Phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị bệnh lý u tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức

Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị bệnh lý u tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu 32 bệnh nhân u tuyến ức có kích thước dưới 8cm, không xâm lấn vào các cấu trúc xung quanh được điều trị bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực từ tháng 01/2008 tới 05/2014 về các thông số trước, trong và sau mổ cùng kết quả giải phẫu bệnh. Kết quả: Bao gồm 18 nam và 14 nữ. Tuổi trung bình 50,8 ± 9,3 (14 – 68). Phát hiện bệnh do khám sức khỏe định kỳ 11/ 32 trường hợp (34,4%). Triệu chứng chính khi vào viện là đau ngực là 15/ 21 trường hợp (71,4%). Triệu chứng nhược cơ là 7/ 21 trường hợp (33,3%). Kích thước khối u nhỏ nhất 3,3 x 2,7cm; lớn nhất 10 x 7cm. Thời gian phẫu thuật 124,4 ± 13,5 phút (60-160). Thời gian rút dẫn lưu màng phổi trung bình 2,8 ± 0,5 ngày (2-4). Số ngày nằm viện trung bình 4,2 ± 0,74 ngày (3-8). Không có tử vong và biến chứng nặng sau mổ. Kết quả giải phẫu bệnh u tuyến ức: 08 týp A, 05 týp AB, 12 týp B1, 07 týp B2. Kết luận: Điều trị bệnh lý u tuyến ức bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực là một phương pháp có độ an toàn, có tính khả thi cao, kết quả tốt sau phẫu thuật

pdf 6 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị bệnh lý u tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị bệnh lý u tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức

Phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị bệnh lý u tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 
 28
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC 
TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC 
Phạm Hữu Lư*, Ngô Gia Khánh*, Nguyễn Hữu Ước*, Cao Thị Anh Đào** 
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả 
phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị bệnh lý u tuyến 
ức tại Bệnh viện Việt Đức. Phương pháp: Nghiên 
cứu mô tả hồi cứu 32 bệnh nhân u tuyến ức có kích 
thước dưới 8cm, không xâm lấn vào các cấu trúc 
xung quanh được điều trị bằng phẫu thuật nội soi 
lồng ngực từ tháng 01/2008 tới 05/2014 về các thông 
số trước, trong và sau mổ cùng kết quả giải phẫu 
bệnh. Kết quả: Bao gồm 18 nam và 14 nữ. Tuổi 
trung bình 50,8 ± 9,3 (14 – 68). Phát hiện bệnh do 
khám sức khỏe định kỳ 11/ 32 trường hợp (34,4%). 
Triệu chứng chính khi vào viện là đau ngực là 15/ 21 
trường hợp (71,4%). Triệu chứng nhược cơ là 7/ 21 
trường hợp (33,3%). Kích thước khối u nhỏ nhất 3,3 
x 2,7cm; lớn nhất 10 x 7cm. Thời gian phẫu thuật 
124,4 ± 13,5 phút (60-160). Thời gian rút dẫn lưu 
màng phổi trung bình 2,8 ± 0,5 ngày (2-4). Số ngày 
nằm viện trung bình 4,2 ± 0,74 ngày (3-8). Không có 
tử vong và biến chứng nặng sau mổ. Kết quả giải 
phẫu bệnh u tuyến ức: 08 týp A, 05 týp AB, 12 týp 
B1, 07 týp B2. Kết luận: Điều trị bệnh lý u tuyến ức 
bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực là một phương 
pháp có độ an toàn, có tính khả thi cao, kết quả tốt 
sau phẫu thuật. 
Từ khóa: u tuyến ức, phẫu thuật nội soi lồng ngực 
Video-assisted thoracoscopic surgery approach to 
thymic tumor at Viet Duc hospital 
Objective: The study aimed to evaluate the results 
of video-assisted thoracoscopic surgery in treatment 
of thymic tumors in Viet Duc Hospital. Methods: The 
retrospective study, 32 thymic tumors were treated 
with video-assisted thoracoscopic surgery from 01/ 
2008 to 05/ 2014 of the variables before, during and 
after operation and the pathological results. Results: 
18 male and 14 female. Mean age 50,8 ± 9,3 (14 – 
68). The main symptom is chest pain on admission 15/ 
21 (71, 4%). The largest tumor size 10 x 7cm, the 
smallest tumor size 3,3 x 2,7cm. Operation time 124,4 
± 13,5 min (60-160). Number of hospital days 4,2 ± 
0,7 days (3-8). No mortality and major complications 
after operation. Pathological results: 08 thymoma type 
A, 05 thymoma type AB, 12 thymoma type B1, 07 
thymoma type B2. Conclusion: Treatment of thymic 
tumors by video-assisted thoracoscopic surgery is a 
method of safe and feasible, good results after 
operation. 
Keywords: thymic tumor, video – assisted 
thoracoscopic surgery (VATS) 
Đặt vấn đề 
U tuyến ức là loại u thường gặp nhất trong các u 
trung thất trước, ít có biểu hiện lâm sàng khi u còn 
nhỏ, điều trị chủ yếu hiện nay vẫn là mổ, đặc biệt là 
phẫu thuật nội soi lồng ngực. Phẫu thuật nội soi lồng 
ngực (PTNSLN) đã và đang là một phương pháp điều 
trị có hiệu quả u trung thất nói chung và u tuyến ức 
nói riêng [1], [2], [3], [12], [13]. Tại Việt Nam, 
PTNSLN đang được nhiều trung tâm trong cả nước 
ứng dụng để điều trị một số bệnh lý như: tràn khí 
màng phổi tự phát, nốt phổi đơn độc, cắt hạch giao 
cảm trong bệnh ra mồ hôi tay, bệnh lý u trung thất mà 
trong đó có u tuyến ức. * 
Hiện nay, chỉ định điều trị u tuyến ức bằng 
PTNSLN với các u tuyến ức giai đoạn I, II (theo phân 
loại của Masaoka) đã được hầu hết các tác giả chấp 
nhận nhưng với các u ở giai đoạn III, IV thì vẫn còn 
tranh cãi [4], [7], [12], [13]. 
Tại khoa Phẫu thuật Tim mạch và lồng ngực – 
Bệnh viện Việt Đức, chúng tôi đã ứng dụng thành 
công PTNSLN để điều trị u tuyến ức. Nghiên cứu 
nhằm đánh giá kết quả PTNSLN điều trị bệnh lý u 
tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức. 
* Khoa Phẫu thuật Tim mạch Lồng Ngực - Bệnh viện Việt Đức 
** Bộ môn gây mê hồi sức – Trường đại học y Hà Nội 
Người chịu trách nhiệm khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Ước 
Ngày nhận bài: 10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 26/10/2014 
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Đặng Hanh Đệ 
 PGS.TS. Lê Ngọc Thành 
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC 
 29
Đối tượng và phương pháp 
Đối tượng bao gồm tất cả các bệnh nhân được 
PTNSLN cắt u tuyến ức tại bệnh viện Việt Đức từ 01/ 
2008 đến 05/ 2014. Phương pháp nghiên cứu mô tả 
hồi cứu, can thiệp trên bệnh nhân không đối chứng. 
Các tham số nghiên cứu gồm: tuổi, giới, lý do vào 
viện, kích thước khối u, vị trí khối u, thời gian rút dẫn 
lưu, biến chứng, kết quả điều trị ... Số liệu được nhập 
và xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 18.0 
Lựa chọn đối tượng: 
Tất cả các trường hợp khối u tuyến ức có kích 
thước dưới 10cm đo trên CT-Scanner, có kết quả sinh 
thiết xuyên thành qua hướng dẫn của CT-Scanner cho 
kết quả lành tính hoặc ung thư giai đoạn đầu chưa phá 
vỡ lớp vỏ, không có tính chất xâm lấn các tổ chức lân 
cận trong trung thất. Bệnh nhân không có chống chỉ 
định can thiệp phẫu thuật nội soi lồng ngực. 
Qui trình phẫu thuật: 
- Gây mê bằng ống nội khí quản 1 nòng (có bơm 
CO2 khoang màng phổi) hoặc 2 nòng (không cần 
bơm CO2). 
- Bệnh nhân nằm nghiêng 450 sang bên đối diện. 
Người mổ đứng phía sau bệnh nhân. Sử dụng dụng cụ 
nội soi của hãng Karl-Storz. 
- Đặt trocart kiểu IV (theo Sasaki [10]): Trocar 
đầu tiên cho camera tại khoang gian sườn VI hoặc VII 
đường nách trước. Các trocar khác (2 hay 3 trocar) thì 
tùy theo vị trí của tổn thương u, thường bố trí thống 
nhất theo nguyên tắc “tam giác mục tiêu” [10], [14] 
(thường nằm ở khoang gian sườn III và V đường nách 
sau). Có thể cần thêm đường mở ngực nhỏ (3 – 5cm) 
nếu u có kích thước trên 8cm hay dính nhiều, xâm lấn 
vào các thành phần xung quanh khó bóc tách hoàn 
toàn bằng nội soi. 
- Phẫu tích và cắt toàn bộ khối u bằng dao điện 
hoặc dao siêu âm (Harmonic scalpel), nếu mạch cấp 
máu cho u to thì dùng clip bạc cặp chủ động. Nếu u to 
thì có thể cắt khối u từng phần. 
- U được lấy ra khỏi lồng ngực bằng cách cho vào 
một túi nilon, rút qua lỗ trocar hoặc qua đường rạch da 
2 – 3cm mở rộng từ chân lỗ trocar khi u nhỏ. Nếu khối 
u lớn dùng kéo cắt u từng phần và lấy ra qua đường 
mở ngực nhỏ. Bệnh phẩm được gửi xét nghiệm giải 
phẫu bệnh lý. 
- Cầm máu và kết thúc phẫu thuật. Thường đặt 1 
dẫn lưu màng phổi bằng ống silicon 32F hoặc 18F 
dưới hướng dẫn của camera, làm nở phổi trước khi rút 
trocar và đóng ngực. 
Chăm sóc và theo dõi sau phẫu thuật: 
Theo dõi các biến chứng sau phẫu thuật (chảy 
máu, tràn khí màng phổi, xẹp phổi), chụp x-quang 
kiểm tra và rút dẫn lưu, thu thập kết quả giải phẫu 
bệnh. 
Kết quả 
Trong số 32 bệnh nhân nghiên cứu, có 18 nam và 14 nữ. Tuổi trung bình 50,8 ± 9,3 (14 – 68). 
Bảng 1: Dấu hiệu lâm sàng của bệnh nhân khi vào viện 
Dấu hiệu lâm sàng n = 32 % 
Không có (phát hiện tình cờ) 11 34,4 
Tức ngực hoặc đau ngực 15 71,4 
Mệt mỏi, sụp mi 7 33,3 
Nói khàn tiếng 1 4,8 
Nuốt nghẹn, hoặc nuốt khó 2 9,5 
Khó thở 7 33,3 
Có dấu hiệu trên lâm 
sàng 
Ho hoặc ho + sốt 8 38,1 
Nhận xét: Trong số các bệnh nhân có triệu chứng khi đến viện thì đau ngực là triệu chứng hay gặp 
chiếm 15/ 21 trường hợp (71, 4%), tuy nhiên có 34, 4% phát hiện bệnh khi khám sức khỏe định kỳ. 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 
 30
Bảng 2: Các thông số khác liên quan đến chẩn đoán, phẫu thuật, hậu phẫu 
Thông số Kết quả 
Kích thước U trên phim cắt lớp vi tính ngực (cm) Nhỏ nhất 3,3x2,7cm; 
Lớn nhất 10x7cm 
Gây mê bằng ống nội khí quản 2 nòng (Carlens) 32 (100%) 
Cần kết hợp bơm CO2 khoang màng phổi áp lực 5mmHg (đặt ống 2 nòng 
chưa hiệu quả) 4 (12,5%) 
Thời gian mổ trung bình (phút) 124,4 ± 13,5 phút (60-160) 
Thời gian rút dẫn lưu sau mổ trung bình (ngày) 2,8 ± 0,5 ngày (2 – 4) 
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình (ngày) 4,2 ± 0,7 ngày (3-8) 
Nhận xét: Tất cả các trường hợp đều được cắt toàn bộ khối u và đều được gây mê bằng ống nội khí quản 
hai nòng (Carlens) nhưng có 04 trường hợp không đạt được xẹp phổi hoàn toàn cần bơm CO2 hỗ trợ. Có 01 
trường hợp mở đường mở ngực nhỏ 5cm do khối u to và dính nhiều. Thông thường dẫn lưu màng phổi được rút 
sau mổ 2 – 3 ngày. Những trường hợp u tuyến ức có kèm theo triệu chứng nhược cơ thường có thời gian nằm 
viện dài ngày hơn do bệnh nhân cần điều trị nội khoa sau mổ. 
Bảng 3: Kết quả giải phẫu bệnh 
Vi thể n % 
Thymoma tuýp A 8 25 
Thymoma tuýp AB 5 15,63 
Thymoma tuýp B1 12 37,5 
Thymoma tuýp B2 7 21,87 
Tổng 32 100 
Trong nghiên cứu chưa gặp biến chứng nặng nào xảy ra sau mổ có liên quan tới kỹ thuật nội soi. 
Chỉ có 1 ca chảy máu chân dẫn lưu màng phổi, được xử trí khâu tăng cường chân dẫn lưu tại giường. Đánh 
giá mức độ hài lòng của bệnh nhân với kết quả mổ nội soi cho thấy: 28/ 32 bệnh nhân (87,5%) rất hài lòng 
và 4/ 32 bệnh nhân (11,5%) hài lòng với phẫu thuật nội soi chủ yếu liên quan đến 2 ưu điểm là ít đau sau 
mổ và sẹo mổ thẩm mỹ. 
Kết quả khám lại sau mổ trung bình là: 28, 9 ± 20,9 tháng (ngắn nhất là 2 tháng, dài nhất là 81 tháng): 
Có 01 bệnh nhân thymoma typA kèm nhược cơ đã chết sau mổ 01 năm do bệnh lý nhược cơ nặng, còn các bệnh 
nhân khác cho kết quả tốt: bệnh nhân không có tái phát u trên x-quang và cắt lớp vi tính. 
Bàn luận 
Vấn đề chỉ định của PTNSLN trong điều trị bệnh lý u tuyến ức: 
Chỉ định của PTNSLN điều trị u tuyến ức dựa vào kích thước, mối liên quan với các tạng xung quanh 
và giai đoạn u (bảng 4). 
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC 
 31
Bảng 4: Phân chia u tuyến ức theo Masaoka và theo tổ chức y tế thế giới (WHO) [15] 
Phân chia theo Masaoka Phân chia theo WHO 
I Khối u có vỏ rõ, có thể có hiện tượng xâm lấn 
nhưng chưa vượt quá lớp vỏ trên vi thể 
Týp A (tế bào hình thoi, thể tủy) 
II Týp AB (hỗn hợp) 
IIa Vi thể u xâm lấn qua lớp vỏ Týp B 
IIb Đại thể xâm lấn qua lớp vỏ hoặc tổ chức mỡ cạnh 
tuyến ức hoặc dính vào màng phổi hoặc màng tim 
nhưng chưa vượt qua màng này. 
- B1(giàu lympho bào phần lớn ở 
vỏ) 
III Đại thể xâm lấn tới các cơ quan lân cận (màng tim, 
mạch máu lớn, phổi) 
- B2 (thể vỏ) 
IV - B3 (ung thư biểu mô tuyến ức 
biệt hóa rõ, biểu mô) 
IVa U thâm nhiễm ra màng phổi hoặc màng tim 
Giai 
đoạn 
IVb U di căn theo đường bạch huyết hoặc máu 
Týp C (ung thư biểu mô tuyến ức) 
Theo hầu hết các tác giả đã chấp nhận PTNSLN 
thực hiện tốt với các khối u tuyến ức ở giai đoạn I, II 
nhưng với khối u ở giai đoạn III, IV thì còn nhiều bàn 
cãi. Mặt khác, kích thước khối u tuyến ức chỉ định mổ 
nội soi cũng không giống nhau giữa các tác giả như: 
Thirugnanam Agasthian (Singapore) đã tiến hành 
PTNSLN với những u tuyến ức có đường kính không 
quá 5cm [4]. Theo Akihiko Kitami và cs thì phẫu 
thuật nội soi có thể thực hiện với các trường hợp u 
tuyến ức có kích thước không quá 10 cm đường kính 
[1] Yếu tố chỉ định trước mổ có tính chất tương đối 
vì mức độ thành công của phẫu thuật còn phụ thuộc 
vào tổn thương thực tế trong mổ, kinh nghiệm của bác 
sỹ mổ, trang thiết bị dụng cụ hỗ trợ. Bên cạnh đó, tính 
chất xâm lấn trên phim chụp cắt lớp vi tính cũng được 
đặt ra khi chỉ định là bờ khối u rõ, gọn; không có tính 
chất xâm lấn vào tổ chức lân cận u. Trong những 
trường hợp khối u dính nhiều vào tổ chức xung quanh 
thì nên mở ngực tối thiểu để đảm bảo cho cuộc mổ 
được tiến hành an toàn [6], [8], [18]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi: khối u to nhất 
được lấy bỏ bằng phẫu thuật nội soi có kích thước 
10x7cm (u tuyến ức týp B1), trong quá trình mổ đã 
phải làm thêm đường mở ngực tối thiểu (5cm) giúp cho 
thao tác kỹ thuật an toàn và lấy khối u ra được dễ dàng. 
Kết quả sinh thiết u qua hướng dẫn của cắt lớp vi 
tính cũng là một yếu tố quan trọng trong chỉ định mổ 
nội soi. Hầu hết các trường hợp (20/ 32) u tuyến ức có 
chỉ định PTNSLN và chưa có biểu hiện xâm lấm trên 
phim chụp CT – Scanner được sinh thiết xuyên thành 
qua hướng dẫn của CT trước mổ để có chẩn đoán 
chính xác thương tổn, từ đó có biện pháp điều trị thích 
hợp với mỗi loại tổn thương ví dụ điều trị hóa chất 
nếu là u lympho hoặc mổ nếu là u tuyến ức chưa xâm 
lấn qua lớp vỏ u... Giá trị của phương pháp này nhằm 
xác định rõ trước mổ giai đoạn u và định tuýp u tuyến 
ức cũng như phân biệt với u lympho [16], [17]. Tuy 
nhiên, khi khối u tuyến ức nhỏ, gần các vị trí nguy 
hiểm như rốn phổi, quai động mạch chủ, timthì nên 
PTNSLN chẩn đoán trong mổ [17]. Như vậy, phân 
tích kết quả chẩn đoán hình ảnh (chụp cắt lớp vi tính) 
và giải phẫu bệnh trước mổ là hai yếu tố quan trọng để 
chỉ định áp dụng phương pháp PTNSLN điều trị u 
tuyến ức. 
Khả năng thực hiện và kết quả PTNSLN điều trị 
u tuyến ức: 
Một yếu tố gây ảnh hưởng đến khả năng áp dụng 
mổ nội soi đối với u tuyến ức là việc đa số các bệnh 
nhân đều được phát hiện bệnh khá muộn, u đã tương 
đối to và xâm lấn nhiều ra xung quanh. Các tài liệu 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 
 32
kinh điển [3] đã xếp u trung thất vào nhóm bệnh 
không có triệu chứng đặc hiệu và dấu hiệu cơ năng 
gợi ý nhất để bệnh nhân đi khám bệnh là tức hay đau 
ngực. Các nhận định này phù hợp với kết quả nghiên 
cứu khi có 71,4% có dấu hiệu tức hay đau ngực và 
34,4% phát hiện bệnh một cách tình cờ nhờ chụp x 
quang ngực khi khám sức khỏe định kỳ (bảng 1). 
Trong tương lai với sự phát triển của hệ thống chăm 
sóc sức khỏe ban đầu tốt, hy vọng có thể mổ bệnh 
nhân với khối u có kích thước nhỏ hơn, khi đó mổ nội 
soi sẽ mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh. Đặc biệt 
là các trường hợp u tuyến ức phát triển chưa vượt quá 
lớp vỏ. Với những u tuyến ức giai đoạn I, II mổ nội 
soi cho phép lấy hết tổ chức u với nhiều ưu điểm hơn 
hẳn so với mổ mở kinh điển [5][12]. 
Một khi chỉ định đúng thì PTNSLN có thể thực 
hiện được. Việc đặt trocar trong mổ phụ thuộc vào vị 
trí của khối u trong trung thất, Dựa trên nguyên tắc 
“cấu trúc kim tự tháp” của Landreneau và cộng sự 
[14], Sasaki và cs (Nhật Bản) đã đưa ra nguyên tắc 
“tam giác mục tiêu” để đặt trocar nhằm tạo không 
gian làm việc tốt nhất cho các thao tác mổ [10]. Điều 
này đã được kiểm chứng trong nhóm nghiên cứu của 
chúng tôi: tất cả các bệnh nhân áp dụng đặt trocart 
kiểu IV theo Sasaki [10], diễn biến thuận lợi trong 
mổ, không có tai biến trong mổ, lấy toàn bộ u, chỉ có 
1 trường hợp do khối u lớn, dính nhiều vào các tổ 
chức xung quanh phải mở ngực 5cm có dùng nội soi 
hỗ trợ. Theo một số tác giả khuyến cáo với những 
khối u có kích thước lớn thì sẽ rất khó khăn và dễ xảy 
ra tai biến nên sử dụng đường mở ngực nhỏ hỗ trợ 
trong mổ [7][8][18]. Thực tế mổ nội soi ở các trường 
hợp u trung thất và cụ thể là u tuyến ức chúng tôi thấy 
rằng: vấn đề đặt trocar nên lấy nguyên tắc “tam giác 
mục tiêu” làm căn bản, tùy từng trường hợp cụ thể mà 
có cách bố trí trocart hợp lý nhằm giúp phẫu thuật dễ 
dàng hơn. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng nếu 
bệnh nhân được gây mê bằng ống Carlens sẽ tạo cho 
một trường mổ rộng rãi để tiến hành các thao tác mổ. 
Tuy nhiên nếu dùng ống nội khí quản một nòng và kết 
hợp bơm khí CO2 với áp lực dưới 5 mmHg mà không 
làm ảnh hưởng tới huyết động và các thông số hô hấp 
trong và sau mổ [9], [11], thì vẫn có thể thực hiện các 
thao tác nội soi. Chúng tôi gặp 4 bệnh nhân đặt 
Carlens thất bại như kết quả ở bảng 2 do hầu hết là đặt 
ống nội khí quản hai nòng “mù” không có soi dẫn 
đường nên cần bơm CO2 hỗ trợ làm xẹp phổi, cuộc 
mổ diễn biến thuận lợi. 
Phân bố các dạng tổn thương giải phẫu bệnh u 
tuyến ức được cắt bỏ bằng mổ nội soi (bảng 3) cho 
thấy sự phù hợp với kết quả chẩn đoán hình ảnh cũng 
như chỉ định mổ, và cũng tương tự như trong nghiên 
cứu của các tác giả nước ngoài về PTNSLN. 
Kết quả khám lại với thời gian trung bình là 28, 9 
± 20,9 tháng (ngắn nhất là 2 tháng, dài nhất là 81 
tháng): Đặc biệt với nhóm bệnh nhân u tuyến ức týp B 
(20 trường hợp) trong đó có 07 trường hợp thymoma 
B2 chưa có tái phát u khi khám lại. Và 12 trường hợp 
thymoma tuýpB1 không có tái phát u sau mổ. Với 
nhóm bệnh nhân có nhược cơ trước mổ (7 bệnh nhân) 
có 1 trường hợp tử vong do nhược cơ tiến triển không 
đáp ứng điều trị, còn 6 trường hợp khác tiến triển tốt 
(không phải dùng thuốc 3, giảm liều thuốc 2, không 
thay đổi 1). 
Kết luận 
PTNSLN là một hướng đi rất tốt trong điều trị triệt 
để bệnh lý u tuyến ức. Kích thước, tính chất và độ 
xâm lấn u là các tiêu chí quan trọng để chọn lựa bệnh 
nhân. Ít đau sau mổ, thời gian nằm viện ngắn và sẹo 
mổ thẩm mỹ là các ưu điểm cơ bản của phương pháp 
này. Có thể áp dụng thường qui kỹ thuật này trong mổ 
lồng ngực. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Akihiko Kitami, Takashi Suzuki, Ryosuke 
Usuda, Mikio Masuda, and Shuichi Suzuki 
(2004), “Diagnostic and Therapeutic 
Thoracoscopy for Mediastinal Disease”, Ann 
Thorac Cardiovasc Surg 10: 14–8 
2. Alberto de Hoyos, Amit Patel, Ricardo S. 
Santos, and Rodney J. Landreneau (2005), 
"Video – assisted thoracic surgery for 
mediastinal tumors and other diseases within 
the mediastinum", General Thoracic Surg; 2: 
2455 – 2476 
3. Beau V. Duwe, Daniel H. Sterman and Ali I. 
Musani (2005), “Tumors of the Mediastinum”, 
Chest 128; 2893-2909 
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC 
 33
4. Thirugnanam Agasthian (2011). “Can invasive 
thymomas be resected by video-assisted 
thoracoscopic surgery?”. Asian Cardiovascular 
& Thoracic Annals; 19(314): 225 – 227 
5. Yuan ZY, Cheng GY, Sun KL, Mao YS, Li J, 
Wang YG, Wang DL, Gao SG, Xue Q, Huang 
JF, Mu JW (2014), “Comparative study of 
video-assisted thoracic surgery versus open 
thymectomy for thymoma in one single center”, 
J Thorac Dis; 6(6): 726 - 733 
6. Mai Văn Viện (2010), “Ứng dụng phẫu thuật 
nội soi lồng ngực điều trị u trung thất tại bệnh 
viện 103”, Y học TP Hồ Chí Minh 14(4): 529 – 
535 
7. Anthony. P. C Yim (1995), “Video-assisted 
thoracoscopic management of anterior 
mediastinal masses. Preliminary experience and 
results”, Surg Endosc 9(11): 1184 – 1148 
8. Phạm Hữu Lư, Nguyễn Công Hựu, Lê Ngọc 
Thành và cs (2007), “Kết quả bước đầu điều trị 
bệnh lý u trung thất bằng phẫu thuật nội soi 
lồng ngực tại bệnh viện Việt Đức”, Ngoại khoa; 
5: 39- 43 
9. Ian D. Conacher (2002), “Anaesthesia for 
thoracoscopic surgery”, Best Practice & Research 
Clinical Anaesthesiology; 16(1): 53 – 62 
10. Masato Sasaki, Seiya Hirai, Masakazu 
Kawabe, Takahiko Uesaka, Kouichi Morioka, 
Akio Ihaya, Kuniyoshi Tanaka (2005), 
“Triagle target principle for the placement of 
trocars during video – assisted thoracic surgery”, 
European Journal of Cardio – Thoracic Surgery; 
27: 307 – 312 
11. Robert James Cerfolio, Ayesha S. Bryant, 
 Todd M. Sheils, Cynthia S. Bass, Alfred A. 
Bartolucci (2004), "Video – 
assisted thoracoscopic surgery using single – 
lumen endotracheal tube anesthesia", Chest; 126: 
281 – 285 
12. Ye B, Tantai JC, Ge XX, Li W, Feng J, Cheng 
M, Shi JX, Zhao H (2014), “Surgical techniques 
for early-stage thymoma: video-assisted 
thoracoscopic thymectomy versus transsternal 
thymectomy”, J Thorac Cardiovasc Surg; 
147(5): 1599 – 1603 
13. Yu-Jen Cheng; Eing-Long Kao; and Shah-
Hwa Chou (2005). “Videothoracoscopic 
Resection of Stage II Thymoma”. Chest; 128: 
3010 – 3012 
14. Landreneau RJ, Mack MJ, Hezelrigg SR, 
Dowling RD, Acuff TE, Magee MJ, Ferson PF 
(1992). “Video-assisted thoracic surgery: basic 
technical concepts and intercostal approach 
strategies”. Ann Thorac Surg; 54: 800 – 807. 
15. Frank W. Sellke; Pedro J. del Nido; Scott J. 
Swanson (2005), “Thymic tumors”, Sabiston & 
Spencer’s Surgery of the Chest 8th Edition; 
Elsevier & Saunders: 640 – 647 
16. Nguyễn Thanh Hồi (2014). “Kỹ thuật sinh thiết 
cắt xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của chụp 
cắt lớp vi tính”. U trung thất. Nhà xuất bản y 
học: 103 – 126 
17. Virginia PÐrez Duenas, Isabel Torres 
S¸nchez, Francisco GarcÝa RÝo, Emilio 
Valbuena Dur¸n, Blanca Vicandi Plaza, Jose 
MarÝa Viguer GarcÝa-Moreno (2010). 
“Usefulness CT-guided F.N.A.C in the 
Diagnosis of Mediastinal Lesions”. Arch 
Bronconeumol; 46(5): 223 – 229 
18. Trần Minh Bảo Luân (2007), “Nghiên cứu 
chỉ định điều trị u trung thất bằng phẫu thuật 
nội soi lồng ngực”, Y học TP Hồ Chí Minh 
11(1): 364 – 371 

File đính kèm:

  • pdfphau_thuat_noi_soi_long_nguc_dieu_tri_benh_ly_u_tuyen_uc_tai.pdf