bằng CO2, tốc độ bơm CO2 được bắt đầu 
bằng 0.5 l/phút và được điều chỉnh dựa trên 
theo dõi PaCO2 trong máu liên tục. Krish 
Chaudhuri đã sử dụng nhiều bài kiểm tra đánh 
giá chức năng thần kinh của người bệnh được 
phẫu thuật bằng phương pháp tim đập, làm đầy 
khoang màng tim bằng CO2 nhiều tuần trước và 
sau mổ, kết quả cho thấy không có rối loạn thần 
kinh nào được ghi nhận liên quan tới phương 
pháp phẫu thuật này [9]. 
Thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể ngoại vi 
khó khăn và phẫu trường nhỏ hẹp là 2 sự khác 
biệt chính giữa phẫu thuật tim nội soi ở trẻ nhỏ 
và người trưởng thành. ĐM đùi ở trẻ nhỏ chưa 
trưởng thành, thường có kích thước nhỏ hơn 
chuẩn theo cân nặng và hay có phản xạ co thắt 
dẫn tới áp lực đường ĐM tăng cao ngay sau khi 
đặt cannula và tăng cao dần sau một thời gian 
chạy máy. Tăng áp lực đường ĐM là nguyên 
nhân gây thất bại của phẫu thuật nội soi. Mặt 
khác, việc cố gắng đặt cannula kích thước lớn 
vào một ĐM có kích thước hạn chế sẽ dẫn tới 
tổn thương nội mạc ĐM gây hẹp ĐM đùi và 
chậu ngoài về sau[10]. Theo Cristian Rosu 
(2015), ở những BN trưởng thành có kích thước 
ĐM nhỏ hơn chuẩn theo cân nặng sẽ có hai giải 
pháp: (1) cannula gián tiếp qua đoạn mạch 
Dacron và (2) chuyển từ cannula một bên thành 
hai bên khi áp lực đường ĐM tăng cao[11]. Do 
đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là trẻ nhỏ, 
kích thước ĐM đùi thường nhỏ hơn chuẩn theo 
cân nặng, do đó tất cả BN của chúng tôi đều 
cannula ĐM gián tiếp qua đoạn mạch Dacron số 
6 ngoại trừ 3 trường hợp có cân nặng < 15kg 
(ĐM rất nhỏ) chúng tôi đặt cannula trực tiếp hai 
bên. Nhờ phương pháp này, 6 BN chỉ cần 
cannula qua đoạn mạch Dacron là đủ ổn định áp 
lực đường ĐM. Một nỗi lo lớn khi thiết lập 
A B C 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 17 - THÁNG 8/2017 
 32 
cannula ĐM đùi ở trẻ nhỏ đó là nguy cơ hẹp 
ĐM chậu và ĐM đùi chung ngay sau mổ và về 
lâu dài. Chúng tôi có hai giải pháp cho nguy cơ 
này: (1) sử dụng đoạn mạch Dacron và (2) sử 
dụng cannula ĐM có kích thước nhỏ hơn chuẩn 
theo cân nặng của BN 2-4F. Cho đến thời điểm 
báo cáo, chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp 
nào có biến chứng về hẹp ĐM chậu, đùi. 
Sau 1 năm kinh nghiệm áp dụng phẫu thuật 
NSTB tim đập điều trị TLN với hơn 40 bệnh 
nhân (người lớn và trẻ nhỏ), chúng tôi đã rút 
ngắn được thời gian phẫu thuật và thời gian 
chạy máy xuống còn 1/3. Giai đoạn hậu phẫu 
tương tự so với mổ mở, lượng máu dẫn lưu sau 
mổ trung bình < 60ml trong 24 giờ đầu tiên, 
không BN nào cần truyền máu sau mổ. 
Thông thường với nội soi hỗ trợ, người 
bệnh bị hạn chế vận động tay phải trong nhiều 
tuần đầu sau mổ do đau và co cơ thành ngực. 
Với phương pháp mổ NSTB thông qua các lỗ 
Trocar đường kính từ 5-12mm trên thành ngực 
người bệnh giảm đau sau mổ rất sớm. Chúng tôi 
chỉ cần cho người bệnh sử dụng Morphine trong 
ngày đầu tại phòng hồi sức, những ngày sau tại 
bệnh phòng dùng giảm đau không steroid; trung 
bình ngày thứ 4sau mổ người bệnh không cần 
dùng thuốc giảm đau. BN có thể vận động tay 
phải bình thường sau mổ 1 tuần. 
V. KẾT LUẬN 
Phẫu thuật NSTB không có robot hỗ trợ, tim 
đập là phương pháp an toàn và hiệu quả khi 
thực hiện ở trẻ nhỏ, đồng thời là phương pháp 
hứa hẹn co thể áp dụng trong điều trị nhiều bệnh 
lý TBS khác: thông liên thất, thông sàn nhĩ thất 
bán phần, màng ngăn nhĩ trái 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Van der Linde, D., et al., Birth prevalence of 
congenital heart disease worldwide: a systematic 
review and meta-analysis. J Am Coll Cardiol, 2011. 
58 (21) p. 2241-7. 
2. Jalal, Z., et al., Long-term Complications 
After Transcatheter Atrial Septal Defect 
Closure: A Review of the Medical Literature. 
Can J Cardiol, 2016. 
3. Amin, Z., et al., Erosion of Amplatzer 
septal occluder device after closure of 
secundum atrial septal defects: review of 
registry of complications and recommendations 
to minimize future risk. Catheter Cardiovasc 
Interv, 2004. 63(4): p. 496-502. 
4. Krumsdorf, U., et al., Incidence and 
clinical course of thrombus formation on atrial 
septal defect and patient foramen ovale closure 
devices in 1,000 consecutive patients. J Am Coll 
Cardiol, 2004. 43(2): p. 302-9. 
5. Plass, A., et al., Titanium plate 
osteosynthesis for the correction of severe 
sternal deformity in a 13-year-old boy. Interact 
Cardiovasc Thorac Surg, 2008. 7(5): p. 935-7. 
6. Wang, F., et al., Totally thoracoscopic 
surgical closure of atrial septal defect in small 
children. Ann Thorac Surg, 2011. 92(1): p. 200-3. 
7. Ma, Z.S., et al., Totally thoracoscopic 
closure for atrial septal defect on perfused 
beating hearts. Eur J Cardiothorac Surg, 2012. 
41(6): p. 1316-9. 
8. Mo, A., et al., Efficacy and safety of on-
pump beating heart surgery. Ann Thorac Surg, 
2008. 86(6): p. 1914-8. 
9. Chaudhuri, K., et al., Carbon dioxide 
insufflation in open-chamber cardiac surgery: a 
double-blind, randomized clinical trial of 
neurocognitive effects. J Thorac Cardiovasc Surg, 
2012. 144(3): p. 646-653 e1. 
10. Sagbas, E., et al., Mid-term results of 
peripheric cannulation after port-access 
surgery. Interact Cardiovasc Thorac Surg, 
2007. 6(6): p. 744-7. 
11. Rosu, C., et al., Preoperative vascular 
imaging for predicting intraoperative 
modification of peripheral arterial cannulation 
during minimally invasive mitral valve surgery. 
Innovations (Phila), 2015. 10(1): p. 39-43. 

File đính kèm:

  • pdfphau_thuat_noi_soi_toan_bo_khong_co_robot_ho_tro_tim_dap_va.pdf