Phẫu thuật nắn trật đường trước trong chấn thương cột sống cổ trật cài diện khớp
Thiết kế nghiên cứu. Đây là nghiên cứu phân tích hồi cứu trên nhóm bệnh nhân
được theo dõi liên tục.
Mục tiêu. Đánh giá hiệu quả lâm sàng của kỹ thuật giải ép, nắn trật, hàn xương
cột sống cổ đường trước trong điều trị chấn thương cột sống cổ thấp trật cài diện
khớp (TCDK).
Tổng quan. Phẫu thuật cố định cột sống đường trước cho chấn thương mất vững
cột sống cổ đang dần trở nên phổ biến. Tuy nhiên, phương pháp nắn trật vẫn còn
rất nhiều tranh cãi.
Phương pháp. Mưới bốn bệnh nhân bị chấn thương cột sống cổ thấp TCDK được
đưa vào nghiên cứu từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 10 năm 2015. Trong đó có
9 bệnh nhân nam, 5 bệnh nhân nữ, với tuổi trung bình là 42.3 (từ 21 đến 73 tuổi).
Kỹ thuật mổ nắn trật đường trước được thực hiện cho tất cả các bệnh nhân. Chúng
tôi đã tiến hành ghép xương tự thân lấy từ xương mào chậu của người bệnh và nẹp
vít cố định cột sống cổ trước. Bệnh nhân được đánh giá kết quả điều trị dựa vào
các yếu tố: 1) tỷ lệ nắn trật thành công và độ liền xương làm vững cột sống; 2) Tỷ
lệ biến chứng, kết quả lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật nắn trật đường trước trong chấn thương cột sống cổ trật cài diện khớp
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 54 Đỗ Mạnh Hùng, Nguyễn Lê Bảo Tiến, Đinh Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Thạch. Khoa Phẫu thuật cột sống, Viện Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Việt Đức Do Manh Hung, Nguyen Le Bao Tien, Dinh Ngoc Son, Nguyen Van Thach PHẪU THUẬT NẮN TRẬT ĐƯỜNG TRƯỚC TRONG CHẤN THƯƠNG CỘT SỐNG CỔ TRẬT CÀI DIỆN KHỚP TÓM TẮT Thiết kế nghiên cứu. Đây là nghiên cứu phân tích hồi cứu trên nhóm bệnh nhân được theo dõi liên tục. Mục tiêu. Đánh giá hiệu quả lâm sàng của kỹ thuật giải ép, nắn trật, hàn xương cột sống cổ đường trước trong điều trị chấn thương cột sống cổ thấp trật cài diện khớp (TCDK). Tổng quan. Phẫu thuật cố định cột sống đường trước cho chấn thương mất vững cột sống cổ đang dần trở nên phổ biến. Tuy nhiên, phương pháp nắn trật vẫn còn rất nhiều tranh cãi. Phương pháp. Mưới bốn bệnh nhân bị chấn thương cột sống cổ thấp TCDK được đưa vào nghiên cứu từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 10 năm 2015. Trong đó có 9 bệnh nhân nam, 5 bệnh nhân nữ, với tuổi trung bình là 42.3 (từ 21 đến 73 tuổi). Kỹ thuật mổ nắn trật đường trước được thực hiện cho tất cả các bệnh nhân. Chúng tôi đã tiến hành ghép xương tự thân lấy từ xương mào chậu của người bệnh và nẹp vít cố định cột sống cổ trước. Bệnh nhân được đánh giá kết quả điều trị dựa vào các yếu tố: 1) tỷ lệ nắn trật thành công và độ liền xương làm vững cột sống; 2) Tỷ lệ biến chứng, kết quả lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh. Kết quả. Hai trong số mười bốn bệnh nhân (14.2%) đã thất bại trong phẫu thuật nắn trật đường trước đơn thuần. Nguyên nhân là do tổn thương gãy cuống sống dẫn đến khối bên xoay ngang trong quá trình nắn trật. Tất cả bệnh nhân nghiên cứu đã được hàn xương thành công trong suốt quá trình theo dõi. Chúng tôi không ghi nhận bất cứ trường hợp nào trật tái phát hoặc tổn thương tủy sống thứ phát sau nắn. Triệu chứng thần kinh của bệnh nhân đã cải thiện có ý nghĩa sau mổ. Kết luận. Phẫu thuật cột sống cổ đường trước, giải ép, nắn trật, hàn xương làm vững cột sống là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị chấn thương cột sống cổ thấp TCDK. ABSTRACT Study design. Retrospective analysis of a prospectively followed cohort Objective. To discuss the clinical efficacy of anterior cervical surgery of decompression, reduction, stabilization and fusion in treating subaxial cervical facet dislocation. Summary of Background Data. Anterior stabilization of unstable cervical spine injuries is gaining popularity. However, the method of reduction is controversial. Methods. Fourteen consecutive patients with unstable dislocation of the subaxial cervical spine were included from October 2013 to October 2015. There were 9 males and 5 females, with a mean age of 42.3 years (from 21 to 73 yr). An anterior open reduction was performed for all patients. Tricortical iliac crest autograft and Phần 1: Phẫu thuật cột sống 55 anterior plating was used. Patients were assessed for: 1) rate of successful reduction and stabilization using only the anterior surgical approach; 2) complications and long-term clinical and radiologic outcome. Results. Two of fourteen (14.2%) anterior open reductions failed. These patients had associated pedicle fractures with horizontal rotation of the lateral masses. All grafts had healed successfully at the most recent follow-up visit. No redislocation or symptoms of spinal cord injury occurred. Significant neurologic improvement was observed. Conclusions. Anterior cervical surgery of decompression, reduction, stabilization, and fusion is an effective and safe method for treatment of subaxial cervical facet dislocation. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong chấn thương cột sống cổ thấp, trật cài diện khớp (TCDK) là một chấn thương mất vững cột sống nghiêm trọng và thường dẫn đến tổn thương tủy sống. Nguyên nhân gây TCDK là do chấn thương quá cúi cột sống cổ, dẫn đến một hoặc cả hai diện khớp dưới của đốt sống phía trên bị trật ra sau và phủ lên diện khớp trên của đốt sống phía dưới. Hậu quả của loại chấn thương này là ống sống bị thu hẹp lại, tủy sống bị chèn ép, gây tổn thương thần kinh, có thể dẫn đến liệt tủy hoàn toàn và tử vong. Mặc dù TCDK không phải là một tổn thương thường gặp trong chấn thương cột sống cổ, chỉ chiếm khoảng 5 - 10%, tuy nhiên hậu quả của nó lại vô cùng nghiêm trọng. Khoảng 37% trường hợp TCDK một bên và hơn 90% trường hợp TCDK hai bên được chẩn đoán là tổn thương tủy sống khi nhập viện (1, 12). Mục tiêu chính của phẫu thuật điều trị TCDK là nắn trật, làm vững cột sống, duy trì sự thẳng hàng và giải phóng chèn ép thần kinh. Tuy nhiên, chiến lược nắn TCDK thường rất khác nhau và còn nhiều tranh cãi, bao gồm phẫu thuật đường trước đơn thuần, đường sau đơn thuần, đường trước - sau, đường sau - trước, hoặc trước - sau - trước. Với mỗi cách tiếp cận phẫu thuật khác nhau đòi hỏi mức độ phức tạp khác nhau, thời gian phẫu thuật cũng khác nhau và từ đó ảnh hưởng đến kết quả điều trị trên một nhóm bệnh nhân vốn rất mong manh. Trong các cách phẫu thuật nêu trên, phẫu thuật lối trước đơn thuần với lấy bỏ đĩa đệm, nắn trật mở, và đặt dụng cụ hàn xương được khuyến cáo hơn cả, đặc biệt với những trường hợp kèm theo thoát vị đĩa đệm do chấn thương nhưng không gây tổn thương tủy sống. Tác giả đã thực hiện phẫu thuật lối trước đơn thuật để nắn TCDK cho 14 bệnh nhân. Mục tiêu của bài báo này là đánh giá hiệu quả của phương pháp nắn trật lối trước đơn thuần. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đây là một nghiên cứu phân tích hồi cứu trên nhóm bệnh nhân được theo dõi liên tục, thực hiện trong 2 năm, từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 10 năm 2015. Các bệnh nhân được theo dõi ít nhất 6 tháng theo mẫu bệnh án nghiên cứu thống nhất. Chỉ những bệnh nhân bị chấn thương cột sống cổ có TCDK một hoặc hai bên, có hoặc không có tổn thương thần kinh kèm theo mới được đưa vào nghiên cứu. Chúng tôi loại trừ những trường hợp TCDK do nguyên nhân khác như: tổn thương ung thư, nhiễm trùng, viêm cột sống dính khớp... Tất cả các bệnh nhân đều được chụp phim XQ thẳng nghiêng lúc nhập viện để phát hiện TCDK và chụp phim CT scanner cột sống trước mổ. Phẫu thuật: Bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm ngửa với cổ hơi gấp để dễ dàng hơn khi nắn chỉnh trật cột sống, gây mê đường nội khí quản thông thường. Tác giả bộc lộ cột sống cổ theo đường vào Smith-Robinson. Với kỹ thuật mổ nắn TCDK đường trước (hình 1), điều đầu tiên là phải lấy bỏ toàn bộ đĩa tổn thương. Tiếp đó, chúng tôi đặt hệ thống giãn đốt sống Caspar với hai đinh cố định vào thân đốt sống trật phía trên và đốt sống trật phía dưới. Các đinh này được đặt theo hướng hội tụ nhằm tăng cường độ gù cột sống khi giãn hệ thống Caspar. Lúc này, hai diện khớp trật cài sẽ tách rời và dễ dàng hơn cho việc nắn TCDK. Nếu thất bại trong việc tách rời điện khớp, chúng tôi sử dụng dụng cụ giãn nẹp cổ, đặt ở vị trí sâu nhất của đĩa đệm vừa lấy bỏ, từ từ giãn hai thân đốt sống để tách rời hai diện khớp. Khi bờ TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 56 dưới của khớp trật phía trên vừa chạm tới đỉnh bờ trên khớp trật phía dưới, phẫu thuật viên sẽ tăng cường lực ấn lên đốt sống phía trên từ trước ra sau để nắn TCDK. Kết quả nắn trật thành công, chúng tôi hàn xương vùng đĩa đệm lấy bỏ bằng mảnh xương chậu tự thân của bệnh nhân và cố định cột sống cổ bằng nẹp cổ trước với bốn vít cố định. Cuối cùng, ổ mổ được đặt hệ thống dẫn lưu liên tục và đóng cân cơ theo các lớp giải phẫu. Hình 1. Kỹ thuật nắn trật cài diện khớp đường trước (11) A. Đặt đinh Caspar theo hướng hội tụ B. Giãn caspar và giãn 2 thân đốt sống C. Tăng cường lực ấn lên đốt sống trên D. Cố định nẹp cổ trước Bệnh nhân khi nhập viện được khai thác về cơ chế chấn thương, thời gian phẫu thuật, mức độ tổn thương thần kinh theo phân loại Frankel. Tất cả đối tượng nghiên cứu đều được phẫu thuật nắn TCDK đường trước đơn thuần, cố định cột sống và ghép xương chậu tự thân. Sau phẫu thuật, người bệnh được chỉ định đeo nẹp cổ cứng bên ngoài trong vòng 6 tuần. Các biến chứng sau mổ được ghi nhận là: các rối loạn thông khí phổi, tim mạch, nhiễm trùng, tổn thương thần kinh, di lệch dụng cụ cố định, mảnh xương ghép hoặc khớp giả. Bệnh nhân được theo dõi phim XQ nghiêng sau mổ cúi - ưỡn cứ sau 1 tháng, 3 tháng, và 6 tháng. Phim XQ này được sử dụng để đánh giá sự liền xương của mảnh ghép, sự di lệch dụng cụ cố định. Với bệnh nhân được cố định liền xương thành công, trên phim XQ nghiêng cúi - ưỡn không có di động của đơn vị cột sống cố định, dụng cụ cố định không di lệch, mảnh ghép ít thay đổi vị trí so với bề mặt thân đốt sống. KẾT QUẢ Mười bốn bệnh nhân đã được phẫu thuật nắn TCDK đường trước đơn thuần. Hầu hết tổn thương là TCDK C5-C6, C6-C7 (bảng 1). Trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi không có bệnh nhân nào bị TCDK từ hai tầng trở lên. Thời gian phẫu thuật trung bình sau chấn thương là 1.5 ngày (1 - 3 ngày). Thời gian mổ trung bình là 141.4 phút. Thời gian theo dõi sau mổ trung bình của bệnh nhân là 7.5 tháng (6 – 12 tháng). Hai bệnh nhân nắn trật không thành công và không được phẫu thuật đường sau tiếp theo (hình 2). Phần 1: Phẫu thuật cột sống 57 Tuổi trung bình của bệnh nhân là 42.3 tuổi, trong đó có 9 bệnh nhân nam và 5 bệnh nhân nữ. Tình trạng tổn thương thần kinh của bệnh nhân từ mức độ không liệt tủy cho đến liệt tủy hoàn toàn dựa trên phân độ Frankel (bảng 1). Trong 14 trường hợp TCDK có 8 bệnh nhân TCDK 1 bên và 6 bệnh nhân TCDK 2 bên. Có hai bệnh nhân liệt tủy hoàn toàn trước mổ và tử vong sau mổ, nguyên nhân được cho là suy hô hấp. Không có bệnh nhân nào bị các biến chứng liên quan đến phẫu thuật như khó nuốt, khó nói, nhiễm trùng ổ mổ. Sáu bệnh nhân có cải thiện triệu chứng thần kinh sau mổ ít nhất một độ (bảng 1). Có bốn bệnh nhân liệt tủy hoàn toàn trước mổ và không có bất cứ cải thiện thần kinh nào sau mổ, và trong dó có hai bệnh nhân tử vong. Trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi, không có bất cứ bệnh nhân nào bị di lệch dụng cụ cố định, không liền xương, miếng ghép di lệch. Trên phim XQ nghiêng sau mổ cúi - ưỡn, không ghi nhận bất cứ trường hợp nào có chuyển động tại đơn vị hàn xương. Bảng 1. Thông tin của bệnh nhân nghiên cứu Số BN Tuổi Giới Tẩng tổn thương TCDK 1 bên/ 2 bên Thời gian được mổ (ngày) Thời gian mổ (phút) Frankel trước mổ Frankel sau mổ 6 tháng 1 29 Nam C5-C6 1 1 120 E E 2 53 Nữ C6-C7 1 1 150 B D 3 37 Nam C4-C5 1 2 140 A A 4 34 Nam C6-C7 2 2 180 C E 5 46 Nam C6-C7 1 3 110 B C 6 73 Nam C5-C6 1 1 160 A Tử vong 7 38 Nữ C7-T1 2 1 120 E E 8 65 Nam C5-C6 2 1 120 C D 9 40 Nam C6-C7 2 2 190 A Tử vong 10 48 Nữ C4-C5 1 1 120 B C 11 35 Nữ C5-C6 2 2 150 A A 12 24 Nam C5-C6 1 3 140 E E 13 50 Nữ C6-C7 2 1 130 B B 14 21 Nam C6-C7 1 1 150 C E TB 42.3 1.5 141.4 BÀN LUẬN Trong chấn thương cột sống cổ, chiến lược điều trị cho bệnh nhân phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau như: tình trạng tổn thương thần kinh, mức độ tổn thương giải phẫu, lứa tuổi của người bệnh và các tổn thương phối hợp... Hiện nay, phương pháp điều trị tối ưu cho TCDK trong chấn thương cột sống cổ thấp còn rất nhiều tranh cãi. Đặc biệt với các tổn thương giải phẫu như: diện khớp bị khóa chặt, đĩa đệm gian đốt sống bị tổn thương, sự bong vặn và mắc kẹt của sụn tiếp hợp, hệ thống dây chằng dọc trước, dọc sau, dây chằng vàng, tất cả đã tạo nên một thách thức vô cùng lớn trong quá trình nắn TCDK, mà vẫn bảo vệ tủy sống không bị tổn thương thêm. Do đó, hiện nay vẫn chưa có một chiến lược điều trị quy chuẩn chung cho mọi bệnh nhân TCDK cột sống cổ. Các quyết định kỹ thuật nắn trật thường phụ thuộc TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 58 vào kinh nghiệm cá nhân của từng phẫu thuật viên như: nắn trật kín bằng khung kéo sọ dưới gây mê thông thường, phẫu thuật mổ mở nắn trật với nẹp vít cố định bên trong (phẫu thuật đường trước, phẫu thuật đường sau, trước - sau, trước - sau - trước, sau - trước). Một số tác giả ủng hộ việc tiền mê nắn trật kín sớm nhằm làm giảm sự hẹp ống sống và cải thiện chức năng của các rễ thần kinh (6). Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng trong quá trình nắn trật kín, các rễ thần kinh sẽ tăng nguy cơ bị tổn thương do mảnh vỡ đĩa đệm di trú sẽ chèn ép vào thần kinh. Điều này càng trở nên nghiêm trọng với những bệnh nhân không có bất cứ thiếu hụt thần kinh nào sau tai nạn. Do đó, một số tác giả lại khuyến cáo nên kiểm tra tủy sống trước mổ bằng chụp MRI, đặc biệt với những bệnh nhân bị TCDK hai bên. Lý do là khi dây chằng dọc sau bị xé đứt, các mảnh vớ đĩa đệm có xu hướng chèn ép vào tủy sống. Hơn thế nữa, với TCDK hai bên thường gây tổn thương phần mềm nặng nề. Rizzolo và cộng sự (13) đã thông báo khoảng 40% trường hợp tổn thương đĩa đệm với bệnh nhân bị chấn thương cột sống cổ tư thế cúi, và tỷ lệ này tăng lên tới 80% với bệnh nhân bị TCDK hai bên. Một khi đĩa đệm gian đốt sống bị tổn thương, có sự liên quan có ý nghĩa với rối loạn chức năng của tủy sống và rễ thần kinh. Do đó, khi có bằng chứng của sự chèn ép tủy sống từ phía trước, các tác giả thường khuyến cáo nên phẫu thuật giải ép, lấy toàn bộ đĩa đệm thoát vị đường trước trước khi nắn trật, để tránh nguy cơ chèn ép tủy thứ phát do phẫu thuật viên gây nên. Với TCDK, để nắn trật thành công thì bờ dưới diện khớp của đốt sống trật phía trên phải nằm trên đỉnh của bờ trên diện khớp đốt sống trật phía dưới. Tuy nhiên, nếu lực kéo của quá trình nắn trật kín quá mạnh sẽ kích thích vào tủy sống, động mạch đốt sống và dẫn đến tổn thương thần kinh, đặc biệt với những trường hợp TCDK hai bên. Thêm vào đó, chấn thương cột sống cổ cấp tính có thể gây tổn hại các cấu trúc tạo sức căng cho cột sống (dây chằng dọc trước, dọc sau, bao xơ đĩa đệm, dây chằng vàng, sụn tiếp hợp). Do đó, việc nắn trật kín bằng khung kéo sọ có thể gây tổn thương nặng thêm cho tủy sống. Shapiro đã thông báo 50% trường hợp bị vỡ diện khớp sau nắn trật kín trên phim CT scanner, như là một biến chứng của quá trình nắn trật (15). Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác cũng chỉ ra kết quả điều trị tốt của kỹ thuật nắn trật hàn xương đường cổ sau. Những nghiên cơ sinh học đã chứng minh được điểm mạnh của cấu hình cố định lối sau là ngăn chặn được lực cúi - ưỡn, xoay bên của cột sống, dễ nắn trật do tiếp cận trực tiếp với diện khớp cài nhau, dễ khôi phục lại sức căng cho cột sống. Tuy nhiên cấu hình này cũng có những nhược điểm như: Không lấy được mảnh đĩa đệm thoát vị phía trước, dẫn đến nguy cơ tổn thương thần kinh sau nắn trật, phải cố định nhiều đơn vị cột sống, làm cứng cột sống, vần đề kinh tế tốn kém nhiều hơn khi so sánh với cố định một tầng cột sống đường trước đơn thuần. Thêm vào đó, bệnh nhân cũng có thể gặp các tai biến do bắt vít cột sổng cổ lối sau đem lại (4). Xuất phát từ những lý do nêu trên, cấu hình cố định cột sống cổ lối trước đơn thuần cho TCDK đang ngày càng trở nên phổ biến, nhờ kết quả nắn trật tốt và giảm tỷ lệ các biến chứng liên quan (2, 3). Cũng vì vậy, chúng tôi đã sử dụng phẫu thuật đường trước đơn thuần, sử dụng đinh Caspar đặt hội tụ và dụng cụ giãn nẹp để nắn trật cho tất cả 14 bệnh nhân. Trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi có 2 trường hợp (14.2%) nắn trật đường trước không hoàn toàn thành công. Nguyên nhân của thất bại này là do bệnh nhân có tổn thương vỡ cuống sống một bên phối hợp, dẫn đến khối bên của đốt sống trên bị xoay ngang trong quá trình nắn trật, mắc kẹt ở giữa 2 đốt sống như Levine và cộng sự đã miêu tả (10) (hình 2). Với dạng tổn thương này đòi hỏi phải cố định cả đốt sống phía trên và đốt sống phía dười kèm theo (3 đơn vị đốt sống). Trong tình huống này, phẫu thuật cố định cột sống cổ đường sau được chỉ định, tuy nhiên do tình trạng tổn thương thần kinh của bệnh nhân, hoàn cảnh kinh tế và mong muốn của gia đình người bệnh nên phẫu thuật lối sau đã không được tiến hành. Tỷ lệ liền xương cao và di lệch dụng cụ thấp trong cố định cột sống cổ lối trước đã được công bố trong nhiều nghiên cứu, bao gồm cả kết quả của tác giả. Việc ứng dụng dụng cụ cố định hiện đại đã đóng một phần vai trò trong thành công này, tuy nhiên kỹ thuật mổ chuẩn xác mới là bản chất của vấn đề. Không giống như kỹ thuật hàn xương được thực hiện cho bệnh lý thoái hóa đĩa đệm, khoảng trống đĩa đệm không nên được “nhồi” bởi một miếng xương ghép quá dầy. Điều này có thể làm tách rời diện khớp mới nắn trật, làm mất ưỡn cột sống, dẫn đến mất vững và có thể làm thất bị trong cấu hình cố định cột sống. Trong nghiên cứu của chúng tôi không có bệnh nhân nào bị tổn thương thần kinh nặng lên sau mổ như là biến chứng của qúa trình phẫu thuật, biểu hiện bằng sự giảm độ Frankel. Đặc biệt là với những trường hợp Frankel E, không bệnh nhân nào bị giảm độ sau mổ. Ngoài ra, 6 bệnh nhân được cải thiện ít nhât 1 độ sau phẫu thuật, điều này phần nào phản ánh hiệu quả an toàn Phần 1: Phẫu thuật cột sống 59 của phương pháp nắn trật. Có 2 bệnh nhân liệt tủy hoàn toàn, Frankel A, bị tử vong sau mổ, nguyên nhân được cho là suy hô hấp. Với những bệnh nhân bị liệt tủy hoàn toàn do chán thương cột sống cổ, việc chỉ định phẫu thuật vẫn luôn là một quyết định nặng nề. Bởi vì dù cho chúng ta làm tất cả mọi thứ có thể, bệnh nhân vẫn có nguy cơ tử vong do mức độ trầm trọng của tổn thương tủy sống gây nên. Hình 2. Trật cài diện khớp C6-C7 kèm theo vỡ cuống sống C6, làm khối bên xoay ngang, ngăn chặn nắn trật đường trước KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phẫu thuật mổ mở nắn trật đường trước đơn thuần là an toàn và hiệu quả với bệnh nhân bị chấn thương cột sống cổ TCDK (tỷ lệ thành công 85.8%). Với bệnh nhân nghi ngờ có thoát vị đĩa đệm kèm theo trên phim MRI, cần phải lấy bỏ tất cả mảnh đĩa đệm thoát vị trước khi nắn trật để bảo đảm an toàn cho tủy sống. Trong trường hợp TCDK có kèm theo vỡ cuống sống, nên chỉ định nắn trật và cố định cột sống cổ đường sau. Tài liệu tham khảo 1. Andreshak J, Dekutoski M. Management of unilateral facet dislocations: a review of the literature. Orthopedics 1997; 20: 917 - 26 . 2. Aebi M, Mohler J, Zach GA, et al. Indication, surgical technique, and results of 100 surgically-treated fractures and fracture-dislocations of the cervical spine. Clin Orthop 1986; 203: 244 –57. 3. Blauth M, Schmidt U, Dienst M, et al. Long-term outcome of 57 patients after ventral interbody spondylodesis of the lower cervical spine. Unfallchirurg 1996; 99: 925–39. 4. Do Koh Y, Lim TH, Won You J, et al. A biomechanical comparison of modern anterior and posterior plate fixation of the cervical spine. Spine 2001; 26: 15-21. 5. Ganjun Feng, Ying Hong, et al. Anterior decompression and nonstructural bone grafting and posterior fixation for cervical facet dislocation with traumatic dics hernation. Spine 2012; 37: 2082-2088. 6. Grant G, Mirza SK, Chapman JR, et al. Risk of early closed reduction in cervical spine subluxation injuries. J Neurosurg Spine 1999; 90 (1 suppl): 13 – 8. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 60 7. Đỗ Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Thạch, Nguyễn Lê Bảo Tiến. Ứng dụng nguyên lý “chìa khóa - ổ khóa” trong điều trị chấn thương cột sống cổ trật cài thân đốt sống C6-7: báo cáo nhân một trường hợp và nhìn lại y văn. Tạp chí Chấn thương chỉnh hình Việt Nam 2014; Số đặc biệt: 36-44. 8. Jefferson R. Wilson, Alexander Vaccaro, et al. The impact of facet dislocation on clinical outcomes after cervical spinal cord injury. Spine 2013; 38: 97-103. 9. Trịnh Đình Lợi, Nguyễn Đình Tùng. Kết quả bước đầu của phẫu thuật nắn chỉnh và làm cứng lối trước trong điều trị gãy trật cột sống cổ thấp. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh 2014; tập 18, số 6: 63-67. 10. Levine AM, Mazel C, Roy-Camille R. Management of fracture separations of the articular mass using posterior cervical plating. Spine 1992; 17(suppl 10): 447-54. 11. Max C. Lee, Daniee H. Kim. Subaxial cervical spinal injuries and faect dislocation injuries. Surgical anatomy & techniques to the spine 2006; Chapter 40: 337-343. 12. Payer M, Schmidt M. Management of traumatic bilateral locked facets of the subaxial cervical spine. Contemp Neurosurg 2005; 27: 1 - 4. 13. Rizzolo SJ, Piazza MR, Cotler JM, et al. Intervertebral disc injury complicating cervical spine trauma. Spine 1991; 16: S187 – 9. 14. Satyen Mehta, Ben Goss, et al. Computed tomographic artifact suggesting cervical facet subluxation. Spine 2011; 36: E1038-E1041 15. Shapiro SA. Management of unilateral locked facet of the cervical spine . Neurosurgery 1993; 33: 832 – 7. 16. Wei Du, Cheng Wang, et al. Management of subaxial cervical facet dislocation through anterior approach monitored by spinal cord evoked potential. Spine 2013; 39: 48-52. 17. Zhengfeng Zhang, Chao Liu, et al. Anterior facetectomy for reduction of cervical facet dislocation. Spine 2016; 41: E403-E409.
File đính kèm:
phau_thuat_nan_trat_duong_truoc_trong_chan_thuong_cot_song_c.pdf

