Phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị bệnh lý u tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị bệnh lý u tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu 32 bệnh nhân u tuyến ức có kích thước dưới 8cm, không xâm lấn vào các cấu trúc xung quanh được điều trị bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực từ tháng 01/2008 tới 05/2014 về các thông số trước, trong và sau mổ cùng kết quả giải phẫu bệnh. Kết quả: Bao gồm 18 nam và 14 nữ. Tuổi trung bình 50,8 ± 9,3 (14 – 68). Phát hiện bệnh do khám sức khỏe định kỳ 11/ 32 trường hợp (34,4%). Triệu chứng chính khi vào viện là đau ngực là 15/ 21 trường hợp (71,4%). Triệu chứng nhược cơ là 7/ 21 trường hợp (33,3%). Kích thước khối u nhỏ nhất 3,3 x 2,7cm; lớn nhất 10 x 7cm. Thời gian phẫu thuật 124,4 ± 13,5 phút (60-160). Thời gian rút dẫn lưu màng phổi trung bình 2,8 ± 0,5 ngày (2-4). Số ngày nằm viện trung bình 4,2 ± 0,74 ngày (3-8). Không có tử vong và biến chứng nặng sau mổ. Kết quả giải phẫu bệnh u tuyến ức: 08 týp A, 05 týp AB, 12 týp B1, 07 týp B2. Kết luận: Điều trị bệnh lý u tuyến ức bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực là một phương pháp có độ an toàn, có tính khả thi cao, kết quả tốt sau phẫu thuật
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị bệnh lý u tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 28 PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC Phạm Hữu Lư*, Ngô Gia Khánh*, Nguyễn Hữu Ước*, Cao Thị Anh Đào** Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị bệnh lý u tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu 32 bệnh nhân u tuyến ức có kích thước dưới 8cm, không xâm lấn vào các cấu trúc xung quanh được điều trị bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực từ tháng 01/2008 tới 05/2014 về các thông số trước, trong và sau mổ cùng kết quả giải phẫu bệnh. Kết quả: Bao gồm 18 nam và 14 nữ. Tuổi trung bình 50,8 ± 9,3 (14 – 68). Phát hiện bệnh do khám sức khỏe định kỳ 11/ 32 trường hợp (34,4%). Triệu chứng chính khi vào viện là đau ngực là 15/ 21 trường hợp (71,4%). Triệu chứng nhược cơ là 7/ 21 trường hợp (33,3%). Kích thước khối u nhỏ nhất 3,3 x 2,7cm; lớn nhất 10 x 7cm. Thời gian phẫu thuật 124,4 ± 13,5 phút (60-160). Thời gian rút dẫn lưu màng phổi trung bình 2,8 ± 0,5 ngày (2-4). Số ngày nằm viện trung bình 4,2 ± 0,74 ngày (3-8). Không có tử vong và biến chứng nặng sau mổ. Kết quả giải phẫu bệnh u tuyến ức: 08 týp A, 05 týp AB, 12 týp B1, 07 týp B2. Kết luận: Điều trị bệnh lý u tuyến ức bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực là một phương pháp có độ an toàn, có tính khả thi cao, kết quả tốt sau phẫu thuật. Từ khóa: u tuyến ức, phẫu thuật nội soi lồng ngực Video-assisted thoracoscopic surgery approach to thymic tumor at Viet Duc hospital Objective: The study aimed to evaluate the results of video-assisted thoracoscopic surgery in treatment of thymic tumors in Viet Duc Hospital. Methods: The retrospective study, 32 thymic tumors were treated with video-assisted thoracoscopic surgery from 01/ 2008 to 05/ 2014 of the variables before, during and after operation and the pathological results. Results: 18 male and 14 female. Mean age 50,8 ± 9,3 (14 – 68). The main symptom is chest pain on admission 15/ 21 (71, 4%). The largest tumor size 10 x 7cm, the smallest tumor size 3,3 x 2,7cm. Operation time 124,4 ± 13,5 min (60-160). Number of hospital days 4,2 ± 0,7 days (3-8). No mortality and major complications after operation. Pathological results: 08 thymoma type A, 05 thymoma type AB, 12 thymoma type B1, 07 thymoma type B2. Conclusion: Treatment of thymic tumors by video-assisted thoracoscopic surgery is a method of safe and feasible, good results after operation. Keywords: thymic tumor, video – assisted thoracoscopic surgery (VATS) Đặt vấn đề U tuyến ức là loại u thường gặp nhất trong các u trung thất trước, ít có biểu hiện lâm sàng khi u còn nhỏ, điều trị chủ yếu hiện nay vẫn là mổ, đặc biệt là phẫu thuật nội soi lồng ngực. Phẫu thuật nội soi lồng ngực (PTNSLN) đã và đang là một phương pháp điều trị có hiệu quả u trung thất nói chung và u tuyến ức nói riêng [1], [2], [3], [12], [13]. Tại Việt Nam, PTNSLN đang được nhiều trung tâm trong cả nước ứng dụng để điều trị một số bệnh lý như: tràn khí màng phổi tự phát, nốt phổi đơn độc, cắt hạch giao cảm trong bệnh ra mồ hôi tay, bệnh lý u trung thất mà trong đó có u tuyến ức. * Hiện nay, chỉ định điều trị u tuyến ức bằng PTNSLN với các u tuyến ức giai đoạn I, II (theo phân loại của Masaoka) đã được hầu hết các tác giả chấp nhận nhưng với các u ở giai đoạn III, IV thì vẫn còn tranh cãi [4], [7], [12], [13]. Tại khoa Phẫu thuật Tim mạch và lồng ngực – Bệnh viện Việt Đức, chúng tôi đã ứng dụng thành công PTNSLN để điều trị u tuyến ức. Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả PTNSLN điều trị bệnh lý u tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức. * Khoa Phẫu thuật Tim mạch Lồng Ngực - Bệnh viện Việt Đức ** Bộ môn gây mê hồi sức – Trường đại học y Hà Nội Người chịu trách nhiệm khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Ước Ngày nhận bài: 10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 26/10/2014 Phản Biện Khoa học: GS.TS. Đặng Hanh Đệ PGS.TS. Lê Ngọc Thành PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC 29 Đối tượng và phương pháp Đối tượng bao gồm tất cả các bệnh nhân được PTNSLN cắt u tuyến ức tại bệnh viện Việt Đức từ 01/ 2008 đến 05/ 2014. Phương pháp nghiên cứu mô tả hồi cứu, can thiệp trên bệnh nhân không đối chứng. Các tham số nghiên cứu gồm: tuổi, giới, lý do vào viện, kích thước khối u, vị trí khối u, thời gian rút dẫn lưu, biến chứng, kết quả điều trị ... Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 18.0 Lựa chọn đối tượng: Tất cả các trường hợp khối u tuyến ức có kích thước dưới 10cm đo trên CT-Scanner, có kết quả sinh thiết xuyên thành qua hướng dẫn của CT-Scanner cho kết quả lành tính hoặc ung thư giai đoạn đầu chưa phá vỡ lớp vỏ, không có tính chất xâm lấn các tổ chức lân cận trong trung thất. Bệnh nhân không có chống chỉ định can thiệp phẫu thuật nội soi lồng ngực. Qui trình phẫu thuật: - Gây mê bằng ống nội khí quản 1 nòng (có bơm CO2 khoang màng phổi) hoặc 2 nòng (không cần bơm CO2). - Bệnh nhân nằm nghiêng 450 sang bên đối diện. Người mổ đứng phía sau bệnh nhân. Sử dụng dụng cụ nội soi của hãng Karl-Storz. - Đặt trocart kiểu IV (theo Sasaki [10]): Trocar đầu tiên cho camera tại khoang gian sườn VI hoặc VII đường nách trước. Các trocar khác (2 hay 3 trocar) thì tùy theo vị trí của tổn thương u, thường bố trí thống nhất theo nguyên tắc “tam giác mục tiêu” [10], [14] (thường nằm ở khoang gian sườn III và V đường nách sau). Có thể cần thêm đường mở ngực nhỏ (3 – 5cm) nếu u có kích thước trên 8cm hay dính nhiều, xâm lấn vào các thành phần xung quanh khó bóc tách hoàn toàn bằng nội soi. - Phẫu tích và cắt toàn bộ khối u bằng dao điện hoặc dao siêu âm (Harmonic scalpel), nếu mạch cấp máu cho u to thì dùng clip bạc cặp chủ động. Nếu u to thì có thể cắt khối u từng phần. - U được lấy ra khỏi lồng ngực bằng cách cho vào một túi nilon, rút qua lỗ trocar hoặc qua đường rạch da 2 – 3cm mở rộng từ chân lỗ trocar khi u nhỏ. Nếu khối u lớn dùng kéo cắt u từng phần và lấy ra qua đường mở ngực nhỏ. Bệnh phẩm được gửi xét nghiệm giải phẫu bệnh lý. - Cầm máu và kết thúc phẫu thuật. Thường đặt 1 dẫn lưu màng phổi bằng ống silicon 32F hoặc 18F dưới hướng dẫn của camera, làm nở phổi trước khi rút trocar và đóng ngực. Chăm sóc và theo dõi sau phẫu thuật: Theo dõi các biến chứng sau phẫu thuật (chảy máu, tràn khí màng phổi, xẹp phổi), chụp x-quang kiểm tra và rút dẫn lưu, thu thập kết quả giải phẫu bệnh. Kết quả Trong số 32 bệnh nhân nghiên cứu, có 18 nam và 14 nữ. Tuổi trung bình 50,8 ± 9,3 (14 – 68). Bảng 1: Dấu hiệu lâm sàng của bệnh nhân khi vào viện Dấu hiệu lâm sàng n = 32 % Không có (phát hiện tình cờ) 11 34,4 Tức ngực hoặc đau ngực 15 71,4 Mệt mỏi, sụp mi 7 33,3 Nói khàn tiếng 1 4,8 Nuốt nghẹn, hoặc nuốt khó 2 9,5 Khó thở 7 33,3 Có dấu hiệu trên lâm sàng Ho hoặc ho + sốt 8 38,1 Nhận xét: Trong số các bệnh nhân có triệu chứng khi đến viện thì đau ngực là triệu chứng hay gặp chiếm 15/ 21 trường hợp (71, 4%), tuy nhiên có 34, 4% phát hiện bệnh khi khám sức khỏe định kỳ. PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 30 Bảng 2: Các thông số khác liên quan đến chẩn đoán, phẫu thuật, hậu phẫu Thông số Kết quả Kích thước U trên phim cắt lớp vi tính ngực (cm) Nhỏ nhất 3,3x2,7cm; Lớn nhất 10x7cm Gây mê bằng ống nội khí quản 2 nòng (Carlens) 32 (100%) Cần kết hợp bơm CO2 khoang màng phổi áp lực 5mmHg (đặt ống 2 nòng chưa hiệu quả) 4 (12,5%) Thời gian mổ trung bình (phút) 124,4 ± 13,5 phút (60-160) Thời gian rút dẫn lưu sau mổ trung bình (ngày) 2,8 ± 0,5 ngày (2 – 4) Thời gian nằm viện sau mổ trung bình (ngày) 4,2 ± 0,7 ngày (3-8) Nhận xét: Tất cả các trường hợp đều được cắt toàn bộ khối u và đều được gây mê bằng ống nội khí quản hai nòng (Carlens) nhưng có 04 trường hợp không đạt được xẹp phổi hoàn toàn cần bơm CO2 hỗ trợ. Có 01 trường hợp mở đường mở ngực nhỏ 5cm do khối u to và dính nhiều. Thông thường dẫn lưu màng phổi được rút sau mổ 2 – 3 ngày. Những trường hợp u tuyến ức có kèm theo triệu chứng nhược cơ thường có thời gian nằm viện dài ngày hơn do bệnh nhân cần điều trị nội khoa sau mổ. Bảng 3: Kết quả giải phẫu bệnh Vi thể n % Thymoma tuýp A 8 25 Thymoma tuýp AB 5 15,63 Thymoma tuýp B1 12 37,5 Thymoma tuýp B2 7 21,87 Tổng 32 100 Trong nghiên cứu chưa gặp biến chứng nặng nào xảy ra sau mổ có liên quan tới kỹ thuật nội soi. Chỉ có 1 ca chảy máu chân dẫn lưu màng phổi, được xử trí khâu tăng cường chân dẫn lưu tại giường. Đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân với kết quả mổ nội soi cho thấy: 28/ 32 bệnh nhân (87,5%) rất hài lòng và 4/ 32 bệnh nhân (11,5%) hài lòng với phẫu thuật nội soi chủ yếu liên quan đến 2 ưu điểm là ít đau sau mổ và sẹo mổ thẩm mỹ. Kết quả khám lại sau mổ trung bình là: 28, 9 ± 20,9 tháng (ngắn nhất là 2 tháng, dài nhất là 81 tháng): Có 01 bệnh nhân thymoma typA kèm nhược cơ đã chết sau mổ 01 năm do bệnh lý nhược cơ nặng, còn các bệnh nhân khác cho kết quả tốt: bệnh nhân không có tái phát u trên x-quang và cắt lớp vi tính. Bàn luận Vấn đề chỉ định của PTNSLN trong điều trị bệnh lý u tuyến ức: Chỉ định của PTNSLN điều trị u tuyến ức dựa vào kích thước, mối liên quan với các tạng xung quanh và giai đoạn u (bảng 4). PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC 31 Bảng 4: Phân chia u tuyến ức theo Masaoka và theo tổ chức y tế thế giới (WHO) [15] Phân chia theo Masaoka Phân chia theo WHO I Khối u có vỏ rõ, có thể có hiện tượng xâm lấn nhưng chưa vượt quá lớp vỏ trên vi thể Týp A (tế bào hình thoi, thể tủy) II Týp AB (hỗn hợp) IIa Vi thể u xâm lấn qua lớp vỏ Týp B IIb Đại thể xâm lấn qua lớp vỏ hoặc tổ chức mỡ cạnh tuyến ức hoặc dính vào màng phổi hoặc màng tim nhưng chưa vượt qua màng này. - B1(giàu lympho bào phần lớn ở vỏ) III Đại thể xâm lấn tới các cơ quan lân cận (màng tim, mạch máu lớn, phổi) - B2 (thể vỏ) IV - B3 (ung thư biểu mô tuyến ức biệt hóa rõ, biểu mô) IVa U thâm nhiễm ra màng phổi hoặc màng tim Giai đoạn IVb U di căn theo đường bạch huyết hoặc máu Týp C (ung thư biểu mô tuyến ức) Theo hầu hết các tác giả đã chấp nhận PTNSLN thực hiện tốt với các khối u tuyến ức ở giai đoạn I, II nhưng với khối u ở giai đoạn III, IV thì còn nhiều bàn cãi. Mặt khác, kích thước khối u tuyến ức chỉ định mổ nội soi cũng không giống nhau giữa các tác giả như: Thirugnanam Agasthian (Singapore) đã tiến hành PTNSLN với những u tuyến ức có đường kính không quá 5cm [4]. Theo Akihiko Kitami và cs thì phẫu thuật nội soi có thể thực hiện với các trường hợp u tuyến ức có kích thước không quá 10 cm đường kính [1] Yếu tố chỉ định trước mổ có tính chất tương đối vì mức độ thành công của phẫu thuật còn phụ thuộc vào tổn thương thực tế trong mổ, kinh nghiệm của bác sỹ mổ, trang thiết bị dụng cụ hỗ trợ. Bên cạnh đó, tính chất xâm lấn trên phim chụp cắt lớp vi tính cũng được đặt ra khi chỉ định là bờ khối u rõ, gọn; không có tính chất xâm lấn vào tổ chức lân cận u. Trong những trường hợp khối u dính nhiều vào tổ chức xung quanh thì nên mở ngực tối thiểu để đảm bảo cho cuộc mổ được tiến hành an toàn [6], [8], [18]. Trong nghiên cứu của chúng tôi: khối u to nhất được lấy bỏ bằng phẫu thuật nội soi có kích thước 10x7cm (u tuyến ức týp B1), trong quá trình mổ đã phải làm thêm đường mở ngực tối thiểu (5cm) giúp cho thao tác kỹ thuật an toàn và lấy khối u ra được dễ dàng. Kết quả sinh thiết u qua hướng dẫn của cắt lớp vi tính cũng là một yếu tố quan trọng trong chỉ định mổ nội soi. Hầu hết các trường hợp (20/ 32) u tuyến ức có chỉ định PTNSLN và chưa có biểu hiện xâm lấm trên phim chụp CT – Scanner được sinh thiết xuyên thành qua hướng dẫn của CT trước mổ để có chẩn đoán chính xác thương tổn, từ đó có biện pháp điều trị thích hợp với mỗi loại tổn thương ví dụ điều trị hóa chất nếu là u lympho hoặc mổ nếu là u tuyến ức chưa xâm lấn qua lớp vỏ u... Giá trị của phương pháp này nhằm xác định rõ trước mổ giai đoạn u và định tuýp u tuyến ức cũng như phân biệt với u lympho [16], [17]. Tuy nhiên, khi khối u tuyến ức nhỏ, gần các vị trí nguy hiểm như rốn phổi, quai động mạch chủ, timthì nên PTNSLN chẩn đoán trong mổ [17]. Như vậy, phân tích kết quả chẩn đoán hình ảnh (chụp cắt lớp vi tính) và giải phẫu bệnh trước mổ là hai yếu tố quan trọng để chỉ định áp dụng phương pháp PTNSLN điều trị u tuyến ức. Khả năng thực hiện và kết quả PTNSLN điều trị u tuyến ức: Một yếu tố gây ảnh hưởng đến khả năng áp dụng mổ nội soi đối với u tuyến ức là việc đa số các bệnh nhân đều được phát hiện bệnh khá muộn, u đã tương đối to và xâm lấn nhiều ra xung quanh. Các tài liệu PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 32 kinh điển [3] đã xếp u trung thất vào nhóm bệnh không có triệu chứng đặc hiệu và dấu hiệu cơ năng gợi ý nhất để bệnh nhân đi khám bệnh là tức hay đau ngực. Các nhận định này phù hợp với kết quả nghiên cứu khi có 71,4% có dấu hiệu tức hay đau ngực và 34,4% phát hiện bệnh một cách tình cờ nhờ chụp x quang ngực khi khám sức khỏe định kỳ (bảng 1). Trong tương lai với sự phát triển của hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu tốt, hy vọng có thể mổ bệnh nhân với khối u có kích thước nhỏ hơn, khi đó mổ nội soi sẽ mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh. Đặc biệt là các trường hợp u tuyến ức phát triển chưa vượt quá lớp vỏ. Với những u tuyến ức giai đoạn I, II mổ nội soi cho phép lấy hết tổ chức u với nhiều ưu điểm hơn hẳn so với mổ mở kinh điển [5][12]. Một khi chỉ định đúng thì PTNSLN có thể thực hiện được. Việc đặt trocar trong mổ phụ thuộc vào vị trí của khối u trong trung thất, Dựa trên nguyên tắc “cấu trúc kim tự tháp” của Landreneau và cộng sự [14], Sasaki và cs (Nhật Bản) đã đưa ra nguyên tắc “tam giác mục tiêu” để đặt trocar nhằm tạo không gian làm việc tốt nhất cho các thao tác mổ [10]. Điều này đã được kiểm chứng trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi: tất cả các bệnh nhân áp dụng đặt trocart kiểu IV theo Sasaki [10], diễn biến thuận lợi trong mổ, không có tai biến trong mổ, lấy toàn bộ u, chỉ có 1 trường hợp do khối u lớn, dính nhiều vào các tổ chức xung quanh phải mở ngực 5cm có dùng nội soi hỗ trợ. Theo một số tác giả khuyến cáo với những khối u có kích thước lớn thì sẽ rất khó khăn và dễ xảy ra tai biến nên sử dụng đường mở ngực nhỏ hỗ trợ trong mổ [7][8][18]. Thực tế mổ nội soi ở các trường hợp u trung thất và cụ thể là u tuyến ức chúng tôi thấy rằng: vấn đề đặt trocar nên lấy nguyên tắc “tam giác mục tiêu” làm căn bản, tùy từng trường hợp cụ thể mà có cách bố trí trocart hợp lý nhằm giúp phẫu thuật dễ dàng hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng nếu bệnh nhân được gây mê bằng ống Carlens sẽ tạo cho một trường mổ rộng rãi để tiến hành các thao tác mổ. Tuy nhiên nếu dùng ống nội khí quản một nòng và kết hợp bơm khí CO2 với áp lực dưới 5 mmHg mà không làm ảnh hưởng tới huyết động và các thông số hô hấp trong và sau mổ [9], [11], thì vẫn có thể thực hiện các thao tác nội soi. Chúng tôi gặp 4 bệnh nhân đặt Carlens thất bại như kết quả ở bảng 2 do hầu hết là đặt ống nội khí quản hai nòng “mù” không có soi dẫn đường nên cần bơm CO2 hỗ trợ làm xẹp phổi, cuộc mổ diễn biến thuận lợi. Phân bố các dạng tổn thương giải phẫu bệnh u tuyến ức được cắt bỏ bằng mổ nội soi (bảng 3) cho thấy sự phù hợp với kết quả chẩn đoán hình ảnh cũng như chỉ định mổ, và cũng tương tự như trong nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về PTNSLN. Kết quả khám lại với thời gian trung bình là 28, 9 ± 20,9 tháng (ngắn nhất là 2 tháng, dài nhất là 81 tháng): Đặc biệt với nhóm bệnh nhân u tuyến ức týp B (20 trường hợp) trong đó có 07 trường hợp thymoma B2 chưa có tái phát u khi khám lại. Và 12 trường hợp thymoma tuýpB1 không có tái phát u sau mổ. Với nhóm bệnh nhân có nhược cơ trước mổ (7 bệnh nhân) có 1 trường hợp tử vong do nhược cơ tiến triển không đáp ứng điều trị, còn 6 trường hợp khác tiến triển tốt (không phải dùng thuốc 3, giảm liều thuốc 2, không thay đổi 1). Kết luận PTNSLN là một hướng đi rất tốt trong điều trị triệt để bệnh lý u tuyến ức. Kích thước, tính chất và độ xâm lấn u là các tiêu chí quan trọng để chọn lựa bệnh nhân. Ít đau sau mổ, thời gian nằm viện ngắn và sẹo mổ thẩm mỹ là các ưu điểm cơ bản của phương pháp này. Có thể áp dụng thường qui kỹ thuật này trong mổ lồng ngực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Akihiko Kitami, Takashi Suzuki, Ryosuke Usuda, Mikio Masuda, and Shuichi Suzuki (2004), “Diagnostic and Therapeutic Thoracoscopy for Mediastinal Disease”, Ann Thorac Cardiovasc Surg 10: 14–8 2. Alberto de Hoyos, Amit Patel, Ricardo S. Santos, and Rodney J. Landreneau (2005), "Video – assisted thoracic surgery for mediastinal tumors and other diseases within the mediastinum", General Thoracic Surg; 2: 2455 – 2476 3. Beau V. Duwe, Daniel H. Sterman and Ali I. Musani (2005), “Tumors of the Mediastinum”, Chest 128; 2893-2909 PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC 33 4. Thirugnanam Agasthian (2011). “Can invasive thymomas be resected by video-assisted thoracoscopic surgery?”. Asian Cardiovascular & Thoracic Annals; 19(314): 225 – 227 5. Yuan ZY, Cheng GY, Sun KL, Mao YS, Li J, Wang YG, Wang DL, Gao SG, Xue Q, Huang JF, Mu JW (2014), “Comparative study of video-assisted thoracic surgery versus open thymectomy for thymoma in one single center”, J Thorac Dis; 6(6): 726 - 733 6. Mai Văn Viện (2010), “Ứng dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị u trung thất tại bệnh viện 103”, Y học TP Hồ Chí Minh 14(4): 529 – 535 7. Anthony. P. C Yim (1995), “Video-assisted thoracoscopic management of anterior mediastinal masses. Preliminary experience and results”, Surg Endosc 9(11): 1184 – 1148 8. Phạm Hữu Lư, Nguyễn Công Hựu, Lê Ngọc Thành và cs (2007), “Kết quả bước đầu điều trị bệnh lý u trung thất bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực tại bệnh viện Việt Đức”, Ngoại khoa; 5: 39- 43 9. Ian D. Conacher (2002), “Anaesthesia for thoracoscopic surgery”, Best Practice & Research Clinical Anaesthesiology; 16(1): 53 – 62 10. Masato Sasaki, Seiya Hirai, Masakazu Kawabe, Takahiko Uesaka, Kouichi Morioka, Akio Ihaya, Kuniyoshi Tanaka (2005), “Triagle target principle for the placement of trocars during video – assisted thoracic surgery”, European Journal of Cardio – Thoracic Surgery; 27: 307 – 312 11. Robert James Cerfolio, Ayesha S. Bryant, Todd M. Sheils, Cynthia S. Bass, Alfred A. Bartolucci (2004), "Video – assisted thoracoscopic surgery using single – lumen endotracheal tube anesthesia", Chest; 126: 281 – 285 12. Ye B, Tantai JC, Ge XX, Li W, Feng J, Cheng M, Shi JX, Zhao H (2014), “Surgical techniques for early-stage thymoma: video-assisted thoracoscopic thymectomy versus transsternal thymectomy”, J Thorac Cardiovasc Surg; 147(5): 1599 – 1603 13. Yu-Jen Cheng; Eing-Long Kao; and Shah- Hwa Chou (2005). “Videothoracoscopic Resection of Stage II Thymoma”. Chest; 128: 3010 – 3012 14. Landreneau RJ, Mack MJ, Hezelrigg SR, Dowling RD, Acuff TE, Magee MJ, Ferson PF (1992). “Video-assisted thoracic surgery: basic technical concepts and intercostal approach strategies”. Ann Thorac Surg; 54: 800 – 807. 15. Frank W. Sellke; Pedro J. del Nido; Scott J. Swanson (2005), “Thymic tumors”, Sabiston & Spencer’s Surgery of the Chest 8th Edition; Elsevier & Saunders: 640 – 647 16. Nguyễn Thanh Hồi (2014). “Kỹ thuật sinh thiết cắt xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính”. U trung thất. Nhà xuất bản y học: 103 – 126 17. Virginia PÐrez Duenas, Isabel Torres S¸nchez, Francisco GarcÝa RÝo, Emilio Valbuena Dur¸n, Blanca Vicandi Plaza, Jose MarÝa Viguer GarcÝa-Moreno (2010). “Usefulness CT-guided F.N.A.C in the Diagnosis of Mediastinal Lesions”. Arch Bronconeumol; 46(5): 223 – 229 18. Trần Minh Bảo Luân (2007), “Nghiên cứu chỉ định điều trị u trung thất bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực”, Y học TP Hồ Chí Minh 11(1): 364 – 371
File đính kèm:
phau_thuat_noi_soi_long_nguc_dieu_tri_benh_ly_u_tuyen_uc_tai.pdf

