Phẫu thuật chuyển thần kinh phục hồi giạng vai và gấp khuỷu trong điều trị nhổ, đứt các rễ trên của đám rối cánh tay

Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật chuyển thần kinh để phục hồi gấp khuỷu,

giạng vai trong tổn thương các rễ trên của đám rối cánh tay. Xác định ảnh hưởng sau

lấy thần kinh ở nơi cho.

Đối tượng và phương pháp: 45 bệnh nhân (44 nam, 1 nữ), tuổi trung bình 27,3 bị nhổ,

đứt các rễ trên của đám rối cánh tay. Được chuyển thần kinh kép phục hồi gấp khuỷu

từ tháng 10/2010 đến 6/2013. Trong đó, 14 bệnh nhân được chuyển thần kinh đầu dài

cơ tam đầu cho thần kinh mũ đồng thời chuyển thần kinh XI cho thần kinh trên vai từ

tháng 01/2012 đến tháng 6/2013.

 

pdf 8 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật chuyển thần kinh phục hồi giạng vai và gấp khuỷu trong điều trị nhổ, đứt các rễ trên của đám rối cánh tay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật chuyển thần kinh phục hồi giạng vai và gấp khuỷu trong điều trị nhổ, đứt các rễ trên của đám rối cánh tay

Phẫu thuật chuyển thần kinh phục hồi giạng vai và gấp khuỷu trong điều trị nhổ, đứt các rễ trên của đám rối cánh tay
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012
276
Lê Văn Đồn, 
Nguyễn Văn Phú, 
Chế Đình Nghĩa, 
Bùi Việt Hùng, 
Trương Anh Dũng, 
Nguyễn Viết Ngọc, 
Ngơ Thái Hưng, 
Vũ Hữu Trung 
PHẪU THUẬT CHUYỂN THẦN KINH PHụC HỒI 
GIẠNG VAI VÀ GẤP KHUỶU TRONG ĐIỀU TRỊ 
NHỔ, ĐỨT CÁC RỄ TRÊN CỦA ĐÁM RỐI CÁNH TAY
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật chuyển thần kinh để phục hồi gấp khuỷu, 
giạng vai trong tổn thương các rễ trên của đám rối cánh tay. Xác định ảnh hưởng sau 
lấy thần kinh ở nơi cho.
Đối tượng và phương pháp: 45 bệnh nhân (44 nam, 1 nữ), tuổi trung bình 27,3 bị nhổ, 
đứt các rễ trên của đám rối cánh tay. Được chuyển thần kinh kép phục hồi gấp khuỷu 
từ tháng 10/2010 đến 6/2013. Trong đó, 14 bệnh nhân được chuyển thần kinh đầu dài 
cơ tam đầu cho thần kinh mũ đồng thời chuyển thần kinh XI cho thần kinh trên vai từ 
tháng 01/2012 đến tháng 6/2013.
Kết quả: Về phục hồi gấp khuỷu: 35/45 bệnh nhân sau mổ trên 6 tháng: 34 đạt M4 
(nâng tạ từ 2 đến 15 kg), 1 đạt M3. Đạt kết quả rất tốt và tốt là 34/35. Về phục hồi 
giạng vai: 11/14 bệnh nhân sau mổ trên 12 tháng: giạng vai từ 30o đến 180o, trung bình 
là 100o: 1 đạt M5, 8 đạt M4, 2 đạt M3. Xoay ngoài khớp vai từ 30o đến 120o, trung bình 
là 85o: 6 đạt M4, 3 đạt M3, 2 đạt M2. Đạt kết quả rất tốt và tốt là 9/11. Không để lại di 
chứng sau lấy thần kinh.
Kết luận: Chuyển thần kinh để phục hồi gấp khuỷu và giạng vai trong tổn thương 
nhổ, đứt các rễ trên của đám rối cánh tay cho kết quả tốt. Thời gian phục hồi ngắn, đạt 
hiệu quả cao. Không để lại di chứng sau lấy thần kinh.
Từ khóa: Chuyển thần kinh, phục hồi gấp khuỷu và giạng vai, tổn thương đám rối 
cánh tay.
TĨM TẮT
MULTIPLE NERVE TRANSFERS TO RESTORATION OF ELBOW 
FLEXION AND SHOULDER ABDUCTION IN UPPER BRACHIAL 
PLEXUS INJURY
Le Van Doan, 
Nguyen Van Phú, 
Che Dinh Nghia, 
Bui Viet Hung, 
Truong Anh Dung, 
Nguyen Viet Ngoc, 
Ngo Thai Hung, 
Vu Huu Trung 
ABSTRACT
Purpose: To report the results of combined nerve transfer to restoration of elbow flexion 
and shoulder abduction in upper brachial plexus injury. Definition of clinical donor 
nerve deficits. 
Materials and Methods: 45 patients (44 males, 1 female), mean age 27,3 were upper 
brachial plexus injuried, had double nerve transfers to restoration of elbow flexion from 
Oct 2010 to now. Include, 14 patients had nerve transfers: spinal accessory nerve to the 
suprascapular nerve, the nerve to the long head of the triceps to the anterior branch of 
the axillary nerve from Jan 2012 to now. 
Results: 35/45 patients up to 6 months postoperative, had recovered full elbow flexion: 
34 scored M4 and 1 scored M3. 34/35 patients obtained very good and good results. 
The weight the patients could lift ranged from 2 to 15 kg. 11/14 patients up to 12 months 
postoperative, had recovery shoulder abduction: shoulder abduction from 30˚ to 180˚, 
Phần 4: Phần vi phẫu
277
the mean was 100°: 1 scored M5, 8 scored M4 and 2 scored M3.. Shoulder external 
rotation strength was scored as M4 in 6 patients, M3 in 3 patients, and M2 in 2 patients. 
The range of motion of external rotation that was measured from full internal rotation 
averaged 85° (from 30˚ to 120˚). 9/11 patients obtained very good and good results. No 
clinical donor nerve deficits were observed.
Conclusions: We recommend combined nerve transfers for upper brachial plexus 
injuries. These nerve transfers have the advantage of a quick recovery time as a result 
of the short regeneration distancewithout nerve graft. No clinical donor nerve deficits 
were observed.
Key words: Nerve transfer, restoration of elbow flexion and shoulder abduction, brachial 
plexus injury.
ĐặT VấN Đề
Tổn thương đám rối cánh tay (ĐRCT) khơng hiếm gặp, 
nguyên nhân chủ yếu là do tai nạn xe máy. Theo thống kê 
của Khoa Chấn thương Chi trên và Vi phẫu, Viện CTCH, 
Bệnh viện TƯQĐ 108 [1, 2], tổn thương nhổ hoặc đứt các 
rễ trên của đám rối cánh tay (rễ C5, C6, ±C7) chiếm tới 
30% các trường hợp tổn thương ĐRCT. Khi bị đứt các rễ 
này, bệnh nhân (BN) mất giạng vai, xoay ngồi khớp vai 
và mất gấp khuỷu. Khi các rễ thần kinh bị nhổ hoặc đứt 
sát lỗ ghép, việc nối hoặc ghép thần kinh để phục hồi lại 
chúng là khơng thể thực hiện được [5, 6, 7, 8].
Năm 1994, Oberlin C.[7] đề xuất phương pháp lấy một 
hoặc vài bĩ sợi của thần kinh trụ chuyển cho thần kinh 
vận động của cơ nhị đầu cánh tay (phương pháp Oberlin 
I), kết quả là: phục hồi được gấp khuỷu, tuy nhiên, một số 
trường hợp sức gấp khuỷu chỉ đạt mức M3. Năm 2001, 
Mackinnon S.E.[8] cải biên phương pháp Oberlin I bằng 
chuyển thêm một vài bĩ sợi của thần kinh giữa cho thần 
kinh vận động cơ cánh tay, gọi là chuyển thần kinh kép 
(Oberlin II). Kết quả là, phần lớn các trường hợp đạt M4. 
Để phục hồi giạng và xoay ngồi khớp vai, năm 2003, 
Leechavengvongs S.[9], [10] đề xuất phương pháp chuyển 
thần kinh vận động của đầu dài cơ tam đầu cho nhánh 
trước của thần kinh mũ, đồng thời chuyển nhánh tủy sống 
thần kinh XI cho thần kinh trên vai. Kết quả, trung bình 
giạng vai được 124˚, khơng cĩ trường hợp nào để lại di 
chứng nơi thần kinh cho. 
Ở Việt Nam, đến nay, chưa cĩ báo cáo nào thơng báo về 
kết quả của chuyển thần kinh kép để phục hồi gấp khuỷu 
và giạng vai ở BN bị tổn thương nhổ hoặc đứt các rễ trên 
của đám rối cánh tay. Do vậy, chúng tơi áp dụng phương 
pháp này, với mục tiêu:
1. Đánh giá kết quả phẫu thuật chuyển thần kinh kép 
để phục hồi gấp khuỷu và chuyển thần kinh đầu dài cơ tam 
đầu cho nhánh trước thần kinh mũ, thần kinh XI cho thần 
kinh trên vai để phục hồi giạng và xoay ngồi khớp vai.
2. Xác định mức độ ảnh hưởng sau lấy thần kinh XI, 
thần kinh đầu dài cơ tam đầu, một bĩ sợi thần kinh giữa, 
thần kinh trụ và những yếu tố liên quan đến kết quả phẫu 
thuật. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
Đối tượng
45 BN (44 nam, 1 nữ), tuổi từ 16 đến 58 (trung bình: 
27,3 ± 10,7 tuổi), được chẩn đốn: nhổ, đứt các rễ C5, C6, 
±C7, sát lỗ ghép khơng cịn chỉ định nối hoặc ghép, từ khi 
bị thương đến khi phẫu thuật dưới 12 tháng. Tất cả các BN 
này được phẫu thuật tại Khoa Chấn thương Chi trên và 
Vi phẫu, Viện CTCH, Bệnh viện TƯQĐ 108: phẫu thuật 
chuyển thần kinh kép để phục hồi gấp khuỷu từ tháng 
10/2010 đến tháng 6/2013, trong số này cĩ 14 BN đồng 
thời được phẫu thuật chuyển thần kinh đầu dài cơ tam đầu 
cho nhánh trước thần kinh mũ và chuyển thần kinh XI cho 
thần kinh trên vai để phục hồi giạng vai từ tháng 1/2012 
đến tháng 6/2013. 
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, thử nghiệm lâm 
sàng, khơng đối chứng, theo dõi dọc. Các chỉ tiêu nghiên 
cứu được xây dựng theo biểu mẫu thống nhất, theo dõi qua 
các thời điểm: trước mổ; ngay sau mổ; thời điểm xuất hiện 
dấu hiệu máy cơ (M1); thời điểm co cơ đạt M3, M4 và 
thời điểm ≥ 18 tháng sau mổ.
Kỹ thuật mổ
Kỹ thuật chuyển thần kinh kép để phục hồi gấp khuỷu 
(theo kỹ thuật của Livernaux P.A. [11]):
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012
278
- Tê đám rối hoặc mê nội khí quản, BN nằm ngửa. 
Rạch da 10cm dọc theo bờ trong cơ nhị đầu cánh tay. 
Bộc lộ thần kinh cơ bì, tìm nhánh thần kinh vận động 
của cơ nhị đầu và cơ cánh tay.
- Phẫu tích các bĩ sợi của thần kinh trụ tương ứng 
với vị trí thần kinh cơ nhị đầu, thần kinh giữa tương 
ứng với vị trí thần kinh cơ cánh tay. Dùng bộ kích 
thích điện thần kinh để xác định và lựa chọn 1 bĩ sợi 
vận động của thần kinh trụ, giữa chi phối vận động 
cho các cơ khu trước cẳng tay. Khơng lựa chọn các 
bĩ sợi chi phối vận động cho các cơ nội tại bàn tay. 
- Cắt bĩ sợi đã lựa chọn ở thần kinh trụ chuyển 
cho thần kinh cơ nhị đầu cánh tay và thần kinh giữa 
cho thần kinh cơ cánh tay. Nối trực tiếp 2 mối nối 
thần kinh này bằng 3- 4 mũi rời, dùng chỉ nilon 10/0. 
Khâu đĩng vết mổ 2 lớp.
Kỹ thuật chuyển thần kinh đầu dài cơ tam đầu 
cho nhánh trước thần kinh mũ (theo kỹ thuật của 
Leechavengvongs S. [9]).
- Tê đám rối hoặc mê nội khí quản, BN nằm 
nghiêng sang bên đối diện, cánh tay đưa ra trước 90 
độ, đặt trên một giá đỡ. Rạch da 10cm dọc bờ sau cơ 
delta.
- Bộc lộ bĩ mạch-thần kinh nằm trong vách liên 
cơ, phẫu tích theo nhánh thần kinh này, nĩ tách ra từ 
nhánh sau thần kinh mũ. Tìm nhánh trước của thần 
kinh mũ (nhánh trước thần kinh mũ cho từ 1 đến 3 
nhánh đi vào bĩ trước và bĩ giữa cơ delta). Cắt nhánh 
trước thần kinh mũ tại nguyên ủy.
- Bộc lộ tam giác cánh tay tam đầu, thấy nhánh 
thần kinh đầu dài cơ tam đầu xuất phát từ thần kinh 
quay. Dùng máy kích thích điện để xác định đây là 
nhánh thần kinh cĩ dẫn truyền bình thường. Cắt thần 
kinh này tại vị trí chia nhánh trước khi vào cơ. 
- Nối trực tiếp nhánh thần kinh của đầu dài cơ tam 
đầu cho nhánh trước của thần kinh mũ bằng chỉ nilon 
10.0 hoặc 11.0. Khâu đĩng vết mổ 3 lớp. 
Kỹ thuật chuyển thần kinh XI cho thần kinh 
trên vai
- Mê nội khí quản, BN nằm ngửa. Rạch da 8 cm 
theo đường phân giác gĩc giữa bờ sau cơ ức địn 
chũm và bờ trước cơ thang. Tìm thần kinh XI chạy 
dọc bờ trước cơ thang. Dùng bộ kích thích điện để 
xác định.
- Tìm thần kinh trên vai tách ra từ thân trên, cắt 
thần kinh này tại nguyên ủy.
- Nối trực tiếp thần kinh XI cho thần kinh trên 
vai bằng chỉ nilon 10.0, 11.0. Khâu đĩng vết mổ 
theo lớp. 
Săn sĩc, điều trị sau mổ
- Bất động gấp khuỷu và khép vai bằng đeo túi 
treo tay trong 3 tuần. Sau 3 tuần tập vận động thụ 
động giạng vai và gấp khuỷu với biên độ tăng dần. 
Đồng thời tập động tác nâng vai và duỗi khuỷu. Sau 
1 tháng, tiếp tục tập vận động kết hợp với điều trị 
bằng điện xung kích thích vào cơ delta, cơ trên gai, 
cơ dưới gai, cơ nhị đầu cánh tay, cơ cánh tay để tránh 
teo cơ thêm.
- Sau mổ, duy trì uống thuốc tăng cường dẫn 
truyền thần kinh liên tục trong 6 tháng đến 1 năm 
(Methylcoban 500µg. Ngày uống 3 viên, chia 3 lần).
Đánh giá kết quả
- Sức gấp khuỷu, sức giạng vai được tính theo 
thang điểm của Hội đồng y học Anh từ M0 đến M5 .
- Đánh giá di chứng nơi cho thần kinh bằng cách 
đo lực nắm bàn tay, lực kẹp của các ngĩn tay, lực 
duỗi khuỷu, lực nâng vai. Đo cảm giác bàn, ngĩn tay: 
sử dụng test 2 điểm (2PD-test) tại vị trí mặt gan đốt 3 
ngĩn II, V trước và sau mổ.
- Đánh giá gấp khuỷu, giạng vai theo Samardzic 
M.[12], chia làm 4 loại: 
Rất tốt: Chức năng gấp khuỷu, giạng vai gần như bình thường (M5)
Tốt: Gấp khuỷu tối đa, giạng vai trên 450, thắng được lực cản (M4), có khả năng tự lặp 
lại vận động. Bắp cơ nở rõ. Điện TK- cơ có dẫn truyền.
Trung bình: Gấp khuỷu đến 900, giạng vai đến 450, thắng trọng lực chi thể (M3), có khả năng 
duy trì tại 1 vị trí. Cải thiện việc teo cơ và có dẫn truyền trên điện TK –cơ
Kém: Không vận động được hoặc không thắng trọng lực chi thể (dưới M3). Không cải 
thiện hiện tượng teo cơ và trên điện TK- cơ
Phần 4: Phần vi phẫu
279
KẾT QUẢ
Phục hồi gấp khuỷu (n=45): Trong 45 BN cĩ 35 BN 
sau mổ trên 6 tháng, theo dõi dài nhất là 30 tháng, thời 
gian theo dõi trung bình là: 24 ± 2,8 tháng. Trong đĩ, cĩ 44 
nam, 1 nữ; Tuổi từ 16 đến 58 (trung bình là 27,3 ±10,7).
- Tổn thương giải phẫu bệnh: 21BN nhổ, đứt C5, C6; 
24 BN nhổ, đứt C5, C6, C7.
- Thời gian từ khi bị tổn thương đến khi phẫu thuật là: 
từ 1 tháng đến 12 tháng (TB: 5,9 ± 1,4 tháng).
- Thời gian trung bình từ khi phẫu thuật đến khi cĩ 
dấu hiệu phục hồi vận động gấp khuỷu đạt M1 là: 3 ± 0,6 
tháng, đạt M3 là: 4 ± 0,8 tháng, đạt M4 là 6 ± 0,7 tháng.
- Khả năng nâng tạ tại thời điểm đánh giá kết quả cuối 
cùng của 35 BN đạt sức gấp khuỷu M4 từ 2kg đến 15kg 
(TB: là 6,5 ± 1,4 kg) ở 34 BN.
- Đánh giá kết quả gấp khuỷu theo Samardzic M. (n= 35):
Rất tốt: 14/35; Tốt: 20/35; Trung bình: 1/35; Kém: 0
Phục hồi giạng vai (n=14): Trong 14 BN cĩ 11 BN sau 
mổ trên 12 tháng, BN theo dõi dài nhất là 18 tháng. Tất cả 
đều là nam giới, tuổi từ 16 đến 58 (trung bình là: 31,8 ± 
11,7).
- Tổn thương giải phẫu bệnh: 08 BN nhổ, đứt C5, C6; 6 
BN nhổ, đứt C5, C6, C7.
- Thời gian từ khi bị tổn thương đến khi phẫu thuật là: 
từ 1 tháng đến 12 tháng (TB: 5,9 ± 1,4 tháng).
- Thời gian trung bình từ khi phẫu thuật đến khi cĩ dấu 
hiệu phục hồi vận động giạng vai đạt M1 là: 9 ± 0,6 tháng, 
đạt M3 là: 12 ± 0,8 tháng, đạt M4 là 16 ± 0,7 tháng.
- Khả năng giạng vai ở thời điểm đánh giá kết quả cuối 
cùng của 11 BN trung bình là 100˚± 50˚, xoay ngồi của 
khớp vai trung bình là 85˚± 30˚. 
Bảng 1. Gĩc giạng và xoay ngồi khớp vai tại các thời điểm đánh giá (n= 11)
12 tháng 16 tháng 18 tháng
Số BN 07 03 01
Độ giạng vai 300-900 300-1000 1800 (full)
Độ xoay ngoài 300 -1200 1200 (full) 1200 (full)
Kết quả giạng vai theo Samardzic M.: Rất tốt: 01/11; Tốt: 08/11; Trung bình: 02/11; Kém: 0
Bảng 2. Ảnh hưởng sau lấy một phần thần kinh giữa, trụ. (n=45). 
Sức nắm bàn tay 
(Grip)
Sức kẹp ngón tay 
(Pinch)
Test phân biệt 2 
điểm (2PD-test) ngón 
II
Test phân biệt 2 
điểm (2PD-test) ngón 
V
Trước mổ 5,3 ±2,5 kg 1,2 ±0,3 kg 8,4 ±1,5 mm 7,5 ±1,5 mm
Sau mổ 1 tuần 3,8 ±1,1 kg 0,8 ±0,2 kg 13,2 ±1,9 mm 10,7 ±2,2 mm
T. cuối cùng 11,5 ±3,1 kg 2,5 ±0,5 kg 8,1 ±1,6 mm 6,7 ±1,8 mm
Bảng 3. Ảnh hưởng sau lấy thần kinh trên vai, thần kinh đầu dài cơ tam đầu (n=14).
Trước mổ Sau mổ 1 tuần T. cuối cùng
Duỗi khuỷu 8,2 ±2,5 kg 5,1 ±2,2 kg 10,9 ±2,8 kg
Nâng vai 15,3 ±3,5 kg 4,3 ±1,8 kg 15,1 ±4,2 kg
BN minh họa:
- BN nam, 32 tuổi (Hình 1), bị tổn thương đứt rễ C5, 
C6 sát lỗ ghép bên trái do tai nạn xe máy tuần thứ 4. Được 
phẫu thuật tháng 01/2012: Chuyển thần kinh kép phục 
hồi gấp khuỷu, chuyển thần kinh đầu dài cơ tam đầu cho 
nhánh trước thần kinh mũ, chuyển thần kinh XI cho thần 
kinh trên vai. Kết quả sau mổ 17 tháng (Hình 2. A,B,C), 
chức năng gấp khuỷu (5kg), giạng vai và xoay ngồi khớp 
vai gần như bình thường.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012
280
Hình 1. Hình 2.A Hình 2.B Hình 2.C
BÀN LUẬN
Kết quả phục hồi gấp khuỷu và giạng vai
Tổn thương ĐRCT hầu hết là do tai nạn xe máy 
[1, 2, 5, 6, 9, 13], vì vậy tổn thương này hay gặp ở các 
nước đang phát triển do cĩ mật độ xe máy tham gia 
giao thơng rất cao như Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia, 
Việt Nam, Trung Quốc,  và đối tượng bị tai nạn 
thường là nam thanh niên, trong báo cáo này 44/45 
BN là nam, với tuổi trung bình là: 27,3 ± 10,7. Tổn 
thương với hình thái nhổ hoặc đứt sát lỗ ghép thì 
khơng thể nối hoặc ghép được, các tác giả trên thế 
giới đã thống nhất sử dụng phương pháp phẫu thuật 
chuyển thần kinh, khi BN đến trước 12 tháng, nếu 
BN đến muộn hơn thì sử dụng phương pháp phẫu 
thuật chuyển gân hoặc chuyển cơ động lực vi phẫu. 
 Trong phẫu thuật chuyển thần kinh, nếu cĩ thể 
nối trực tiếp được và chuyển chọn lọc thần kinh vận 
động cho vận động thì kết quả đạt được sẽ là cao 
nhất. Các BN trong lơ nghiên cứu này, đều đạt được 
cả 2 tiêu chí trên.
Về sức gấp khuỷu, theo nghiên cứu của chúng 
tơi thời gian sức gấp khuỷu đạt M3 trung bình là 4 
tháng. Cĩ 34/35 BN, sức gấp khuỷu đều đạt M4 tại 
thời điểm đánh giá cuối cùng, với khả năng nâng tạ 
trung bình là 6,5 kg. Theo Leechavengvongs [14] với 
phương pháp Orberlin I, đạt M3 là 7 tháng, 13/15 đạt 
M4 ở thời điểm theo dõi cuối cùng và sức nâng tạ 
trung bình là 2,6 kg. Báo cáo của Bhandari [13] với 
phương pháp Oberlin II, đạt M3 là 6,5 tháng. Các báo 
cáo [6, 12, 15, 16], sử dụng chuyển thần kinh ngồi 
đám rối, thời gian đạt M3 kéo dài rõ rệt từ 10 đến 17 
tháng, sức gấp khuỷu đạt M4 là 70%.
Cĩ 3 nguyên nhân làm cho phương pháp chuyển 
thần kinh kép (Oberlin II) đạt được kết quả phục hồi 
gấp khuỷu sớm và khỏe hơn so với phương pháp khác 
như Oberlin I, chuyển thần kinh ngồi đám rối là:
Thứ nhất, khoảng cách từ vị trí nối đến cơ đích 
ngắn hơn rất nhiều, được nối trực tiếp mà khơng qua 
đoạn ghép trung gian so với các nguồn khác như thần 
kinh XI, thần kinh hồnh.
Thứ hai, các bĩ sợi thần kinh cho được lựa chọn 
là những bĩ cĩ tỉ lệ axon vận động lớn được xác định 
qua kích thích điện thần kinh, và được nối một cách 
chọn lọc vào bĩ vận động của cơ đích.
Thứ ba, phục hồi cho cơ nhị đầu và cơ cánh tay, do 
vậy phục hồi được tồn bộ cơ khu trước cánh tay, nên 
sức gấp khuỷu đạt được lớn hơn so với Orberlin I. 
Các tác giả áp dụng phương pháp Orberlin I, II 
đều nhận thấy kết quả phục hồi gấp khuỷu thường 
yếu ở những bệnh nhân cĩ tổn thương C5, C6, C7. 
Chúng tơi cĩ 24 BN tổn thương C5, C6, C7 thì 23 BN 
đạt được sức gấp khuỷu M4, nhưng khả năng nâng tạ 
yếu hơn so với nhĩm chỉ tổn thương C5, C6.
Về phục hồi giạng vai, trong 14BN được phẫu 
thuật, cĩ 11 BN đã trên 1 năm và kết quả bước đầu là 
khá khả quan. BN được phẫu thuật đầu tiên đến nay 
là 18 tháng, đạt kết quả rất tốt, chức năng giạng vai, 
xoay ngồi khớp vai gần như bình thường. Thời gian 
đạt M3 trung bình là 12 tháng, đạt M4 là 16 tháng. 
Chúng tơi chưa giải thích được vì sao thời gian phục 
hồi của động tác giạng vai lại kéo dài hơn nhiều so 
với động tác gấp khuỷu mặc dù khoảng cách từ vị trí 
mối nối đến cơ đích khơng khác biệt nhiều, và cũng 
được chuyển nối trực tiếp và chọn lọc. Tham khảo y 
văn, chúng tơi cũng chưa thấy tác giả nào đề cập và 
giải thích vấn đề này. 
Báo cáo của Bhandari [13], trong 23 BN, thời 
gian phục hồi giạng vai đạt M3 từ 7 đến 20 tháng. 
Phần 4: Phần vi phẫu
281
Tuy nhiên, sau theo dõi 32 tháng, tỷ lệ giạng vai trung 
bình đạt 123˚. Leechavengvongs [14], phục hồi cơ delta 
M2 trong thời gian từ 6 đến 9 tháng và ở thời điểm theo 
dõi cuối cùng 13/15 BN đạt M4, giạng vai trung bình là 
115˚. Như vậy, kết quả bước đầu của chúng tơi đạt được 
cũng tương ứng với các tác giả khác.
Di chứng sau khi lấy thần kinh nơi cho và một số yếu 
tố ảnh hưởng
Một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất đối với 
chuyển thần kinh theo Orberlin I và II là di chứng vận động 
và cảm giác của bàn tay sau khi cắt bỏ một vài bĩ sợi của 
thần kinh giữa và thần kinh trụ. Về mặt cảm giác, chúng tơi 
ghi nhận thấy tất cả 45/45BN đều cĩ rối loạn cảm giác kiểu 
tê bì, kim châm sau mổ, tuy nhiên khả năng phân biệt cảm 
giác hai điểm thay đổi khơng nhiều và nằm trong giới hạn 
S3, S4 theo thang điểm BMRC. Các tổn thương về cảm 
giác này thường giảm dần và mất đi sau 12 tháng. 
Đánh giá sức nắm bàn tay sau chuyển thần kinh, chúng 
tơi thấy sự phục hồi và cải thiện theo 3 pha. Pha đầu ở 
những tuần đầu sau mổ, sức nắm bàn tay yếu hơn so với 
trước mổ trung bình từ 5,3 ± 2,5 kg xuống cịn 3,8 ± 1,1 
kg. Pha thứ hai, khoảng từ tháng thứ 3 trở đi sức nắm 
bàn tay trở lại thời điểm trước mổ và cải thiện rất ít cho 
đến khi cĩ sự phục hồi gấp khuỷu. Pha thứ 3, khi cĩ sự 
phục hồi gấp khuỷu M4, thì sức nắm bàn tay cải thiện rõ. 
Tại thời điểm đánh giá cuối cùng, sức nắm trung bình là 
11,5 ± 3,1 kg , tăng 6 kg. Như vậy, việc lấy đi một phần 
thần kinh giữa, trụ khơng những khơng làm sức nắm gấp 
bàn- ngĩn tay yếu đi mà cịn khỏe hơn thời điểm trước khi 
phẫu thuật. Nghiên cứu của các tác giả [8], [11], [13] cũng 
cho thấy chiều hướng thay đổi tương tự. Hiện tượng tăng 
sức nắm bàn tay và ngĩn tay ở thời điểm cuối cùng, theo 
chúng tơi cĩ 2 lý do: thứ nhất là khi phục hồi động tác gấp 
khuỷu, BN sẽ sử dụng được tay này thực hiện các động 
tác trong lao động sinh hoạt hàng ngày, nên sức nắm gấp 
bàn ngĩn tay dần được cải thiện và ngày càng tăng lên. 
Thứ hai là thời gian sau thời điểm chấn thương do tai nạn 
và sang chấn do phẫu thuật càng dài thì thần kinh giữa và 
thần kinh trụ càng được phục hồi trở về gần bình thường. 
Điều này được thể hiện rõ ở những BN phải chờ đợi tập 
luyện cho sức cơ đủ khỏe để thực hiện phẫu thuật chuyển 
gân phục hồi gấp khuỷu theo phương pháp Steindler.
Các nghiên cứu trước đĩ về phương pháp Orberlin I và 
II đều cho thấy hiện tượng rối loạn cảm giác và yếu vận 
động các cơ ở cẳng tay và bàn tay phục hồi và khơng để lại 
di chứng nào.
Tuy nhiên, chúng tơi cĩ gặp 1 trường hợp cĩ cảm giác 
tê bì, buốt vùng chi phối của thần kinh giữa kéo dài 7 tháng, 
triệu chứng này đang giảm dần nhưng chậm. Về mặt vận 
động, cĩ 1 trường hợp liệt vận động cơ gấp dài ngĩn cái 
và cơ gấp nơng, sâu ngĩn II. 1 trường hợp liệt vận động cơ 
gấp nơng sâu ngĩn trỏ. Trong đĩ cả hai trường hợp phục 
hồi, đạt mức M3 ở thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật, phục 
hồi đạt mức M4 ở thời điểm 9 tháng. Chúng tơi khơng ghi 
nhận thấy cĩ trường hợp nào yếu vận động các cơ nội tại 
bàn tay. 
Đánh giá sức nâng vai, duỗi khuỷu tại thời điểm trước 
và sau phẫu thuật ở những BN được phục hồi giạng vai 
bằng chuyển thần kinh, chúng tơi thấy, ngay sau phẫu 
thuật, sức của cơ thang và cơ tam đầu cánh tay cĩ yếu rõ 
rệt từ M4 xuống M3+ ở hầu hết các trường hợp, song nĩ 
dần trở lại như trước mổ ở thời điểm sau mổ 12 tháng. Các 
tác giả Leechavengvongs [9],[14], Bhandari [13], Colbert 
[17] đều khẳng định khơng để lại di chứng sau khi lấy đi 
thần kinh đầu dài cơ tam đầu và thần kinh XI.
Mặc dù thần kinh XI được chuyển cho thần kinh trên 
vai nhưng cơ thang vẫn khơng bị mất đi chức năng vì cĩ 
sự bù trừ từ các nhánh thần kinh vận động của đám rối cổ 
và của các rễ thần kinh ngực. Đối với cơ tam đầu, ngay 
sau mổ, sức duỗi khuỷu gần như khơng thay đổi ở những 
BN chỉ tổn thương C5, C6 nhưng lại yếu rõ ở những BN 
tổn thương cả rễ C7. Điều này cĩ thể được giải thích là 
do phần thần kinh quay chi phối cho cơ tam đầu bị tổn 
thương nhiều hơn ở trường hợp cĩ tổn thương cả rễ C7, 
nên khi lấy đi thần kinh của đầu dài, sẽ làm cho cơ tam đầu 
yếu đi rõ rệt.
Việc điều trị vật lý trị liệu, phục hồi chức năng đặc biệt 
là điện xung, điện phân ở những vị trí các cơ bị liệt trong 
thời gian trước và sau mổ, cùng với việc dùng thuốc bổ 
thần kinh sau mổ liên tục từ 6 tháng đến 1 năm cũng cĩ 
gá trị nhất định đến kết quả phục hồi gấp khuỷu và giạng 
vai. Trong nghiên cứu của chúng tơi, hầu hết những BN 
phục hồi sớm hơn đều là những BN được điều trị phối hợp 
theo quy cách như trên. Điều này đã được y văn đề cập 
đến và nêu lên giá trị của lý liệu là: các cơ mặc dù bị liệt 
do mất chi phối thần kinh nhưng vẫn được co cơ thụ động 
nhờ những xung điện kích thích từ bên ngồi, làm giảm sự 
thối hĩa cơ. Chính vì vậy, sự tái chi phối thần kinh được 
cơ tiếp nhận nhanh chĩng.
KẾT LUẬN
Kết quả phục hồi gấp khuỷu và giạng vai:
Chuyển thần kinh kép phục hồi gấp khuỷu thời gian 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012
282
phục hồi sớm, đạt sức gấp khuỷu M3 trung bình là 4 
± 0,8 tháng. 34/35 trường hợp đạt sức gấp khuỷu M4, 
với khả năng nâng tạ trung bình 6,5 ± 1,4kg. Gấp 
khuỷu đạt ở mức tốt và rất tốt là 97,1%.
Phục hồi giạng và xoay ngồi khớp vai chậm hơn, 
đạt mức M3 trung bình là 12 ± 0,8 tháng và M4 trung 
bình là 16 ± 0,7 tháng. Giạng và xoay ngồi khớp 
vai trung bình là 100˚ ± 50˚, đạt mức tốt và rất tốt là 
9/11BN. 
Di chứng sau lấy thần kinh và yếu tố ảnh hưởng:
Rối loạn cảm giác kiểu tê bì, kim châm mức độ 
nhẹ, yếu vận động gấp bàn ngĩn tay, nâng vai, duỗi 
khuỷu thấy ở 100% BN ngay sau mổ, các dấu hiệu 
này giảm và trở về bình thường như trước mổ sau 
12 tháng. Hai trường hợp giảm vận động cơ gấp dài 
ngĩn cái và cơ gấp nơng, sâu ngĩn trỏ đang phục hồi 
ở mức M3 sau mổ 3 tháng, và phục hồi mức M4 tại 
thời điểm đánh giá. Sức nắm bàn tay diễn biến theo 
3 pha, tăng trung bình từ 5,3 ± 2,5 kg trước mổ lên 
11,5 ± 3,1 kg.
Tài liệu tham khảo
1.	 Lê	Văn	Đồn,	Chế	Đình	Nghĩa,	Nguyễn	Viết	Ngọc,	
Ngơ	Thái	Hưng,	Nguyễn	Văn	Phú,	Bùi	Việt	Hùng,	
Trương	Anh	Dũng,	“Kết quả bước đầu chuyển thần 
kinh kép phục hồi gấp khuỷu điều trị liệt các thân trên 
đám rối thần kinh cánh tay”, Tạp chí Chấn thương 
Chỉnh hình Việt Nam, Hội nghị khoa học thường niên 
lần thứ XI, Số đặc biệt, 2012, tr. 295-302.
2.	 Nguyễn	Việt	Tiến,	Nguyễn	Viết	Ngọc,	Lê	Văn	Đồn,	
Chế	Đình	Nghĩa	và	cs, “Kết quả chuyển rễ thần kinh 
C7 từ bên lành trong điều trị nhổ các rễ thần kinh đám 
rối cánh tay”, Tạp chí Y dược học lâm sàng 108, 2011, 
tập 6, tr. 299–306.
3.	 Lê	Văn	Đồn,	Nguyễn	Việt	 Tiến,	Ngơ	Thái	Hưng,	
Trần	Duy	Hưng, “Phục hồi gấp khuỷu bằng phẫu thuật 
chuyển gân theo phương pháp Steindler”, Tạp chí Y 
Dược học quân sự, 2009, số 2, tập 34, tr. 32 – 36.
4.	 Ngơ	 Hồng	 Trung, Đánh giá kết quả phẫu thuật 
chuyển gân cơ thang điều trị di chứng liệt cơ delta 
tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Luận văn 
chuyên khoa cấp II, Học viện Quân Y, Hà Nội 2009.
5.	 Võ	Văn	Châu, “Chuyển ghép thần kinh XI vào thần 
kinh cơ bì để phục hồi gập khuỷu trong liệt đám rối 
cánh tay”, Thời sự y dược học, 2005, số 4, tập 10, tr. 
195-202.
6.	 Songcharoen	P.,	“Brachial plexus surgery: a report of 
520 cases”, Microsurgery. 1995, 16, pp. 35-39.
7.	 Oberlin	 C.,	 Béal	 D.,	 Leechavengvongs	 S.,	 Salon	
A.,	Dauge	M.C.,	Sarcy	J.J.,	“Nerve transfer to biceps 
muscle using a part of ulnar nerve for C5-C6 avulsion 
of the brachial plexus: Anatomical study and report of 
four cases”, J Hand Surg. 1994, 19A, pp. 232-237.
8.	 Mackinnon	E.S.,	Novak	B.C.,	Myckatyn	M.T.,	Tung	
H.T.,	Louis	St., “Results of reinnervation of the biceps 
and brachialis muscles with a double fascicular 
transfer for elbow flexion”, J Hand Surg, 2005, 30A, 
pp. 978-985.
9.	 Leechavengvongs	S.,	Witoonchart	K.,	Uerpairojkit	
C.,	 Thuvasethakul	 P., “Nerve transfer to deltoid 
muscles using the nerve to the long head of triceps, 
part II: A report of 7 cases”, J Hand Surg., 2003, 28A, 
pp. 633-638.
10.	 	Witoonchart	K.,	Leechavengvongs	S.,	Uerpairojkit	
C.,	 Thuvasethakul P., Wongnopsuwan V., “Nerve 
transfer to deltoid muscle using the nerve to the long 
head of triceps, Part I: An anatomic feasibility study”, J 
Hand Surg., 2003, 28A, pp. 628-632.
11.	 	Livernaux	P.A.,	Diaz	L.C.,	Beaulieu	J.Y.,	Durand	
S.,	Oberlin	C., “Preliminary Results of Double Nerve 
Transfer to Restore Elbow Flexion in Upper Type 
Brachial Plexus Palsies”, Plast. Reconstr. Surg., 
2006, 117, pp. 915-919.
12.	 Samardzic	M.,	 Raselie	 L.,	 Grujicic	 D.,	 Milicic	 B.,	
“Results of nerve transfer to the muculocutaneous 
and axillary nerve”, Neurosurgery, 2000, 46, pp. 93-
103.
13.	 	 Bhandari	 P.S.,	 Sadhotra	 L.P.,	 Bhargava	 P.,	
Bath	 A.S., Mukherjee M.K., Bhatti T.S., Maurya 
S., “Multiple nerve transfer for the reanimation of 
shoulder and elbow functions in irreparable C5, C6 
and upper truncal lesions of the brachial plexus”, Indi 
J of Neurotra, 2008, 5(2), pp. 95-104.
Phần 4: Phần vi phẫu
283
14.	 	Leechavengvongs	S.,	Witoonchart	K.,	Uerpairojkit	
C.,	 Thuvasethakul	 P.,	 Malungpaishrope	 K., 
“Combined nerve transfers for C5 and C6 brachial 
plexus avulsion injury”, J Hand Surg., 2006, 31A, pp. 
183-189.
15.	 	 Gu	 Y.D.,	 Ma	 M.K., “Use of the phrenic nerve for 
brachial plexus reconstruction”, Clin Orthop., 1996, 
323, pp. 119-121.
16.	 	 Waikakul	 S.,	 Wongtragul	 S.,	 Vanadurongwan	
V., “Restoration of elbow flexion in brachial plexus 
avulsion injury: Comparing spinal accessory nerve 
transfer with intercostals nerve transfer”, J Hand 
Surg., 1999, 24A, pp. 571-577.
17.	 Colbert	 S.H.,	 Mackinnon	 S., “Posterior approach 
for double nerve transfer for restoration of shoulder 
function in upper brachial plexus palsy”, J Hand Surg., 
2006, 1, pp. 71-77.
Địa chỉ liên lạc: PGS. TS. Lê Văn Đồn, Phĩ Viện trưởng Viện CTCH, Chủ nhiệm khoa Chấn thương Chi trên và Vi 
phẫu, Bệnh viện TƯQĐ 108, số 1 Trần Hưng Đạo, Hà Nội. email: [email protected]

File đính kèm:

  • pdfphau_thuat_chuyen_than_kinh_phuc_hoi_giang_vai_va_gap_khuyu.pdf