Phẫu thuật đóng đường rò của động mạch vành phải vào thất trái
Rò động mạch vành là một bệnh lý ít gặp đa số
do nguyên nhân bẩm sinh, ngoài ra cũng có thể do
nguyên nhân mắc phải (can thiệp thủ thuật vào tim
hoặc chấn thương). Trong đó rò động mạch vành vào
thất trái là trường hợp rất hiếm gặp. Chúng tôi báo cáo
phẫu thuật thành công một trường hợp rò động mạch
vành phải vào thất trái với kích thước lỗ rò lớn sau
khi cố gắng bịt dù thất bại.
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật đóng đường rò của động mạch vành phải vào thất trái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật đóng đường rò của động mạch vành phải vào thất trái
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 34 PHẪU THUẬT ĐÓNG ĐƯỜNG RÒ CỦA ĐỘNG MẠCH VÀNH PHẢI VÀO THẤT TRÁI Nguyễn Công Hựu*, Đặng Quang Huy*, Lê Ngọc Thành* Tóm tắt Rò động mạch vành là một bệnh lý ít gặp đa số do nguyên nhân bẩm sinh, ngoài ra cũng có thể do nguyên nhân mắc phải (can thiệp thủ thuật vào tim hoặc chấn thương). Trong đó rò động mạch vành vào thất trái là trường hợp rất hiếm gặp. Chúng tôi báo cáo phẫu thuật thành công một trường hợp rò động mạch vành phải vào thất trái với kích thước lỗ rò lớn sau khi cố gắng bịt dù thất bại. Từ khóa: rò động mạch vành, chụp động mạch vành, điều trị rò động mạch vành Abstract Coronary artery fistulas are a rare anomaly. The majority are congenital in origin, although they may be acquired due to invasive cardiac procedures or trauma. Among them, communication between coronary artery and left ventricle is very rare. We announce a successful correction of large fistula of right coronary artery to left ventricle after failure of transcatheter occlusion. Key words: coronary artery fistula, coronary angiography, treatment of coronary fistula GIỚI THIỆU Rò động mạch vành (ĐMV) được chia thành (1) rò ĐMV bẩm sinh và (2) rò ĐMV mắc phải (chấn thương, sau các thủ thuật can thiệp vào tim ). 1-4 Trong đó, chúng ta quan tâm chủ yếu tới rò ĐMV bẩm sinh do tần suất gặp nhiều hơn. Một số tác giả có cách phân loại khác dựa vào đặc điểm sinh bệnh học: (1) rò động - tĩnh mạch vành bẩm sinh (congenital coronary arteriovenous fistula) là sự thông thương trực tiếp giữa một ĐMV với buồng nhĩ, thất phải, xoang vành hoặc các tĩnh mạch nhánh của xoang vành, tĩnh mạch chủ (TMC) trên, động mạch phổi (ĐMP) hoặc các tĩnh mạch phổi gần tim – đây là loại rò ĐMV hay gặp và (2) rò động - động mạch vành bẩm sinh (congenital coronary arterioartery fistula) là rò ĐMV vào thất trái – là loại rò ĐMV ít gặp. Hình 1: ĐMV rò bị giãn ngoằn ngoèo 5 Trường hợp lâm sàng đầu tiên được báo cáo năm 1865 bởi Krause. Swan và cộng sự báo cáo trường hợp phẫu thuật thành công đầu tiên điều trị rò ĐMV phải vào thất phải có sử dụng hệ thống tim phổi nhân tạo năm 1959. Đến nay đã có nhiều báo cáo và tổng kết về phẫu thuật và can thiệp điều trị rò ĐMV bẩm sinh, tuy vậy rò ĐMV bẩm sinh vào thất trái là bệnh cảnh lâm sàng hiếm gặp, phương pháp can thiệp phẫu thuật khó hơn so với các vị trí rò khác. 6 * Hình 2: Hình ảnh giãn thất trái trên xquang ngực * Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E Người chịu trách nhiệm khoa học:PGS.TS. Lê Ngọc Thành Ngày nhận bài:10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 28/10/2014 Phản Biện Khoa học: PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng GS.TS. Bùi Đức Phú PHẪU THUẬT ĐÓNG ĐƯỜNG RÒ CỦA ĐỘNG MẠCH VÀNH PHẢI VÀO THẤT TRÁI 35 Hình 3: Dấu hiện tăng gánh tâm trương thất trái, không biểu hiện thiếu máu cơ tim trên điện tâm đồ Trong bài này chúng tôi giới thiệu một trường hợp lâm sàng bệnh nhân (BN) được mổ đóng lỗ rò ĐMV phải vào thất trái sau khi đã cố gắng bịt lỗ rò bằng phương pháp tim mạch can thiệp. TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG Trường hợp BN nữ 39 tuổi, quê ở Bắc Ninh, được chẩn đoán rò ĐMV phải vào thất trái cách đây 7 năm nay tại bệnh viện Bạch Mai, đợt này BN đi khám vì khó thở khi gắng sức vừa, thỉnh thoảng đau tức ngực (T), BN vào viện trong tình trạng tỉnh, khó thở NYHA 2, tim đều, tiếng thổi tâm trương 3/6 sát bờ trái xương ức, gan không to, không phù. Xquang ngực: hình ảnh giãn thất trái. (hình 2) Điện tim có dấu hiệu tăng gánh tâm trương thất trái, không có biểu hiện thiếu máu cơ tim. (hình 3) Hình 4: Hình ảnh rò ĐMV phải vào thất trái trên siêu âm qua thành ngực Trên siêu âm tim có hình ảnh rò ĐMV phải vào thành sau thất trái, vị trí lỗ rò ngang với tổ chức dây chằng lá sau van hai lá. Kích thước gốc ĐMV phải 16mm, đường kính lỗ rò 12mm, đường kính động mạch vành trái 5mm. Đường kính nhĩ trái 33mm, thể tích tâm trương thất trái giãn nhiều (70mm), thể tích tâm thu thất trái giãn (54mm), chức năng tâm thu thất trái giảm 44%. Hình 5: Hình ảnh rò đoạn giữa động mạch liên thất sau vào thất trái, ĐMV phải giãn trên toàn bộ chiều dài trên phim MSCT chụp ĐMV Chụp MSCT 64 dãy có dựng hình hệ ĐMV thấy ĐMV phải có xuất phát và đường đi bình thường, đoạn giữa động mạch liên thất sau rò vào thất trái qua thành sau, toàn bộ ĐMV phải giãn rộng, đường kính 11- 15mm, nhiều chỗ có hình ảnh xơ vữa, không thấy huyết khối bám thành. ĐMV trái có xuất phát, đường đi và phân nhánh cấp máu bình thường. Các xét nghiệm máu cho kết quả trong giới hạn bình thường. BN được chỉ định can thiệp bằng thông tim với mục đích chụp xác định vị trí, kích thước lỗ rò và bịt lỗ rò bằng dù. Kết quả thông tim cho thấy lỗ rò kiểu bên – bên, rò từ đoạn giữa động mạch liên thất sau vào thất trái qua thành sau, đường kính lỗ rò 10 – 12mm. Phần ngoại vi của động mạch liên thất sau nhỏ. Các bác sĩ can thiệp cố gắng bịt lỗ rò bằng dù nhưng do phải sử dụng loại dù lớn nên có biểu hiện thiếu máu cơ tim ngay khi bịt dù buộc các bác sĩ phải lấy dù ra. BN được tiến hành mổ theo chương trình, BN được gây mê toàn thân, mở xương ức, Tim giãn chủ yếu là tim trái, không có bất thường về xuất phát và đường đi của hệ thống ĐMV, ĐMV phải giãn nguyên ủy cho tới đoạn giữa của động mạch liên thất sau, động mạch giãn đều không có hình ảnh túi phình, đường kính chỗ giãn khoảng 10 -12 mm, sờ thấy thrill trong thì tâm trương trên suốt đoạn giãn, thrill rõ nhất ở đoạn giữa của động mạch liên thất sau, tương ứng vị trí lỗ rò. Động mạch liên thất sau sau vị trí này có kích thước bình thường – tạo nên hiện tượng giảm kích thước đột ngột. PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 36 Hình 6: Hình ĐMV phải giãn đều trên suốt chiều dài Thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể (ĐMC, TMC trên và TMC dưới), vị trí rò vành được đánh dấu trước khi clamp ĐMC, ngừng tim, bảo vệ cơ tim bằng dung dịch custadiol ngược dòng. Động mạch liên thất sau tương ứng với vị trí rò vành (đã được khâu đánh dấu trước) được mở theo chiều dọc. Lỗ rò vành đường kính 10mm, bờ lỗ rò bị vôi hóa nhiều thành từng mảng, không thấy lỗ đầu ngoại vi của động mạch liên thất sau. Tiến hành vá lỗ rò bằng màng tim, khâu vắt với chỉ prolene 6.0. Khâu vắt lại đường mở ĐMV bằng prolene 6.0. Phần còn lại của phẫu thuật được thực hiện như thông thường. Sau mổ BN diễn biến tốt, cơ năng phục hồi, không có biểu hiện đau ngực. Khám lâm sàng không còn tiếng thổi, siêu âm sau mổ không còn đường rò. BÀN LUẬN Vị trí rò: Rò ĐMV phải và các nhánh của nó chiếm 50- 55%, rò ĐMV trái chiếm 35% và rò cả hai ĐMV chiếm 5%. Nhánh vành rò hầu như bao giờ cũng là một phần trong phân nhánh bình thường của hệ thống ĐMV. Hiếm khi ĐMV rò là một nhánh bất thường. Có hai hình thức rò ĐMV: (1) lỗ rò nằm trên thân của một ĐMV chính, ĐMV này còn tiếp tục cấp máu cho cơ tim ở phần sau của lỗ rò (rò bên - bên) và (2) lỗ rò nằm ở phần tận cùng của một ĐMV chính hoặc nằm ở một nhánh bên (rò tận - bên). ĐMV rò luôn bị giãn ra, kéo dài và có thể trở nên ngoằn ngoèo; mức độ biến đổi của các ĐMV tỉ lệ thuận một cách chặt chẽ với kích thước của dòng shunt qua lỗ rò. Thông thường ĐMV rò bị giãn đều trên suốt chiều dài đoạn giãn, tuy vậy cũng có thể tạo thành các ổ phình mạch tại vị trí đối diện với lỗ rò hoặc ngay gần lỗ rò. Các ổ phình mạch này hay hình thành trong trường hợp rò của ĐMV phải vào mặt sau của thất trái hoặc thất phải. Nhiều tác giả thấy rằng mặc dù các các túi phình mạch này tăng dần kích thước theo thời gian tuy nhiên hiếm khi tự vỡ. 7 8 Trong trường hợp rò bên – bên, đoạn ĐMV sau vị trí rò nhỏ đi một cách đột ngột so với đoạn ĐMV giãn phía trước và có kích thước nhỏ hơn so với bình thường do hiện tượng ăn cắp máu vành. BN của chúng tôi có kiểu rò bên bên từ động mạch liên thất sau vào thất trái, toàn bộ ĐMV phải và đầu trung tâm của động mạch liên thất sau bị giãn đều, nhánh ngoại vi bị nhỏ lại đột ngột. Sau khi mở ĐMV tại vị trí rò, chúng tôi không tìm thấy nhánh ngoại vi do tổ chức bị vôi hóa nhiều. 1. Buồng tim bị rò Hình 7: Lỗ rò ĐMV phải vào thất trái, tổ chức xung quanh lỗ rò dày vôi thành mảng PHẪU THUẬT ĐÓNG ĐƯỜNG RÒ CỦA ĐỘNG MẠCH VÀNH PHẢI VÀO THẤT TRÁI 37 Hình 8: Vá lỗ rò bằng màng tim ĐMV có thể rò vào cả 4 buồng tim và các mạch máu xung quanh tim. Hình 9: Khâu lại chỗ mở ĐMV Tuy vậy hơn 90% trường hợp đường rò đổ vào các buồng tim bên phải và các mạch máu liên kết với tim phải (TMC trên, ĐMP, xoang vành). Rò ĐMV vào các buồng tim hoặc các mạch máu có áp lực thấp tạo nên dòng shunt trái – phải có áp lực lớn và gây thoát máu nhanh khỏi ĐMC trong cả thì tâm thu và thì tâm trương. Qp/Qs hiếm khi > 1,8. 9 Khoảng 8% trường hợp đường rò dẫn máu vào các buồng tim trái hoặc các TMP, trong đó 5% rò vào nhĩ trái, khoảng 3% rò vào thất trái, rất hiếm khi có đường rò vào các TMP. Rò vào tim trái thuộc loại rò động – động mạch và do đó không tạo shunt trái – phải. Nếu rò vào nhĩ trái sẽ có dòng máu rò liên tục trong cả thì tâm thu và tâm trương. Nếu rò vào thất trái sẽ chỉ có dòng máu rò trong thì tâm trương do trong thì tâm thu đa số đường dò sẽ bị đóng lại và không có chênh áp qua lỗ rò. Lúc này sẽ gây tăng áp tâm trương trong thất trái giống trong hở chủ. 6 2. Kích thước và số lượng của lỗ rò Với các lỗ rò đơn độc, kích thước hiếm khi lớn hơn 5mm và thường có gờ xơ xung quanh. Đôi khi chúng ta có thể gặp một hệ thống các lỗ rò nhỏ giống như dạng sàng. Dogan M cùng cộng sự nghiên cứu trên 11.403 BN được chụp ĐMV thấy các đường rò nhỏ vào trong thất trái chiếm tỉ lệ 0,11%; trong đó, 100% rò từ động mạch liên thất trước, 66,7% rò từ động mạch mũ và 58,3% rò từ ĐMV phải. 10 Rò ĐMV vào thất trái hầu hết là dạng đơn độc, đa số xuất phát từ ĐMV trái. BN của chúng tôi có rò ĐMV phải vào thất trái, kích thước lỗ rò lớn – ít gặp so với báo cáo của các tác giả trên thế giới. 3. Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn Rò vành là yếu tố cơ hội gây viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trong 5% số trường hợp, được cho là do dòng máu rối gây tổn thương nội mạc buồng tim. 11 4. Các thương tổn phối hợp Trong báo cáo của Urrutia-S cùng cộng sự, 21/58 (36,2%) BN có thương tổn phối hợp bẩm sinh hoặc mắc phải: thông liên nhĩ, thông liên thất, bệnh van tim hoặc bệnh động mạch vành mắc phải, không có van ĐMP, thiểu sản van ba lá (VBL)12 BN của chúng tôi chưa có biến chứng viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn nhưng những thương tổn vôi hóa trong lòng ĐMV có thể là thương tổn thứ phát do dòng rối của máu gây ra. 5. Triệu chứng lâm sàng Với các lỗ rò nhỏ đa số BN không có triệu chứng cơ năng, bệnh được phát hiện tình cờ do có tiếng thổi ở tim hoặc chụp động mạch vành do nguyên nhân khác. PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 38 Với các lỗ rò lớn triệu chứng thường là khó thở và mệt khi gắng sức, đau thắt ngực (7%) và thiếu máu cơ tim (3%) do hiện tượng ăn cắp máu vành, suy tim (6%) gặp ở cả những BN < 20 tuổi 2 13 14 hoặc chỉ là biểu hiện block một nhánh phát hiện trên điện tim ở BN trẻ tuổi.15 Triệu chứng thiếu máu cơ tim do ăn cắp máu vành có đặc điểm sẽ diễn biến nặng lên nếu điều trị bằng Nitrate – ngược lại với thiếu máu cơ tim do xơ vữa.16 Bệnh nhân của chúng tôi có biểu hiện lâm sàng nổi bật là suy tim, không có hiện tượng thiếu máu cơ tim do ăn cắp máu ĐMV hoặc rối loạn dẫn truyền – tương tự trường hợp báo cáo của tác giả Kimiaki Komukai.6 6. Kỹ thuật mổ Không phải tất cả các trường hợp đều cần hỗ trợ của hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể. Hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể được chỉ định trong 4 trường hợp sau: (1) ĐMV giãn lớn và xoắn, nguy cơ chảy máu khi đóng lỗ rò, (2) lỗ rò ở vị trí không tiếp cận được (rãnh nhĩ thất trái, phân nhánh của nhánh mũ hoặc phần ngoại vi của ĐMV phải), (3) rò tận bên của một nhánh vành lớn nên không thể đóng lỗ rò bằng cách thắt mạch đơn thuần và (4) có phồng mạch đòi hỏi phải cắt bỏ. Đối với những trường hợp rò vào buồng thất trái thì chỉ có đường tiếp cận lỗ rò duy nhất đó là mở ĐMV và đóng lỗ rò. Phương pháp khâu vắt ở phía dưới ĐMV sử dụng các miếng đệm không được khuyến cáo do dễ gây bỏ sót lỗ rò. Shigemichi Tanaka cùng cộng sự báo cáo một trường hợp rò ĐMV phải vào mặt dưới của thất trái, BN được theo dõi trong 20 năm vì không có triệu chứng lâm sàng, cho tới khi khó thở BN được phẫu thuật theo phương pháp Simbas (mở ĐMV và khâu đóng trực tiếp lỗ rò), ĐMV trong mổ giãn lớn đường kính tới 3,5cm. Chụp ĐMV sau mổ 3 tuần cho thấy không còn dòng shunt qua vị trí rò nhưng xuất hiện huyết khối mới tại ĐMV phải. Do đó những BN sau mổ cần phải được điều trị chống đông cẩn thận.17 Theo tổng kết của một số tác giả, tỉ lệ gặp huyết khối thấp và chủ yếu gặp ở những trường hợp ĐMV giãn tạo thành dạng phồng.18 7. Chỉ định can thiệp Nhiều tác giả khác thấy rằng (1) một vài trường hợp lỗ rò tăng dần kích thước theo thời gian và do đó cuối cùng gây suy tim, (2) bệnh có xu hướng gây viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, (3) khả năng lỗ rò tự đóng rất thấp và (4) can thiệp (bịt lỗ rò qua thông tim hoặc phẫu thuât) đem lại kết quả rất tốt và an toàn. Từ những nhận xét đó các tác giả này khuyến cáo BN khi được chẩn đoán rò ĐMV là có chỉ định can thiệp; trừ một trường hợp đó là dòng shunt nhỏ (Qp/Qs < 1,3). Như vậy can thiệp đóng lỗ rò ĐMV nhằm 2 mục đích: (1) điều trị những lỗ rò lớn gây rối loạn huyết động và (2) phòng biến chứng thiếu máu cơ tim và hình thành phồng ĐMV. Phẫu thuật khâu đóng lỗ rò là phương pháp chuẩn mực trong điều trị rò ĐMV do hiệu quả, tỉ lệ thành công cao với kết quả lâu dài tốt.8 19 20 Phương pháp tim mạch can thiệp qua da ngày càng trở nên phổ biến vì mức độ an toàn, tỉ lệ thành công cao, rút ngắn thời gian nằm viện. Tuy vậy, những những đối tượng BN áp dụng phương pháp này còn rất chọn lọc. Trên thế giới đã có những báo cáo về bịt các lỗ rò ĐMV bằng nhiều dụng cụ khác nhau: coil 21, dù bịt ống động mạch 22 23, dụng cụ nút mạch máu – vascular plug. Đôi khi đặc điểm về kích thước và vị trí của lỗ rò có thể gây khó khăn cho việc can thiệp: đường kính lỗ rò lớn nhưng chiều dài lại ngắn; ví dụ: rò từ ĐMV trái vào buồng tim trái, nếu cố gắng bịt sẽ có nguy cơ cao trôi dụng cụ vào tuần hoàn hệ thống hoặc trôi về phía ngoại vi của ĐMV. Trong những trường hợp này, phẫu thuật vẫn là lựa chọn an toàn hơn.22 Với trường hợp rò ĐMV phải vào thất trái đã có báo cáo bịt lỗ rò thành công sử dụng coil, tuy nhiên tác giả cũng khuyến cáo nên lựa chọn bệnh nhân kỹ lưỡng.12 13 BN của chúng tôi có rò vào thất trái với lỗ rò lớn, chúng tôi đã cố gắng đóng lỗ rò bằng dụng cụ bịt ống động mạch nhưng gặp phải khó khăn do BN có biểu hiện thiếu máu cơ tim trong khi can thiệp và nguy cơ trôi dụng cụ. Vì can thiệp thất bại chúng tôi quyết PHẪU THUẬT ĐÓNG ĐƯỜNG RÒ CỦA ĐỘNG MẠCH VÀNH PHẢI VÀO THẤT TRÁI 39 định lựa chọn phương pháp phẫu thuật có sử dụng hệ thống tim phổi nhân tạo do vị trí tiếp cận khó. KẾT LUẬN: Rò ĐMV vào thất trái là trường hợp lâm sàng hiếm gặp, gây biến chứng suy tim, thiếu máu cơ tim, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn Kết quả lâu dài điều trị rò ĐMV rất tốt. Phẫu thuật viên cần lựa chọn phương pháp phẫu thuật hay can thiệp qua da để đóng lỗ dò tùy theo vị trí và kích thước của lỗ rò. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kishida K, Nakaoka H, Sumitsuji S, Nakatsuji H, Ihara M, Nojima Y, et al. Successful surgical treatment of an infected right coronary artery aneurysm-to-right ventricle fistula after sirolimus- eluting stent implantation. Intern Med 2007;46(12):865-71. 2. Ucar O, Cicekcioglu H, Cetin M, Ileri M, Aydogdu S. Coronary artery-left ventricular microfistulae associated with apical hypertrophic cardiomyopathy. Cardiol J 2011;18(3):307-9. 3. Najib MQ, Ng D, Vinales KL, Chaliki HP. Aorto-right ventricular fistula: a complication of aortic valve replacement. Ann Thorac Cardiovasc Surg 2012;18(1):64-7. 4. Roy D, Saba S, Grinberg I, Zughaib M, Sakwa M, Clancy P, et al. Aorto-right ventricular fistula: a late complication of aortic valve replacement. Tex Heart Inst J 1999;26(2):140-2. 5. Hamid UI, Parissis H. Right coronary artery fistula to right ventricle. BMJ Case Rep 2011;2011. 6. Komukai K, Muto M, Imai K, Hashimoto K, Iwano K, Mogi J, et al. Left coronary artery-left ventricle fistula with right coronary artery spasm. Jpn Circ J 1998;62(9):704-6. 7. Wei J, Shu Y, Wei X, Tang J, Yan J, Zeng H, et al. Right coronary artery fistula to left ventricle complicated with huge coronary artery aneurysm. Intern Med 2011;50(3):239-42. 8. Liu L, Wei X, Yan J, Pan T. Successful correction of congenital giant right coronary artery aneurysm with fistula to left ventricle. Interact Cardiovasc Thorac Surg 2011;12(4):639-41. 9. Nicholas T. Kouchoukos EHB, Donald B. Doty, Frnk L.Haney, Robert B.Karp. Kirklin/Baratt- Boyes Cardiac surgery 3rd edition. 10. Dogan M, Sunman H, Akyel A, Cimen T, Bilgin M, Efe T, et al. [Prevalence and clinical features of microfistulas between the coronary artery and left ventricle: single-center experience]. Turk Kardiyol Dern Ars 2014;42(4):332-8. 11. Ahn DS, Chung JH, Kim YN, Oh YS, Lim DS, Choi RK. Right coronary artery to left ventricular fistula associated with infective endocarditis of the mitral valve. Korean Circ J 2013;43(4):281-3. 12. Inamura N, Nakajima T, Kayatani F, Kawata H. Successful transcatheter coil embolization of coronary artery to left ventricular fistula associated with absent pulmonary valve with tricuspid atresia in early infancy. Circ J 2004;68(12):1227-9. 13. Jiang Z, Chen H, Wang J. Right coronary artery fistula to left ventricle treated by transcatheter coil embolization: a case report and literature review. Intern Med 2012;51(11):1351-3. 14. Kidawa M, Peruga JZ, Forys J, Krzeminska- Pakula M, Kasprzak JD. Acute coronary syndrome or steal phenomenon - a case of right coronary to right ventricle fistula. Kardiol Pol 2009;67(3):287-90. 15. Suchon E, Kostkiewicz M, Szot W. Left coronary arteriovenous malformation with fistulous connections to the left and right ventricles. Nucl Med Rev Cent East Eur 2012;15(1):80-2. PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 40 16. Heper G, Kose S. Increased myocardial ischemia during nitrate therapy: caused by multiple coronary artery-left ventricle fistulae? Tex Heart Inst J 2005;32(1):50-2. 17. Shizukuda Y, Yonekura S, Tsuchihashi K, Tanaka S, Komatsu S, Iimura O. A case of a right coronary artery to left ventricle fistula observed over twenty years. Jpn J Med 1989;28(4):510-4. 18. Furushima Y KS, Murota K. Congenital coronary artery fistula. Report of a case with an analysis of 133 reported cases in Japan. Nippon Kyoubu Geka Gakkai Zasshi 1976 24(1409). 19. Pearce FB, McMahon WS, Alten JA, Kirklin JK. Coronary artery fistula ligation in a child with use of the Starfish Heart Positioner. Tex Heart Inst J 2009;36(5):459-61. 20. Guedes MA, Riso Ade A, Barbero Marcial M, Stolf NA. Off-pump correction of coronary fistula: the single suture technique approach. Rev Bras Cir Cardiovasc 2009;24(4):581-3. 21. Mavroudis C, Backer CL, Rocchini AP, Muster AJ, Gevitz M. Coronary artery fistulas in infants and children: a surgical review and discussion of coil embolization. Ann Thorac Surg 1997;63(5):1235-42. 22. Bialkowski J, Szkutnik M, Fiszer R, Zembala M. Transcatheter occlusion of a large coronary artery fistula using a patent ductus arteriosus occluder. Kardiol Pol 2011;69(12):1318-9. 23. Al-Ata J, Amin M, Galal MO, Kouatli A, Hussain A. Transcatheter occlusion of a large left coronary artery to right superior vena cava fistula using the Amplatzer duct occluder device. Pediatr Cardiol 2004;25(1):70-2.
File đính kèm:
phau_thuat_dong_duong_ro_cua_dong_mach_vanh_phai_vao_that_tr.pdf

